Trưa ngày rằm tháng chạp năm Giáp Tuất (19.1.1935), mẹ tôi, em trai tôi và một người em họ đưa tôi ra ga Hàng Cỏ để đáp xe lửa vô Nam. Hôm đó trời u ám, mưa phùn lất phất. Buồn vô hạn. Ở sân ga mẹ tôi chỉ dặn tôi vào Nam thế nào cũng đi thăm bác Ba tôi ở Long Xuyên (làng Tân Thạnh) rồi viết thư ra để người biết mà yên lòng. Anh Đỗ Văn Hách, bạn học trường Bưởi và trường Công chánh, cũng được bổ vào cùng sở với tôi và cùng đi một chuyến xe. (ch. X). Thời đó đường xe lửa xuyên Đông Dương chưa hoàn thành, còn khúc từ Quy Nhơn tới Nha Trang phải đi bằng xe ca. Tôi được thấy cảnh rừng dừa bát ngát ở Tam Quan, cảnh núi non hùng vĩ và biển cả mênh mông ở Đèo Cả, cảnh vườn cao su âm u ở Biên Hoà. Sáng 22.1, tới Sài Gòn tươi sáng và náo nhiệt; ánh sáng tưng bừng trên ngọn những hàng sao, dầu cao vút, đường phố nhộn nhịp người qua lại, phụ nữ hầu hết bận áo cụt, cảnh đó, sau tôi ghi lại rải rác trong các tác phẩm của tôi. Lãnh việc ở Sở Thuỷ lợi miền Nam Đông Dương xong, từ Sông Cầu trở vào (gồm cả Cao Miên và một vài tỉnh Nam Lào) thì tới Tết âm lịch, tôi về Tân Thạnh thăm hai bác và các anh chị tôi. Bác cháu, anh em mừng mừng tủi tủi, nói chuyện với nhau suốt ngày hôm đó. Hai hôm sau bác tôi đưa tôi đi chào vài người bà con trong họ, mùng 3 tôi qua Long Xuyên để bắt đầu làm việc. Công việc chúng tôi là đo mực đất cao thấp ở miền Tây từ Châu Đốc, Long Xuyên qua Rạch Giá, xuống Sa Đéc, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau; từ mực đất đó mà đo xuống mực nước sông rạch để tính ra đường nước chảy khi thảo kế hoạch thuỷ lợi (…) Công việc phải làm ban đêm, dùng đèn khí đá. Có hai kíp thay phiên nhau, một kíp từ 6 giờ chiều tới nửa đêm, một kíp từ nửa đêm đến 6 giờ sáng (…) Mỗi đêm chúng tôi đo được từ 3 đến 4 cây số, đo tới đâu, ghe dời chỗ theo tới đó vì chúng tôi ăn ở trong những chiếc ghe hầu, dài khoảng 4 thước, rộng non thước rưỡi, cứ như vậy tiến hoài, mỗi ngày ăn chợ một nơi. (ch. X). Nhờ vậy mà trong hai năm 1935-36 tôi biết được gần hết cảnh miền Tây. Sau tôi lại biết thêm cảnh miền Đông, và trong ch. X tôi đã ghi lại vắn tắt đặc điểm của mỗi miền. Tôi nhận thấy: (…) Nam Việt có nhiều vẻ, có đi nhiều mới biết được và có ở lâu mới thấy thích. Xét chung thì miền Tây đẹp nhờ trăng và nước. Ở đây nhiều sông rạch hơn Hàng Châu và càng gần Xích đạo thì trăng càng tỏ. Thi sĩ Trung Hoa thích cảnh trăng ẩn hiện sau đám mây, nửa mờ nửa tỏ; tôi cho rằng trăng vằng vặc trên sông nước mới đẹp. Trăng ở đây tỏ nhất vào giữa tháng giêng và tháng hai âm lịch. Vào những khoảng đó nếu làm việc ở miệt vườn như Long Xuyên, Cần Thơ, mà lại nhằm ngày rằm, làng nào cũng cúng đình thì thế nào tôi cũng dạo trên bờ rạch để ngắm cảnh (…) (ch. X). Làm việc ban đêm ở ngoài trời, chúng tôi được tự do, dân chủ (…), lại có nhiều thì giờ rảnh. Nếu làm kíp đầu hôm thì cả ngày hôm sau không biết làm gì cho hết ngày. Ở gần một châu thành, có thể đi dạo phố, vào tiệm tìm sách mới, rủ nhau đi coi cảnh chùa, thánh thất Cao Đài, chụp hình… Nhưng ở giữa đồng, gặp hồi mưa gió liên tiếp cả tuần thì rất buồn, suốt ngày nằm co trong chiếc ghe hầu, cửa đóng kín, trên những kinh Xà No, Phụng Hiệp, xa chợ, xa bạn, xa nhà! Những lúc đó tôi phải kiếm cái gì để đọc, đọc bậy bạ, hỗn độn: Ngày nay, Phổ thông bán nguyệt san, tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn – chỉ có tiểu thuyết của Lê Văn Trương, các hoạ đồ trong bọn tôi rất mê là tôi không đọc nổi – phóng sự của Maurice Dekobra, truyện trinh thám của Conan Doyle, La Sonate à Kreutzer của Tolstoi, các sách Phật học, Thông thiên học… Vẫn không sao hết được 7-8 giờ một ngày. Lại chỉ có cách học chữ Hán như năm 1934 là phương thuốc thần hiệu hơn hết. Bác tôi đưa cho tôi bộ Mạnh Tử, một bộ Ẩm Băng Thất của Lương Khải Siêu. Ẩm Băng Thất là một trong những bút hiệu của Lương có nghĩa là ông phải uống nước đá (băng) nếu không thì lòng ông cuồng nhiệt về việc cứu nước cứu dân, nóng quá không chịu nổi. Không có tự vị để tra, cho nên gặp chữ nào, câu nào không hiểu, tôi gom lại, chép gởi về bác tôi nhờ người giảng. Cách đó bất tiện, nhưng cứ mót từng chút như vậy, lần lần cũng biết thêm mà vỡ nghĩa. Hồi đi đo ở Cần Thơ, thấy một Hoa kiều ngồi lề đường bán bộ Văn tâm điêu long[1] mà tôi muốn biết từ hồi học với bác Hai tôi ở Phương Khê, tôi mua liền, về ghe lật ra coi, đọc không nổi. Bộ đó của Lưu Hiệp (thế kỷ thứ VI) viết theo thể biền ngẫu, là bộ phê bình văn học đầu tiên của Trung Hoa. Tôi thường kiếm những bộ cổ văn có dịch ra bạch thoại và chú thích kỹ lưỡng như bộ Cổ văn quan chỉ (tuyển những bài cổ văn hay nhất từ thời Chiến Quốc đến đời Minh; quan chỉ có nghĩa là coi (quan) bộ đó rồi thì có thể ngừng (chỉ), không coi cổ văn nào khác nữa vì bao nhiêu tinh tuý của cổ văn ở cả trong đó rồi), vì chỗ nào đọc cổ văn không hiểu thì tôi coi bản bạch thoại, may ra đoán được; cũng có chỗ bí bạch thoại thì cổ văn giúp tôi học thêm được bạch thoại. Bộ đó tiện hơn bộ Cổ văn bình chú. Một hôm, vào trú mưa trong một tiệm tạp hoá ở Bạc Liêu, tôi mua được bộ Nho giáo của Trần Trọng Kim để lẫn lộn với các hộp đèn cầy: bộ đó rất có lợi cho tôi vì tác giả khi trích dẫn, chép cả nguyên văn chữ Hán rồi phiên âm và dịch. Học chữ Hán cũng không hết thì giờ, tôi xoay ra viết hồi ký, nhật ký… Viết hồi ký để cho vơi lòng nhớ quê (…). Say mê vô cùng. Cầm bút lúc nào là tâm hồn tôi rung động nhè nhẹ lúc đó, như được nghe một bản nhạc êm đềm, bản nhạc của cố hương và dĩ vãng. Viết hồi ký để ôn lại cái vui đã qua thì viết nhật ký để ghi lại cái vui hiện tại: cái vui những đêm trăng rạo rực, thả thuyền trên rạch Cái Răng hay Bình Thuỷ[2] mà nghe tiếng đàn tranh, đàn nguyệt văng vẳng bất tuyệt trên bờ, cứ tiếng phía sau gần tắt thì lại tiếp tiếng ở phía trước; cái vui nhìn mặt trời đỏ như than hồng, lớn như chiếc mân, từ từ hạ xuống một cánh đồng mênh mông phẳng lì, mờ mờ khói toả ở Bạc Liêu hay Rạch Giá; rồi cảnh âm u “trong rừng đước, rừng vẹt ở Cà Mau, cảnh phồn thịnh, vườn tược mát rượi thoang thoảng hương thơm ở Cần Thơ, Sa Đéc…”. Tôi cứ nhớ đâu chép đấy, viết bừa đi, chẳng cần bố cục, cũng chẳng sửa, viết có khi quên giờ giấc, mỏi tay đặt cây bút xuống nhìn lên bờ thì làng xóm đã nhoà nhoà sau làn sương mỏng. Viết xong tôi không coi lại, cất đi, có dịp về Tân Thạnh sẽ đưa bác tôi coi. Mỗi tháng trung bình tôi viết cho bác tôi một bức thư cũng để kể những việc hàng ngày: cảm tưởng sau khi thăm ai, khi vào một thánh thất, nghe người giữ thánh thất gọi tôi bằng “anh”, tức coi tôi như người đồng đạo; hoặc khi vào một chùa ở Rạch Giá nhìn một vị hoà thượng thản nhiên ngồi như Phật trên toà cho Phật tử già trẻ sụp xuống lạy, bên cạnh là một bàn đầy những trái ngon nhất, quý nhất với bức tượng nhỏ của Napoléon bằng thạch cao… Bác tôi thường khen là viết hay. (…) Tóm lại, hai năm đo đường ở Hậu Giang là những năm vui nhất trong đời tôi mà cũng có ích nhất: vui vì thấy những cảnh mới, gặp được bạn mới, nhất là được ở gần bác; có ích vì nhãn quan, kiến thức được mở mang, và cũng vì học được thêm chữ Hán, sử dụng ngòi bút cho quen tay. (ch. X).
°
ĐỜI CÔNG CHỨC Ở SÀI GÒN Năm 1937, tôi cưới vợ - cô Trịnh Thị Tuệ, sinh ở Hà Nội năm 1915, tổ quán ở Mọc Chính Kinh, Hà Đông, con một cụ Tham làm việc ở Giá Rai – Bạc Liêu – năm sau sinh con trai đầu lòng đặt tên là Nguyễn Nhật Đức, rồi sau không sinh nữa. Cưới vợ rồi, tôi đổi về làm việc ở Sài Gòn luôn cho tới 1945. Công việc phòng giấy rất chán; đời sống lại đắt đỏ, gánh gia đình nặng vì từ 1940, mẹ tôi mất, hai em gái tôi vô ở chung với hai vợ chồng tôi. Mới đầu nhà ở Khánh Hội đường Guillaume Martin[3], sau dọn lại 50 Monceau (Huỳnh Tịnh Của), khu Tân Định. Mỗi năm tôi đi kinh lý ba bốn lần khắp các tỉnh hoặc bằng xe hơi, hoặc bằng tàu thuỷ của sở; có lần lên Nam Vang, Siemreap, nơi có cổ tích Đế Thiên Đế Thích, có lần lên tới thác Khône ở Hạ Lào. Thường mỗi năm tôi xin nghỉ nửa tháng, một tháng về Tân Thạnh thăm bác tôi hoặc ra Tuy Hoà (Trung Việt) thăm ông nhạc tôi đã đổi ra làm việc ở Sở Thuỷ lợi tại đó và nhân tiện ghé thăm cảnh Nha Trang, Đại Lãnh (Đèo Cả), Sông Cầu, Qui Nhơn. Tôi lại có ba dịp về quê ở Bắc; lần đầu khi mẹ tôi đau nặng rồi mất năm 1940; lần thứ nhì để gả em gái tôi, cô Nguyễn Thị Mùi năm 1943 và nhân tiện xây mộ tổ tiên; lần thứ ba để thi vấn đáp và thực tập kỹ sư năm 1944. Chỉ những dịp nghỉ, đi xa như vậy là tôi thấy vui; còn ở Sài Gòn, ngoài giờ làm việc, ngoài những lúc vui chơi với con, dạy học nó, tôi không có một tiêu khiển nào cả; không thích coi cải lương, lâu lâu mới coi hát bóng và tôi lại đọc sách để qua ngày, nhân đó mà tôi tập viết. Dưới đây, tôi chép lại trọn chương XIII – Tôi tập viết – trong bộ Hồi Kí.°
TÔI ĐỌC SÁCH ĐỂ TIÊU KHIỂN VÀ HỌC THÊM Hồi học trường Bưởi có lần ngồi trên đường Cổ Ngư ngắm mây nước Hồ Tây với bạn, tôi cao hứng ngâm câu “Nhập thế cục bất khả vô văn tự”[4]. Nhưng đó chỉ là một ý tưởng thoáng qua, nhiều lắm thì cũng chỉ là một mơ mộng chung của thanh niên khi nhớ một áng văn hay trước một cảnh đẹp, chứ chưa gọi là một ý muốn, một quyết định được. Tổ tiên tôi bên nội cũng như bên ngoại không ai viết sách. Thời xưa, nhà Nho nào cũng vậy, không nghĩ tới việc viết sách vì số người đọc được rất ít, mà sách in ra không có lệ trả tác quyền: viết sách không phải làm một nghề. Bác Hai tôi còn muốn tôi đừng học văn thơ nữa mà chuyên tâm vào khoa học. Tôi lại không được một giáo sư nào khuyến khích viết văn như hai bạn Võ Phiến, Nguyễn Hữu Ngư. Cho nên khi ở trường Công chánh ra tôi đã quên từ lâu câu “Nhập thế cục bất khả vô văn tự” rồi. Hai năm lênh đênh trên sông rạch miền Tây, sở dĩ tôi chép hồi ký và nhật ký chỉ là để giải muộn, cho nên chép xong rồi bỏ, không hề đọc lại, nay cũng không giữ lại nữa. Từ năm 1938 về Sài Gòn làm việc, tôi không được rãnh như hồi đo mực đất, nhưng việc nhà chẳng có gì, mỗi ngày có cả một buổi tối và mỗi tuần cả một ngày ở không. Tôi không có khiếu về âm nhạc, không thích đánh cờ, rất ghét đánh bài, cũng không ưa họp bạn tán chuyện, nhậu nhẹt hoặc rủ nhau nhảy đầm như hầu hết thanh niên thời đó. Rốt cuộc, chỉ còn có cách là đọc sách, học thêm. Một anh bạn trường Công chánh sau bốn năm xa cách gặp tôi ở Sài Gòn, thấy tôi dịch Hán văn, ngạc nhiên hỏi: “Anh học chữ Hán hồi nào vậy”, tôi đáp: “Học trong khi các anh nhảy đầm” – Anh ta cười. Nhiều người từ bạn bè đến độc giả bảo tôi sống như một nhà sư khổ hạnh. Tôi không biết nhà sư khổ hạnh có thấy khổ hay không khi họ nhịn ăn, nhịn uống, nhịn ngủ, tự quất vào thân tới rớm máu, hoặc khi họ tĩnh toạ cả chục năm nắm chặt bàn tay tới nỗi móng tay mọc dài, xuyên thấu lòng bàn tay (chắc phải có người đút cho họ ăn, đổ nước vào miệng cho họ uống?); chứ riêng tôi chẳng hề thấy lối sống của tôi là khắc khổ. Năm 1946 hay 1947[5], tôi làm đôi câu đối: ------Trị ái thư, loạn ái thư, thư trung hữu hữu,------Bần dĩ đạo, phú dĩ đạo, đạo ngoại không không. mà một ông bạn dịch là: ------Trị yêu sách, loạn yêu sách, trong sách chi chi cũng có,------Nghèo giữ đạo, giàu giữ đạo, ngoài đạo thảy thảy đều không. “Thư trung hữu hữu”. Trong sách có nhiều thứ lắm chứ. Chương I cuốn Tự học, một nhu cầu của thời đại, tôi đã trích nhiều danh ngôn về thú đọc sách, như: “Sự tiếp xúc với sách an ủi tôi trong cảnh già và cảnh cô độc (...) Những nỗi đau khổ nhờ nó mà bớt nhói. Muốn tiêu khiển, tôi chỉ có cách đọc sách” (Montage). “Sự học đối với tôi là phương thuốc công hiệu nhất để trị những cái tởm ở đời, vì tôi chưa lần nào buồn rầu đến nỗi đọc sách một giờ mà không hết buồn” (Montesquieu). “Sự học trang hoàng đời sống và làm cho ta mến đời hơn. Nó là một thú vui không khi nào giảm” (J. Viênnt). Còn Khổng Tử thì suốt đời “học bất yếm” (học không chán). Tôi cũng như Montaigne, muốn tiêu khiển chỉ có cách đọc sách và cũng như Khổng Tử, học bất yếm. Etiemble, tác giả cuốn Confucius (Gallimard – 1960), bảo đã mang ơn Khổng Tử ngang với Montaigne, chắc cũng là hạng ham đọc sách. Bác Hai tôi từ hồi tôi 16-17 tuổi, bảo rằng tôi “đam thư” nghĩa là mê sách. Chữ “đam” đó dùng theo nghĩa gốc là quá mức, mưa dầm. Đó là một tính bẩm sinh có lẽ do di truyền của ông nội, bà nội tôi. Tôi nghĩ không có gì đáng khen cả, ở đời thiếu gì người mê sách. Về Sài Gòn dễ kiếm sách báo để đọc. Sách báo Việt thời đó không có bao nhiêu, tôi lựa mua hết thảy những gì đáng đọc được: báo Ngày nay, Thanh nghị, Tri tân, Tao đàn, Phụ nữ tân văn; sách của Tự Lực văn đoàn, nhóm Hàn Thuyên, nhà Tân dân (một số mà thôi)… Sách Pháp, vì ít tiền, tôi chỉ mua một số nhỏ còn thì mượn của thư viện thành phố. Chính ở thư viện này, tại phòng riêng cho mượn sách, tôi thường gặp ông Nguyễn Ngọc Thơ mà tôi đã quen ở Rạch Giá, hồi ông còn làm tri huyện. Cũng mắc một bệnh đọc sách nên chúng tôi lần lần thân với nhau, chỉ thân trong tình sách vở mà thôi. Sách Trung Hoa thì mỗi tháng độ một lần tôi vào Chợ Lớn, đường Lính thuỷ - Rue de Marins[6] – để tìm mua. Muốn tiết kiệm, tôi mua những sách rẻ tiền, in xấu, nhiều lỗi, không có chú thích. Đó là một lầm lớn: vừa tốn tiền, vừa mất thì giờ đọc. Cũng có vài nhà xuất bản lớn, in những sách hay, không lỗi, không chú thích, giá bình dân, như Thương vụ ấn thư quán ở Thượng Hải, nhưng thời đó tôi chưa biết. Tôi cũng không biết viết thư xin thư mục của các nhà xuất bản lớn ở Trung Hoa, Pháp. Tóm lại trên con đường tự học, tôi thiếu phương tiện, tốn công nhiều mà kết quả ít. Vì nghĩ vậy, sau này tôi viết cuốn Tự học để thành công (sau sửa chữa, đổi nhan đề là Tự học, một nhu cầu của thời đại) để hướng dẫn thanh niên tránh lỗi lầm của tôi. Khi thế chiến xảy ra, sách ngoại quốc không vô được nữa, mỗi chủ nhật tôi lại một tiệm sách cũ ở đường Gia Long[7] và mấy quán sách cũ ở trước Nhà hát Thành phố đường Catinat[8], thỉnh thoảng cũng kiếm được một cuốn lý thú như cuốn Le Roman russe của E.M Vogué; nhưng không có sách Trung Hoa. Ở những nơi đó tôi thường gặp nhiều người ham đọc sách, nhưng tôi không làm quen; đó cũng là một sở đoản; vì ít giao du nên không học được kinh nghiệm của người. Tôi vào hạng đọc sách chứ không chơi sách như ông Vương Hồng Sển: không mua những sách đẹp, quý, hiếm, tiền đâu mà mua? – chỉ lựa những cuốn có ích hoặc tôi thích thôi. Sau này, vào khoảng 1960, tôi thấy lối chơi sách khá đặc biệt: một độc giả lại thăm tôi bảo bất kỳ tác phẩm nào của tôi ông cũng mua, chẳng những vậy, cuốn nào tái bản mà tôi có thêm bớt, sửa chữa dù ít, cũng mua đủ, như vậy phải đọc các báo, phải đều đều lại tiệm sách để theo dõi sự xuất bản sách của tôi. Ông ấy để sách tôi vào một chỗ, không cho ai mượn. Tôi lấy làm hân hạnh lắm; nhưng nghĩ bụng có những cuốn tầm thường thì giữ làm gì[9]. Ông ấy chỉ lại chỗ tôi một lần đó thôi. Trong nước không biết có được ba người như vậy chăng. Từ đó tôi không gặp lại ông, cũng không nhận được bức thư nào của ông. Người khiêm tốn, thành thực, nhã nhặn. Tôi cũng vô tình không hỏi tính danh, địa chỉ của ông nữa. Không biết hiện nay ông ở đâu và tủ sách của ông còn không. Sách nào mua về tôi cũng đọc, dù chán tôi cũng ráng, để biết qua nội dung. Tôi biết nhiều người mua về, lật coi qua rồi để đó, rất ít khi đọc, rồi lần sau lại mua thêm, số sách mỗi ngày một tăng tới lúc quên không biết mình có những cuốn gì nữa. Đặc biệt nhất là một ông bạn tôi, cử nhân luật, cứ ít tháng lại gởi mua một chồng sách ở Pháp; nhận được sách ông xếp thật ngay ngắn trên một cái bàn gần đầu giường rồi ngắm nghía, một lát thiu thiu ngủ. Ngày nào cũng vậy mà không cuốn nào đọc được mười trang. Mỗi cuốn ông chỉ coi cái bìa, vài trang đầu và bảng mục lục. Hễ gói sau ở Pháp tới, ông dẹp chồng cũ đi, thay vào chồng mới. Kiểu chơi đó thật kỳ cục. Tôi coi sách chỉ là một phương tiện để học, để tra cứu. Khi đọc tôi luôn luôn có một cây bút chì để đánh dấu những chỗ đáng nhớ hoặc có thể dùng tới sau này; cuốn nào thường phải đọc lại thì tôi ghi những ý quan trọng cùng số trang trên mấy trang trắng (page de garde) ở đầu sách. Trước năm 1950, tôi không có ý chuyên viết sách, sống về nghề viết văn, cũng không có ý khảo cứu, mà số sách trong nhà lại ít, độ dăm trăm cuốn, nên tôi thấy không cần phải làm thẻ cho mỗi cuốn, cũng không cần đóng tủ để chứa. Tôi chỉ có mỗi cái tủ nhỏ cao độ một thước, bề ngang nửa thước, bề sâu bốn tấc, với một giỏ mây lớn bằng cái rương, mua ở Chợ Cũ. Những sách có giá trị tôi sắp vào trong tủ, còn bao nhiêu cho cả vào trong giỏ mây. Về sau sách mỗi ngày mỗi nhiều, tới ba ngàn cuốn, mới thấy bất tiện vì thiếu thẻ, nhưng lúc đó tôi bận công việc viết lách, không thể bỏ ra vài ba tháng để làm thẻ mà cũng không thể nhờ ai được, nên đành để như cũ, chỉ mua thêm ít tủ nữa. Tuy nhiên sách nào thường dùng tôi để riêng, sắp theo từng loại, không cho ai mượn, vợ con muốn coi cũng phải hỏi tôi. Có những cuốn cả năm tôi không dùng tới, nhưng bất thần tôi chỉ cần tra trong mươi phút thôi mà kiếm không ra thì bực lắm; có cuốn mất rồi, không sao mua được nữa, dù có cả ngàn đồng; như vậy sách đối với tôi còn quan trọng hơn cái cày đối với người làm ruộng, cái búa cái đe đối với thợ rèn, cho nên không thể cho ra ngoài được. Điều đó, tôi phải nhắc đi nhắc lại nhiều lần với vợ con và phải nhiều năm họ mới hiểu được. Những sách tôi đã đọc rồi mà cho là không quan trọng, hoặc dùng rời, không dùng tới nữa thì tôi để riêng, nhưng cũng sắp sơ sơ vào từng loại.°
MUỐN HIỂU RÕ MỘT NGOẠI NGỮ THÌ PHẢI DỊCH (…) Trên tôi đã nói, tôi đọc sách chỉ để tiêu khiển và vì tò mò, nhân đó mà học thêm. Môn tôi muốn học thêm làm môn chữ Hán, đạo Khổng và văn thơ Trung Hoa. Năm 1938-1939, tôi đã lem nhem đọc được vài cuốn cổ văn dễ dễ và vài cuốn bạch thoại, mười phần hiểu được sáu bảy. Học một ngoại ngữ, khi còn “ba chớp ba nhoáng” như người miền Nam nói, thì đọc sách ai cũng mắc cái lỗi tưởng mình hiểu rồi mà thực ra là chưa hiểu. Muốn kiểm soát sự hiểu biết của mình, muốn hiểu cho rõ thì phải dịch ra tiếng Việt. Khi dịch, bắt buộc ta phải tra tự điển; câu nào dịch rồi mà còn lúng túng, ý nghĩa không xuôi, có điểm nào vô lý hoặc mâu thuẫn với đoạn trên thì bắt buộc ta phải soát lại xem mình dịch sai ở đâu, phải tra tự điển thêm, suy nghĩ, lý luận, tìm ra chỗ sai. Dù cẩn thận tới đâu cũng có chỗ sơ sót vì mình không ngờ. Cái khổ tâm của người tự học ở chỗ đó. Tục ngữ có câu: “Không thầy đố mày làm nên”. Tôi không có thầy vì không ở gần bác tôi mà mỗi lúc mỗi hỏi được. Lại không có sách hướng dẫn, toàn là mò lấy, cho nên mệt sức lắm mà sở học có nhiều khuyết điểm. Để học bạch thoại tôi tập dịch Nam du tạp ức và bài Tam bất hủ của Hồ Thích. Văn Hồ Thích giản dị, minh bạch nên tôi dịch không sai lắm. Tập trên chép những điều Hồ Thích mắt thấy tai nghe khi ông đi từ Thượng Hải xuống chơi Quảng Tây theo lời mời của các nhà cầm quyền Quảng Tây: Lý Tôn Nhan, Bạch Song Hy… Hồ khen cảnh thịnh trị của Quảng Tây, trên dưới thân ái nhau, trên làm gương cho dưới, cần kiệm, giản dị, dưới kính yêu trên; Hồ lại chép phong cảnh rất đẹp ở Quảng Tây, chép một số bài dân ca nữa. Bản dịch đó tôi còn giữ. Bài Tam bất hủ là một áng văn hay của Hồ, sau đó tôi cho in vào phần Phụ lục cuốn Nghệ thuật nói trước công chúng. Trong tập Hồ Thích văn tuyển, ngoài bài đó ra còn vài truyện ngắn nhưng không hay, kém xa truyện ngắn của Lỗ Tấn nên tôi bỏ. Đọc cổ văn Trung Quốc tôi dùng bộ Cổ văn quan chỉ. Nhờ có lời bình chú và bản dịch ra bạch thoại nên tôi mò lần cũng ra. Và tôi cũng dịch độ một trăm bài ra tiếng Việt, không phải để tập dịch mà để học, bản dịch đó sau bỏ, không dùng. Công việc thật mệt, mỗi ngày tôi dịch được một bài. Nhờ dịch mà tôi thấy được cái hay của cổ văn: bài nào bố cục cũng kỹ, mở thường đột ngột mà kết thường gọn, mạnh; ý nhiều khi khoáng đạt, có chút triết lý, mà lời cô động, hàm súc, du dương. Sau này mỗi khi muốn có cái cảm giác nhẹ nhàng của người mới tắm dưới suối lên rồi đứng hóng gió trên ngọn đồi thì cứ phải lật bộ cổ văn ra chứ không tìm được trong một tác phẩm hiện đại nào cả. Tới bây giờ tôi vẫn cho những bài Tiền Xích Bích phú, Hậu Xích Bích phú, Hỷ vũ đình ký của Tô Đông Pha, Tuý ông đình ký của Âu Dương Tu, Lan đình tập tự của Vương Hy Chi, Nhạc Dương lâu ký của Phạm Trọng Yêm… là những viên ngọc nhỏ trong văn học Trung Quốc. Tôi mua một bộ tặng ông bạn Pháp lai Paul Schneider bút hiệu là Xuân Phúc – lúc đó mới bắt đầu học chữ Hán; mới rồi ở Pháp ông viết thư cho tôi bảo thỉnh thoảng vẫn mở ra đọc lại. Ông đã dịch thơ Việt ra tiếng Pháp, đặc biệt là Truyện Kiều (chung với Xuân Việt), do Unesco in và đương nghiên cứu về chữ Nôm, hiện đã xuất bản được vài ba cuốn. Ở trung học tôi không được học các luyện văn, viết một bài luận cho có nghệ thuật; đọc cổ văn tôi mới tìm được nghệ thuật của cổ nhân. Trong mấy năm đầu thế chiến, tôi tập viết mười bài tuỳ bút và trên mười bài phê bình nhân vật lịch sử như Hồ Quý Ly, Trần Danh Án, anh em Tây Sơn… Một số bài bác Ba tôi bảo đáng được “bình”, riêng bài Hương và Sắc, bác tôi phê “ưu” với hàng chữ: Hạ bút thành văn, bút cũng thơm”. Bài này tôi đã cho in vào tập Hương sắc trong vườn văn (1961) và được một số bạn khen. Đa số những bài khác gần đây đọc lại tôi không vừa ý vì lý luận thiên lệch, bất công với cổ nhân, có giọng một hủ Nho, không chịu hiểu hoàn cảnh, tâm lý người xưa, cứ đưa đạo lý ra để bắt bẻ. Tật đó tôi lấy của cổ nhân nhưng đã biết sớm bỏ. Viết Triết học Trung Quốc, tôi chỉ đọc được bộ Tứ thư Chu Hy chú giải; tôi không có bàn dịch ra Việt văn và bộ giúp tôi nhiều nhất là bộ Nho giáo của Trần Trọng Kim. Tôi cũng mua những cuốn Lão Tử, Mặc Tử của Ngô Tất Tố (Mai Lĩnh xuất bản). Tôi mừng khi kiếm được những cuốn về Văn học sử Trung Quốc như: Trung Quốc văn nghệ tự trào sử lược của Chu Duy Chi, Trung Quốc văn học sử đại cương của Dương Triệu Tố[10], Tân trước Trung Quốc văn học sử của Hồ Văn Dực[11], Bạch thoại văn học sử của Hồ Thích, Histoire de la litérature chinoise của Margouliès, La Littérature chinoise của O.K. Ghéquier. Nhờ những cuốn đó mà tôi thoả mãn được lòng tò mò của tôi từ hồi học trường Bưởi vì sách Việt chưa có cuốn nào viết về văn học Trung Quốc cả, trừ cuốn Hán văn khảo quá sơ lược của Phan Kế Bính. Đọc những sách chữ Hán kể trên, mới đầu tôi hiểu được một phần nào thôi vì sách không có chú thích; mà đọc hai cuốn sách Pháp thì không cuốn nào in chữ Hán, chỉ phiên âm ra tiếng Pháp, lối này tôi chưa quen, chưa nhận ra được tên người và tên tác phẩm chữ Hán nên hết hứng thú. Nhưng lần lần rồi cũng quen và hiểu được gần hết.°
DỊCH SÁCH Cũng vào đầu thế chiến, một số nhà văn ở Hà Nội đã bàn đến giáo dục như Vũ Đình Hoè trên tờ Thanh Nghị, Thái Phi trong cuốn Một nền giáo dục Việt Nam mới. Tôi quan tâm ngay đến vấn đề đó vì hồi ấy con tôi mới được vài tuổi. Một người bạn cho tôi mượn cuốn L’Éducation des sentiment của P. Félix Thomas, được giải thưởng của Học viện Luân lý - Chính trị ở Pháp. Khi phân tích một tình cảm nào, tác giả cũng xét qua hết thảy những thuyết của các triết gia cổ kim, rồi dùng những kinh nghiệm, hiểu biết của ông về trẻ em – ông là một nhà giáo dục – để xét những thuyết đó chỗ nào sai, chỗ nào đúng, rồi bày tỏ chủ trương của mình, chủ trương này có tính cách trung dung, không quá thiên về trí dục – và khuyên ta cách thực hành ra sao trong sự giáo dục trẻ. Lòng yêu trẻ của ông thật nồng nàn, nên văn ông có nhiều chỗ cảm động, chỗ nào cũng sáng sủa, có khi hoa mỹ, đọc rất thú. Cho nên tôi hăng hái dịch ngay, lược dịch thôi, có chỗ tóm tắt đại ý, có chỗ bỏ hẳn, chỉ cốt sao không phản ý tác giả là được. Tuy nhiên những đoạn hay tôi đều dịch sát, không bỏ một câu, cốt lột được nghệ thuật viết của tác giả. Nhờ vậy bản dịch đầu tay đó[12] được anh em trong nhà đều khen là trôi chảy, sáng sủa mà có văn. Về sau tôi giữ lối dịch đó khi dịch những sách trong loại Học làm người. Tôi còn dịch một chương trong cuốn Un Art de vivre của A. Maurois nhưng không nhớ chương nào vì không giữ được bản thảo. Năm 1944, tôi không thoả mãn về cuốn Một nền giáo dục Việt Nam mới của Thái Phi nên viết một cuốn khác dày khoảng trăm rưỡi trang đánh máy, mới đưa cho bác tôi và thi sĩ Việt Châu (con trai thứ của bác tôi) coi. Tập đó thất lạc trong Đồng Tháp Mười, hồi tản cư năm 1946, tôi không nhớ tên nó nữa. Thời đó tôi viết bản nháp trong những vở học trò 100 trang, xong rồi mới sửa lại và chép tay trên giấy đánh máy, chép một mặt thôi mà cũng chỉ chép một bản vì khan giấy. Thời chiến tranh, các nhà máy giấy trong nước chỉ sản xuất một thứ giấy rất xấu, đen, dày, một mặt láng, một mặt nhám; rồi sau thứ giấy đó cũng hiếm, các nhà xuất bản phải dùng thứ giấy bản của làng Bưởi (gần Hà Nội).°
VIẾT DU KÝ Làm ở sở Thuỷ lợi, tôi có dịp đi kinh lý nhiều nơi, được biết Đồng Tháp Mười, thác Khône ở Lào, Long Hải, thác Trị An, Đế Thiên Đế Thích, Nam Vang. Thấy cảnh nào đẹp tôi chép vào nhật ký hay du ký. Tôi tiếc không giữ được nhật ký thác Khône, nay chỉ nhớ đại khái… Sở phái tôi đi lên đó để đo lưu lượng (débit) sông Cửu Long cuối mùa nắng, lúc mực nước thấp nhất. Từ Sài Gòn tôi đi xe hơi của sở hai ngày mới tới, làm việc ba ngày rồi về. Không phải chỉ có một cái thác mà có tới 6, 7 cái nằm ngang một dãy. Ở đó lòng sông toàn đá nổi lên ngăn dòng nước, nước sông ứ lại ở phía trên rồi trút xuống thành thác, cái cao nhất có thể tới chục thước. Vì là mùa cạn nên nước không chảy xiết, nhưng tiếng thác ầm ầm dội cũng rất xa. Bên bờ sông là những ngọn núi cao đầy cổ thụ, cảnh thật hoang du, hùng vĩ. Có một đường xe lửa nhỏ dài bảy cây số nối quãng trên với quãng dưới thác. Tàu thuỷ Luang Prabang xuống phải ngừng ở quãng trên, chuyển hàng hoá và hành khách lên xe lửa để xuống quãng dưới, từ đây có tàu khác đưa xuống Nam Vang. Khône có một nhà bưu điện và một nhà thương, một sở hiến binh, vài biệt thự cho công chức, còn toàn là nhà sàn bằng gỗ, lá của người Lào. Có mỗi một cái quán của Hoa kiều[13] bán sữa, cà phê và vài thứ bánh ngọt. Cảnh rất buồn. Một nhân viên công chánh ở đó coi đường xe lửa mời tôi về nhà thầy ta ở và tổ chức một buổi hoà nhạc của người Lào cho tôi xem. Có hơn một chục người Lào lại nghe, họ ngồi xổm cả xuống sàn, bà già cũng nhai trầu như mình, thiếu nữ thì không. Họ gầy, yếu, đen đủi, y phục xấu xí, không có một chiếc xà rông nào rực rỡ cả, khác xa những hình ảnh xinh tươi, tình tứ trong các tiểu thuyết Pháp tả xứ Lào. Chủ nhà bảo tôi muốn thấy mỹ nhân Lào thì phải lên phía Bắc, ở Vientiane, Luang Prabang. Tiếng khèn (một thứ sáo có nhiều ống) không réo rắt mà cứ đều đều một điệu buồn buồn, giọng hát cũng không hay, tôi chỉ nghe một lát là chán. Tối hôm đó chủ nhân dắt tôi đi coi “bun” ở một ngôi chùa. Chùa nhỏ, rất ít tượng Phật. Một ông lục ngồi trên cao, độ hai chục thanh niên nam nữ Lào tay cầm cây nến đỏ, nhỏ, nối nhau chạy theo một vòng tròn trước mặt ông lục. Ông như nhập định, không hề nhúc nhích. Đứng coi độ mười phút rồi tôi ra về. Tôi nghĩ mỗi năm lên bờ thác Khône độ vài tháng viết sách thì thú, ở lâu chịu không nổi. Khi về Sài Gòn, ngoài cảnh thác hùng vĩ, tôi chỉ giữ được vài hình ảnh một đám thiếu nữ Lào để cả xà rông tắm, lội trên dòng sông khi tà dương gần tắt, chỉ lưu lại ít ánh vàng trên ngọn cây rừng. Bác tôi lánh mặt ở làng Tân Thạnh, ven Đồng Tháp Mười từ đầu thế chiến thứ nhất để tránh mật thám Sài Gòn và liên lạc với các nhà cách mạng trong miền, hoặc ở Trung Hoa, Thái Lan về, nên biết được cảnh hoang vu ở Đồng Tháp hồi đầu thế kỷ, kể cho tôi nghe nhiều chuyện dân tình, lối sống, thổ sản miền đó; sau tôi lại đi đo trong Đồng Tháp một thời gian, rồi đi kinh lý nhiều lần từ Hồng Ngự đến Tân An; về Sài Gòn tôi đọc thêm được nhiều tài liệu của sở Thuỷ lợi, mua được cuốn La Plaine des Jonc[14] của V. Delahaye, nhờ vậy tôi biết được khá nhiều về Đồng Tháp. Năm 1944, sau khi nhận lời anh Vũ Đình Hoè, bạn học cũ trường Yên Phụ, viết giúp tờ Thanh Nghị (ở Hà Nội) mà anh là chủ nhiệm kiêm chủ bút, tôi tham khảo thêm các cuốn sử, địa phương chí, các số báo Courrier de Saigon năm 1965-66, đọc tất cả những gì liên quan đến Đồng Tháp để viết cuốn Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười. Sáu bảy tháng viết xong thì sở Bưu Điện Sài Gòn không nhận đồ bảo đảm ra Hà Nội nữa vì đường giao thông trắc trở, tôi đành cất bản thảo, đợi cơ hội khác. Sau cuốn đó mất ngay trong Đồng Tháp hồi tôi tản cư về nhà bác tôi năm 1946. Tôi rất tiếc và tám năm sau tôi phải viết lại. Tôi sẽ trở lại việc đó trong một chương sau. Thích nhất là cuộc du lịch Đế Thiên Đế Thích. Năm 1943, viên kỹ sư sở tôi thấy tôi làm việc đắc lực, tạo cơ hội cho tôi đi kinh lý ở ngay trong vùng có cổ tích hoang tàn của Cao Miên đó mà có người gọi là “kỳ quan thứ tám của thế giới”. Tôi mang theo cuốn Guide Groslier rồi lên xe đò đi Nam Vang. Ở Nam Vang một ngày thăm Chùa Vàng Chùa Bạc, làm vài công việc cỏn con cho sở rồi năm giờ chiều lên xe đi Siemreap, khoảng hai giờ khuya tới nơi. Hồi đó vào hạ tuần tháng giêng dương lịch năm 1943, mùa tốt nhất để đi coi cảnh Đế Thiên Đế Thích vì trời rất trong, không mưa và hơi có gió bấc, không khí không nóng lắm, đêm hơi lạnh. Ở Siemreap, tôi ghé nhà anh Hách – anh đã đổi lên đó để xây một cái đập cho sở Thuỷ lợi – và anh và hai bạn công chánh nữa[15] đưa tôi đi thăm các di tích hoang tàn. Trong hai ngày, chúng tôi đi coi thành phố Siemreap và một khu rừng chu vi trên ba chục cây số, chỗ nào cũng có phế tích không thể đi coi hết được, chúng tôi chỉ thăm độ mười lăm ngôi đền lớn nhỏ kiến trúc đẹp nhất và ba cái hồ, mà coi vội vì không đủ thì giờ. Trong suốt hai ngày du lịch đó, lòng tôi lúc nào cũng phơi phới như nghe một bản nhạc êm đềm. Cảnh thật thanh tĩnh, nên thơ, gây biết bao hoài cảm. Tôi thích cảnh stung (sông) Siemreap dưới trăng với những cầu gỗ khom khom có tay vịn như cầu Thê Húc ở hồ Hoàn Kiếm nhưng dài hơn. Trăng vằng vặc[16] chiếu qua cành lá thưa, lấp lánh trên một dòng nước con con, mùa này nước stung cạn, thoang thoảng có mùi hương dịu và tí tách có tiếng nước nhỏ giọt từ cái guồng nước – thứ guồng dùng ở Quảng Nam – cứ đều đều, chậm chạp quay, như gạn từng giọt nước pha lê vào những máng nước dài đưa vào vườn hoa trong các biệt thự trên bờ. Tôi mê cảnh đền Bayon mà Doudart de Largée bảo là “thần tiên lạ lùng” với 50 tháp[17], 43 đầu Phật, mỗi đầu có bốn mặt, mặt nào cũng có nụ cười hiền từ, khoan hoà, bí mật. Đền Angkor Vat dưới ánh nắng tà dương làm tôi xúc động mạnh, khi qua cái hào rộng trên 200 thước mà lục bình như muốn giữ mây chiều lại, vừa bước tới cửa tây thì đền hiện lên, đè nặng lên tâm hồn tôi. Ở đây, kiến trúc Miên đã đạt tới tuyệt đỉnh; hàng triệu phiến đá hợp thành một khối cân đối rất hài hoà để diễn một ý tưởng vừa hùng vừa diễm. Nhưng hợp với tâm hồn tôi nhất là đền Ta Phrom, kiến trúc khác hẳn các đền kia, không cao, không đồ sộ mà trải rộng ra trong một khu rừng và ở sâu trong rừng, có một lối đi lát đá dài 500 thước đưa vào. Chỉ riêng đền này còn giữ vẻ hoang vu. Trường Viễn Đông Bác Cổ đã có sáng kiến lựa nơi đây mà bảo tồn cảnh thiên nhiên để ta được hưởng cái cảm giác rùng rợn của các nhà thám hiểm thời trước. “Ở đây mới thực là cảnh hoang tàn. Ở đây ta mới thấy sự chiến đấu giữa cây và đá, giữa loài người và hoá công. Có những rễ cây lớn mấy tấc, dài hàng chục thước, uốn khúc ôm lấy bệ của toà đền và nổi gân lên như muốn vặn cho nó đổ mới chịu thôi. Có cây lại kiêu căng ngồi xếp bằng trên một toà khác, ung dung thả hàng trăm rễ xuống, như hàng trăm tay của loài bạch tuộc, ghì chặt lấy mồi của mình, không cho nó cựa rồi hút dần tinh tuý của nó, cho thịt nó rã, xương nó tan mà hiện nay ngôi đền cũng đã gần tan gần rã. Có cây độc ác hơn, đâm một rễ lớn từ đỉnh đền xuống như cắm lưỡi gươm vào đầu quân thù”. (trong Đế Thiên Đế Thích). Mấy chục năm nay, tôi vẫn ao ước chiến tranh trên bán đảo chữ S này chấm dứt, sẽ đi thăm lại Đế Thiên Đế Thích, cũng như tất cả cảnh đẹp ở Việt Nam, nhưng nay không còn hy vọng gì nữa. Về Sài Gòn, tôi chép ngay lại cảm tưởng khi du lịch, và trong khi viết tôi được sống lại những lúc vui đã qua, như được du lịch lần thứ hai. Khoảng giữa tháng hai năm 1943, tôi hoàn thành tập du ký Đế Thiên Đế Thích[18]. Tập này tôi viết kỹ, trên hai chục năm sau cho xuất bản[19], không phải sửa gì cả. Ngoài những cuộc kinh lý kể trên, tôi còn thường xin nghỉ mỗi năm nửa tháng hay một tháng để về thăm quê hương hoặc đi thăm ông nhạc tôi ở Tuy Hoà, nhân tiện ghé thăm Nha Trang, Quy Nhơn. Chính trong những chuyến nghỉ đó mà tôi được thấy cảnh đẹp mê hồn của miền duyên hải Trung Việt. Và lần nào về nhà tôi cũng ghi lại, định cứ mỗi năm đi tiếp một quãng: Quy Nhơn – Tourane[20], Tourane – Huế, Huế - Nghệ An, Nghệ An – Ninh Bình, khi nào đi hết bờ biển Trung Việt sẽ viết một cuốn nhan đề là Trên con đường thiên lý tả những cảnh đẹp, những cổ tích, phong tục trên dãy đất đó. Cuốn đó sẽ là cuốn tôi viết say mê nhất và sẽ là tác phẩm chính của tôi. Nhưng tôi chỉ mới ra được tới Quy Nhơn thì thế chiến đã nổ và không có dịp đi tiếp những chặng sau; và tôi chỉ ghi vội được bốn tập mỗi tập ba bốn chục trang nhỏ: Về Bắc lần đầu, Về Bắc lần nhì, Về Bắc lần ba, Nha Trang – Tuy Hoà – Quy Nhơn. Cũng may mà mấy tập đó không thất lạc và tôi đã trích lại dưới đây đoạn tả cảnh đèo Hải Vân mà tôi cho là hùng vĩ nhất: “Hôm sau, ra khỏi Tourane, gặp trời nắng tôi được ngắm cảnh đèo Hải Vân (cũng gọi là Ải Vân) cao hơn, dài hơn đèo Cả, thay đổi nhiều hơn. Ở đây xe lửa chạy theo bờ biển 39-40 cây số, non ba giờ liền, tôi được nhìn một cuốn phim chụp cảnh thiên nhiên, quay chậm chậm trong một không gian đầy âm nhạc là gió rừng và sóng. Vì đèo rất cao, một đầu máy kéo không nổi chuyến xe, nên phải móc thêm một đầu máy ở phía sau để đẩy tiếp. Cả hai đầu máy phì phì nhả khói, nặng nhọc lắm mới lên nổi đèo và chuyến xe như con rắn khổng lồ uốn khúc, đứng ở giữ thấy cả hai đầu máy trước và sau. Ở đây cũng như ở đèo Cả, xe chạy ở giữa, một bên là vách đá dựng đứng, một bên là biển thẳm mênh mông. Nhưng cảnh ở đây thay đổi luôn luôn, nhiều vẻ đẹp hơn; chỗ thì cây cối thưa thớt, thoải mái mà chỉnh tề; chỗ thì chen chúc nhau, cố bám lấy nhau trên một sườn núi cho khỏi tuột xuống thung lũng. Có nơi rừng bị một giống dây leo lá tròn trùm kín hàng mấy chục mẫu trông xa như một tấm màn xanh phơi trên sườn núi, cỏ cây chống ở dưới. Thỉnh thoảng xe qua những chiếc cầu nho nhỏ bắc qua suối. Dòng nước trong leo lẻo xô đẩy nhau trên những phiến đá nhẳn rồi chui vào một cửa tò vò chuối màu xanh non, sau cùng thoát ra tại một bãi cát vàng ở xa xa. Đẹp nhất là những thảm cỏ có điểm hoa tím, vàng rung rinh như cánh bướm. Xe phì phì uốn khúc gắng lên kịp con đường Quốc lộ số 1 (đường xe hơi) nó vờn mây ở dãy núi bên kia. Xe chui vào hầm – quãng này có 7-8 cái hầm – và mỗi lần ở hầm ra thì cả một cảnh trời cao biển rộng hiện ra trước mắt: trời xanh lơ, biển xanh màu ngọc thạch như ở đèo Cả (Tôi nghe nói từ Huế trở ra biển mới đục, mất màu thần tiên đó). Biển ôm những hòn (cù lao) ở ngoài khơi, liếm những bãi cát vàng cánh cung ở bờ, vỗ vào những gốc si bám vào chân vách đá. Nó gần tới bờ lại lùi ra, để lại một viền bọt trắng. Xe vẫn phì phì lên, cảnh vẫn thay đổi; có khi xe lùi vào trong để cho ta ngắm những vùng nho nhỏ có dăm nóc nhà ngói đỏ giữa vài thửa ruộng, sau một bãi cát, có khi nó lượn bên một bãi cỏ rộng lưa thưa vài gốc dương đương hoà nhạc với sóng biển: đây hẳn là chỗ hẹn hò của những con nai vàng trong đêm trăng và xe như hữu tình cũng chạy chậm lại. Nó vẫn phì phì leo dốc. Càng lên núi càng cao, ngọn núi càng xích lại gần nhau. Núi đã mờ mờ. Xe đã chui vào mây. Lạ thay tôi có cảm giác biển cũng dâng lên để được gần trời. Mây lờn vờn ở ngoài khơi, bóng mây làm cho mặt biển lốm đốm như mai con đồi mồi. Xe vẫn uốn khúc, nặng nề leo mà không theo kịp Quốc lộ 1 nó đã khuất trong mây rồi. Chung quanh chỉ thấy biển và mây (goi đèo này là Hải Vân phải quá), đương giữ trưa mà có sương mai. Tôi nhìn về phía sau: đầu máy thứ nhì đã rời chuyến xe quay trở về lúc nào rồi. Xe đã lên đỉnh đèo. Tôi tiếc ngơ ngẩn. Quốc lộ 1 và đường xe lửa lại cùng nhau xuống, một đường chạy sát bờ biển như mê cảnh biển, một đường lùi vào trong như không muốn rời núi mây. Nhưng đến Lăng Cô (một ga nhỏ) thì hai đường gặp nhau như cùng nhận rằng có thể không ngắm mây nhưng không thể không ngắm Lăng Cô. Có người cho rằng Lăng Cô là cảnh đẹp nhất trên đường Tourane – Huế. Từ trên cao nhìn xuống, nó y hệt như một bức tranh thuỷ mạc của Trung Hoa. Một cù lao nhỏ ở gần bờ, bằng phẳng, trồng toàn dương, có nhà, có chùa, có ghe đánh cá và lưới đánh cá phất phơ dưới gió. Một cây cầu dài nối với bờ. Những buổi chiều mây ngũ sắc in trên mặt nước, những chiếc ghe giương buồm ra khơi, hay trong những đêm trăng sóng bạc nhấp nhô vạch một đường sáng tới một đảo nào ở chân trời mù mịt, ngồi ở gốc dương đầu cầu này mà ngắm trời nước thì ai mà không mơ tới cảnh Bồng Lai ở cuối con đường sáng đó? Trên hai giờ liên tiếp được thưởng cảnh thần tiên như vậy, tâm hồn tôi nhẹ nhàng lên, tuổi trẻ lại (…) Non sông Việt Nam sao mà đẹp thế!” (đoạn này trích trong Hồi Kí, ch. XII). (…) Viết xong tập nào tôi cũng đưa bác tôi đọc. Bác tôi rất khen tập Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười, Đế Thiên Đế Thích[21] và trong tập đó tôi đưa ra một chính sách giáo dục cho thanh niên, cho rằng hơi chịu ảnh hưởng của cổ văn Trung Quốc (…). Tôi cũng đưa ba tập đó cho thi sĩ Việt Châu đọc, lúc đó anh giữ phụ trương văn thơ một tờ nhật báo do Bùi Thế Mỹ làm chủ nhiệm kiêm chủ bút. Anh khuyên tôi nên xuất bản hoặc đăng báo, tôi đáp: “để thủng thẳng, lúc nào in chẳng được, đợi chiến tranh kết thúc rồi sẽ hay”. Chú thích:[1] Văn là văn chương, tâm là lòng, điêu là chạm, long là rồng. Sở dĩ gọi là văn tâm vì có câu: “Ta hồ! Văn chương chi sự, thốn tâm thiên cổ”. Nghĩa là: Than ôi! Cái việc văn chương, một tấc lòng mà để ngàn năm. (Theo bài Tựa bộ Đại cương Văn học sử Trung Quốc của NHL). (Goldfish). [2] Hai con rạch ở Cần Thơ. (Goldfish).[3] Sau đổi thành đường Đỗ Thành Nhân. (Goldfish).[4] Câu đầu trong bài thơ Ngày Tết dán câu đối của Tú Xương. Có người dịch là: Bước vào đời không thể không có chữ nghĩa. (Goldfish).[5] Theo Hồi Kí thì ngày 10.10.1945 (tức ngày mùng 5 tháng 9 năm Ất Dậu), cụ NHL rời căn nhà số 50 đường Morceau Sài Gòn tản cư về Tân Thạnh. Cụ ở Tân Thạnh khoảng một năm rưỡi, trải qua hai cái Tết: Tết Bính Tuất (1946) và Tết Đinh Hợi (1947). Cụ bảo: “Tết trước, mới về Tân Thạnh, tôi còn vui vui, làm đôi câu đối này: Trị ái thư…”. Ta có thể suy ra rằng: “Tết trước, mới về Tân Thạnh” là Tết năm Bính Tuất, và nếu cụ làm đối câu đối đó vào ngày mồng một Tết thì ngày dương lịch là 2.2.1946. (Goldfish).[6] Có người gọi là đường Thuỷ Binh, sau đổi thành đường Đồng Khánh, và nay là đường Trần Hưng Đạo B. (Goldfish).[7] Nay là đường Lý Tự Trọng. (Goldfish).[8] Sau đổi là đường Tự do, nay là đường Đồng Khởi. (Goldfish).[9] Sau đó, tôi mới biết những cuốn sách dù tầm thường mà của một tác giả có tên tuổi thì để lâu năm cũng thành quý và tôi đã thấy một người mua một cuốn Luân lý loại giáo khoa tiểu học của Trần Trọng Kim với một giá rất đắt, trên vỉa hè đường Lê Lợi.[10] Trong Hồi Kí in là: Dương Triệu Tổ. (Goldfish)[11] Trong Hồi Kí in là: Hồ Vân Dực. Trong Đại cương văn học sử Trung Quốc (Nxb Trẻ - 1997) chỗ thì in Hồ Văn Dực, chỗ thì in Hồ Vân Dực. Theo bác Vvn thì tác giả cuốn Tân trước Trung Quốc văn học sử 新著中国文学史 (Bắc Tân thư cục ấn hành tháng 8-1936) là Hồ Vân Dực 胡云翼. (Goldfish).[12] Bản dịch có nhan đề là Luyện tình cảm (Nxb Nguyễn Hiến Lê, năm 1951). Cụ NHL cho biết: “Cuốn này là cuốn tôi dịch trước hết, từ năm 1941, mười năm sau mới in” (Theo NHL, Mười câu chuyện văn chương). (Goldfish).[13] Trong Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười, cụ NHL cho biết người “Huê kiều” đó là người Triều Châu. (Goldfish).[14] Tức Đồng cỏ lác. Theo cụ NHL thì, ở Đồng Tháp, “Đất chỗ nào có nhiều phèn thì chỉ thấy mọc nhiều năng, bàng, lác và đưng, tức những loại cỏ mà người Pháp gọi là Joncs, cho nên cánh đồng này mới có tên là Plaine des Joncs” (trích Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười). (Goldfish).[15] Trong cuốn Đế Thiên Đế Thích, cụ NHL cho biết hai người bạn này là “anh Th.” và “anh T.”; và lúc ở Siemreap cụ “vào hỏi mua cuốn Guide Groslier mà không có, đành mượn của anh T.”. Tôi không hiểu tại sao cụ NHL đã “mang theo cuốn Guide Groslier rồi lên xe đò đi Nam Vang” rồi mà còn phải tìm mua cuốn đó và khi mua không được thì phải mượn của anh T.? Phải chăng khi cụ viết bộ Hồi Kí và chép một phần của bộ này vào cuốn ĐVVCT này, cụ đã nhớ lầm? (Goldfish).[16] Trong cuốn Đế Thiên Đế Thích, cụ NHL cho biết rời Sài Gòn ngày 21.1.1943. Tính ra ngày âm lịch là ngày 16 tháng chạp năm Nhâm Ngọ. (Goldfish).[17] Theo Wikipedia thì ở Bayon có đến 54 tháp lớn nhỏ. (Goldfish).[18] Đã tái bản năm 1992 tại Nxb Văn hoá - Thông tin. (BT).[19] Thời Mới xuất bản năm 1968. (Goldfish).[20] Tức Đà Nẳng. (Goldfish).[21] Cho tôi câu đối: “Sơn thuỷ kỳ tung du thị học. Văn chương diệu phẩm thực nhi hoa”. [Trong Hồi Kí, cụ NHL dịch nghĩa: Những nơi sơn thuỷ kì dị, đi chơi tức là học đấy; Văn chương diệu phẩm thì thành thực mà hoa mĩ. (Goldfish).