1. NHỮNG QUY LUẬT NGOÀI CON NGƯỜI. Bão tuyết là một trong những chuyện còn mới lạ trên biển. Đó là khí tượng mù mịt nhất; mù mịt trong mọi ý nghĩ của từ ngữ. Đó là một hỗn hợp của sương mù và bão, và đến nay con người vẫn chưa hiểu rõ hiện tượng này làm. Vì vậy mà còn nhiều tai họa. Người ta muốn giải thích tất cả bằng gió và nước. Nhưng trong không khí có một sức mạnh không phải là nước, và trong nước có một sức mạnh không phải là sóng. Sức mạnh này, trong không khí cũng như trong nước vẫn là một, là cái khí âm dương trong trời đất. Không khí và nước là hai khối lỏng, gần đồng nhất, hoà lẫn vào nhau do sự ngưng tụ và sự giãn nở, y hết thở là uống; khí âm dương riêng lẻ thuộc về thể lỏng. Gió và sóng chỉ đẩy từng lúc, tưng đợt, còn khí âm dương là một dòng chảy liên tục. Nhờ mây trời ta thấy được gió, nhờ bọt nước ta thấy được sóng, nhưng khí âm dương thì không thể thế được. Tuy nhiên thỉnh thoảng nó cũng lên tiếng; ta đây. Cái Ta đây là một tiếng sét. Bão tuyết đặt ra một vấn đề tương tự như sương mù khô. Nếu có thể giải thích được hiện tượng Calina[56] của người Tây Ban Nha và hiện tượng quobar của người Êtiôpia thì chắc chắn việc giải thích ấy phải dựa vào sự quan sát chăm chú từ khí. Không khí âm dương, một số lớn hiện tượng vẫn còn bí hiểm. Nói cho cùng, chính những thay đổi vận tốc của gió, trong bão táp chuyển từ ba bộ một giây thành hai trăm hai mươi bộ, là nguyên nhân những biến thể của sóng đi từ ba tấc lúc biển lặng, đến ba mươi sáu bộ lúc biển nổi giận; nói cho cùng, cái thế thổi ngang của gió, dù đang lúc giông bão, giúp ta hiểu tại sao một ngọn sóng cao ba mươi bộ lại có thể dài tới một nghìn năm trăm bộ; nhưng tại sao sóng Thái Bình Dương gần Châu Mỹ lại bốn lần cao hơn sóng ở gần Châu Á, nghĩa là ở phía tây cao hơn ở phía đông; tại sao trên Đại Tây Dương lại ngược lại; tại sao ở vùng xích đạo, giữa biển lại cao hơn hết; do đâu mà có sự di chuyển cái bướu của đại dương? Chỉ có từ lực, kết hợp với sự chuyển động của quả đất và sức hút của tinh tú mới giải thích được. Ta đã chẳng phải viện đến hiện tượng phức tạp bí mật ấy để giải thích một dao động của gió xuất phát từ phía tây đi, chẳng hạn từ đông nam lên đông bắc, rồi đột ngột trở về cung theo vòng tròn to đó, từ đông bắc xuống đông nam, làm một vòng tròn kỳ diệu năm trăm sáu mươi độ trong ba mươi sáu giờ đồng hồ là gì? Đó là hiện tượng mở đầu của trận bão tuyết ngày 17 tháng ba năm 1867. Những sóng bão của Châu Úc cao đến tám mươi bộ; đó là vì gần địa cực. Bão ở những vĩ tuyến ấy do gió quần thì ít mà do hiện tượng phóng điện liên tục ngầm dưới biển nhiều hơn; năm 1866 hoạt động của đường dây cáp xuyên Đại Tây Dương thường xuyên bị rối loạn mỗi ngày hai tiếng, từ giữa trưa đến hai giờ, bởi một thứ sốt cách quãng. Từ một số hợp lực và một số phân lực nảy sinh ra những hiện tượng, buộc người đi biển phải tính toán nếu không thì bị đắm ngay. Ngày mà ngành hàng hải vẫn dựa vào thói quen, trở thành một môn toán học ngày mà người ta tìm hiểu chẳng hạn vì sao tại những vùng chúng ta ở, đôi khi gió nóng lại từ phương bắc thổi tới và gió lạnh lại từ phương nam thổi lên, ngày mà người ta hiểu rằng nhiệt độ tụt theo tỷ lệ thuận với chiều sâu đại dương, ngày mà người ta luôn luôn ý thức rằng quả đất là một khối nam châm to được phân cực trong vũ trụ bao la, có hai trục, một trục quay và một trục của khí âm dương, cắt nhau ở trung tâm quả đất, rằng các từ cực xoay quanh các địa cực, bao giờ những người liều bỏ cuộc sống sẽ liều một cách khoa học, bao giờ người ta vượt biển trên sự bất ổn định được nghiên cứu kỹ, bao giờ thuyền trưởng là một nhà khí tượng học, bao giờ hoa tiêu là một nhà hóa học, lúc ấy biết bao tai hoạ sẽ được tránh khỏi. Biển cả mang nặng tính chất nước bao nhiêu thì cũng mang đầy đủ từ tính bấy nhiêu, một đại dương của nhiều lực trôi nổi xa lạ, trong đại dương của sóng cả; có thể nói là theo dòng nước cuốn. Chỉ nhìn thấy trong biển cả một khối nước, mà không thấy biển cả; biển cả vừa là một sự đi lại của chất lỏng vừa là sự lên xuống của chất nước; những lực hút làm cho nó phức tạp có lẽ hơn cả những trận cuồng phong; lực dính phân tủ thể hiện, cùng với các hiện tượng khác bởi lực mao dẫn, rất nhỏ đối với chúng ta tham dự trong đại dương vào cái vĩ đại của những khoảng mênh mông; và sóng lực lúc thì giúp ta, lúc thì cản trở sóng không khí và sóng luật về thủy lực học; vì cái nọ lồng vào cái kia. Không có ngành học nào khó hơn, quả thật thế, và mờ mịt hơn; nó gần với kinh nghiệm luận cũng như khoa thiên văn gần với khoa chiêm tinh. Tuy nhiên không có ngành học đó thì không có ngành hàng hải. Bây giờ, ta qua điểm khác. Một trong những hợp chất đáng sợ nhất của biển cả là bão tuyết. Bão tuyết, chủ yếu mang tính chất từ lực. Địa cực tạo ra nó như tạo ra bình minh bắc cực; địa cực nằm trong lớp sương mù ấy cũng như nằm trong màn ánh sáng kia; và trong bông tuyết cũng như trong vằn lửa có thể trông thấy được khí âm dương. Bão tuyết là những cơn co giật và mê sảng của biển cả. Có những lúc biển cả nhức đầu sổ mũi. Có thể xem bão táp như những thứ bệnh. Có thứ chết ngườỉ có thứ không; người ta qua khỏi bệnh này, không qua khỏi bệnh kia. Bão tuyết thông thường được xem như chết người. Jarabila, một trong số hoa tiêu của Magienlăng[57], gọi nó là “một đám mây thoát từ khía cạnh xấu của quỉ sứ[58]”. Xuyêckuph nói: Loại bão ấy khủng khiếp lắm. Nhưng nhà hàng hải Tây Ban Nha ngày xưa gọi loại bão tuyết này là lanevada khi còn là bông tuyết, và là lahelada khi thành mưa đá. Theo họ nói thì trên trời có cả giơi rơi xuống cùng với tuyết. Bão tuyết là đặc điểm của những vĩ tuyến gần đại cực Tuy nhiên đôi khi chúng cũng trườn bò, hầu như có thể nói là chúng đổ xuống đến tận những vùng khí hậu của ta, tàn phá vốn hay xen lẫn với những tình cờ của không khí. Như ta đã thấy, con thuyền Matutina lúc rời Porlan đã quyết tâm lao vào chỗ may rủi nhất của đêm trường mà một cơn bão gần đang tăng thêm phần nguy hiểm. Nó đã lao vào chốn hiểm nghèo với một khí thế liều lĩnh bi đát. Tuy nhiên ta cần nhấn mạnh sự cảnh cáo đã không nhằm sai nó. 2 NHỮNG HÌNH BÓNG BUỔI ĐẦU ĐƯỢC XÁC ĐỊNH Chiếc thuyền còn ở trong vịnh Porlan thì biển còn ít động; sóng hầu như lặng. Mặc dù đại dương có ngả sang màu nâu, trời vẫn sáng. Gió chỉ thổi nhẹ vào thuyền. Chiếc thuyền cố men theo vách biển, đó là tấm binh phong tốt của nó. Có tất cả mười người trên chiếc xuồng Bixcay, ba thuỷ thủ và bảy hành khách, trong đó hai phụ nữ. Nhờ ánh sáng của biển cả, vì vào lúc hoàng hôn ngoài khơi bao giờ cũng bừng sáng, lúc này có thể trông thấy rõ nét tất cả mọi gương mặt. Vả lại không phải trốn tránh nữa, không ngại ngùng nữa, ai cũng được tự do đi lại, cười nói, phô mặt, vì ra đi là giải thoát. Nổi bật nhất là tính chất ô hợp của nhóm người. Cánh phụ nữ thì khó đoán được tuổi; cuộc sống lang thang thường làm cho con người ta chóng già và đói rách là nét nhăn trên mặt. Một mụ thuộc dân Baxcơ miền Nam nước Pháp; mụ kia, mụ đeo tràng hạt to, là dân Iêclăng. Họ có vẻ mặt dửng dưng của những người cùng khổ. Lúc xuống thuyền họ ngồi cạnh nhau trên mấy cái hòm ở chân cột buồm. Lúc này họ đang gẫu chuyện; như chúng tôi đã nói, tiếng Iêclăng và tiếng Baxcơ là hai ngôn ngữ cùng gốc. Tóc mụ người Baxcơ xức nước hành và hoắc hương. Chủ thuyền người Baxcơ ghipuquăng; một thuỷ thủ người Baxcơ triền bắc Pirênê[59] tên người Baxcơ triền nam, nghĩa là cùng xứ, mặc dù tên thứ nhất là người Pháp, tên thứ nhì là người Tây Ban Nha. Người Baxcơ không bao giờ công nhận có Tổ quốc chính thức. Mimadre se llama montanna, “mẹ tôi tên là núi”, Zalarơx nói. Trong năm tên đàn ông đi theo hai mụ kia, một tên người Pháp miền Lăngơđôc, một tên người Pháp miền Prôvăng, một tên gốc thành phố Giên; một lão già, người đội mũ dạ không có lỗ dắt tẩu, hình như là dân Đức; tên thứ năm, thủ lĩnh, người Baxcơ miền Bixcarôx. Chính tên này, lúc em bé sắp nhảy xuống thuyền, đã dùng gót hất tấm ván cầu xuống biển. Hắn lực lưỡng, nhanh như cắt, ta còn nhớ, đầy ren, rua và những mảnh trang kim khiến bộ cách rách rưới hoá ra rực rỡ, không thể đứng yên chỗ, lúc cúi xuống, lúc ngẩng lên, đi đi lại lại từ đầu này thuyền đến đầu kia, như lo lắng giữa việc hắn vừa làm và điều sắp xảy ra. Tên thủ lĩnh này, cùng viên chủ thuyền và hai tay thuỷ thủ, cả bốn đều người Baxcơ, lúc nói tiếng Baxcơ, lúc nói tiếng Tây Ban Nha, lúc nói tiếng Pháp, vì ba ngôn ngữ này đều phổ biến trên hai triền núi Pirênê. Vả lại, trừ hai mụ kia, tất cả đều nói lơ lớ tiếng Pháp, vốn là tiếng gốc lóng của bọn người này. Từ thời ấy tiếng Pháp bắt đầu được các dân tộc chọn làm trung gian giữa miền bắc quá nhiều phụ âm và miền nam quá nhiều nguyên âm. Ở Châu Âu thương mại dùng tiếng Pháp; trộm cắp cũng thế. Người ta còn nhớ Gibby, tên trộm của Luân đôn, hiểu được Cactut. Chiếc thuyền, thuộc loại thuyền buồm nhẹ, đi rất nhanh; tuy nhiên, mỗi người, thêm hành trang, vẫn quá nặng đối với chiếc xuồng mẫu yếu ớt như thế. Việc chiếc thuyền này cứu vớt bọn người kia không đòi hỏi nhất thiết cánh thủ thủ phải cùng hội với bọn kia. Chỉ cần chủ thuyền là một vascongado[60], và tên đầu đảng cũng là một kẻ như thế. Tương trợ trong giống người này là một bổn phận, không chấp nhận biết lệ. Người Baxcơ, chúng tôi vừa nói, không phải là dân Tây Ban Nha, cũng không phải là dân Pháp, hắn là người Baxcơ, luôn luôn và ở tất cả mọi nơi hắn phải cứu giúp dân Baxcơ. Tình huynh đệ Pirênê vốn như vậy. Suốt thời gian chiếc thuyền còn trong vịnh, bầu trời tuy có âm u vẫn không xấu lắm, khiến bọn đảo tẩu phải lo ngại. Rủ nhau đi trốn, giờ đây thoát được, thôi thì mặc sức vui nhộn. Đứa này cười, đứa kia hát. Tiếng cười khô khan nhưng tự do; giọng hát khe khẽ nhưng vô tư lự. Tên người Lănggơđôc luôn luôn gào to; caougaguo! “Cõi tiên !” là tột cùng của sự thích thú kiểu nacbone. Hắn là một tay thủy thủ nửa vời, một thổ dân làng vạn chài Gruytxăng trên triền nam Cláp, thạo đi sông hơn đi biển, nhưng quen chèo pê-rít-xoa trên hồ Bagiơ, và quen kéo thuyền cá trên cát mặn ở Xanhtơ Luyxi. Hắn thuộc lớp người đội mũ đỏ không vành[61], làm dấu thánh giá lăng nhăng kiểu Tây Ban Nha, uống rượu da dê, tu nước túi da, cạo dăm bông, qùi gối để bổ báng Chúa và vừa khấn khứa thánh bảo trợ và hăm doạ; Đại thánh hãy ban cho tôi những gì tôi cầu xin, nếu không, tôi sẽ ném đá vào đầu Thánh, “Ou té fég un pic”. Hắn có thể, khi cần, tiếp sức đắc lực với toàn thể thuỷ thủ. Tên Prôvăng, đứng trong khoang lương thực, đang nhóm ngọn lửa than bùn dưới cái nồi sắt và đang nấu món xúp. Món xúp này là một món hầm trong đó cá thay cho thịt, lại được tên Prôvăng cho thêm đỗ trắng, mỡ thái quân cờ, và ít quả ớt đỏ, đó là những khoảng ngươi ăn tạp-pí-lù nhượng bộ người ăn món olla podrida[62]. Một bao thực phẩm, mở tung, để bên cạnh. Hắn đã thắp ngay trên đầu, một ngọn đèn kính, lúc la lúc lắc ở cái móc trên trần kho lương thực. Bên cạnh, ở một cái móc khác, con chim bói cá chỉ hướng gió, đang đung đưa. Hồi ấy dân chúng mê tín cho rằng chim bói cá chết, treo mỏ, bao giờ cũng xoay ngực về phía gió. Vừa để ý nấu món xúp tên Prôvăng thỉnh thoảng lại đưa bầu rượu lên mồm tu một hơi. Đây là loại bầu có bao mây, to, bẹp, có quai, người ta thường đeo bằng dây bên cạnh và gọi là “bầu hông”. Giữa mỗi ngụm hắn lại nhấm nhẳng một đoạn của một bài hát nông thôn mà chủ để chẳng có gì hết; một con đường trũng, một bờ rào; trên cánh đồng, qua một lỗ hổng trong bụi cây người ta thấy cái bóng ngả dài của một chiếc xe và một con ngựa lúc chiều tà, và thỉnh thoảng trên bờ rào ẩn hiện một cái đầu đinh ba xốc đầy rơm rạ. Chẳng cần gì hơn đối với một bài hát. Mỗi lần ra đi, tùy điều vương vấn trong tâm trạng hay trong đầu óc, là một lần thanh thản hay phiền muộn. Tất cả mọi người đều có vẻ như trút được gánh nặng, trừ một nhân vật, đấy là lão già trong nhóm, người đội mũ không có tẩu thuốc. Lão già này, có vẻ là người Đức hơn cả, mặc dù lão có một bộ mặt không rõ thuộc nước nào, hói đầu, và hói đến mức tưởng như nhẵn thín. Mỗi lần đi ngang trước tượng Đức Bà Đồng Trinh ở mũi thuyền, lão lại bỏ cái mũ dạ ra, và người ta thấy được những mạch máu càng phồng, lão suy, trên sọ. Lão quấn một loại áo chùng đã sờn và rách thủng, bằng vải chéo nâu Đorsextơ, chỉ che giấu được phần nào cái áo nịt vừa bó vừa chật, và có khuy móc kín đến tận cổ như áo thầy tu. Hai bàn tay thò ra ngoài tà áo và chắp lại một cách tự nhiên do thói quen cầu nguyện. Có thể nói lão ta có vẻ mặt tái nhợt; vì diện mạo chủ yếu là một thứ phản quang, và cho rằng ý nghĩ không có màu sắc là sai. Vẻ mặt này tất nhiên là bề ngoài của một tâm trạng lạ lùng là hợp thành của nhiều mâu thuẫn, một số mang sắc thiện, một số lẫn mẩu ác, và đối với nhà quan sát là biểu hiện một cái gì gần như nhân hậu có thể rơi xuống dưới chân hổ hoặc vượt lên trên con người. Tâm hồn vẫn có những hình thái ô hợp như thế. Trên khuôn mặt này có cái gì rất khó phân tích. Bí mật ở đây đạt đến chỗ trừu tượng. Người ta hiểu con người này đã từng biết tiền vị của cái ác là sự tính toán, và dư vị là số không. Trong nét thản nhiên của lão có lẽ chỉ bề ngoài thôi, có in dấu vết của hai vẻ sắt đá, vẻ sắt đá của con tim, đặc điểm của tên đao phủ, và vẻ sắt đá của đầu óc, đặc điểm của viên quan lại. Có thể khẳng định, vì cái quái đản cũng có kiểu hoàn chỉnh của nó, rằng đối với lão mọi việc đều có khả năng, kể cả xúc động. Nhà bác học nào cũng có phần giống xác chết; con người này là một nhà bác học. Chỉ nhìn thấy lão người ta đã đoán ngay ra cái khoa học in dấu trên cử chỉ và trong những nếp áo của lão. Đó là một bộ mặt hoá thạch mà vẻ nghiêm trang lại trái ngược với vẻ linh hoạt đầy nếp nhăn của con người thông thạo nhiều thứ tiếng đến nỗi hoá ra nhăn nhở. Tuy vậy vẫn nghiêm nghị, chẳng có gì giả dối nhưng chẳng có gì là vô liêm sỉ. Một con người mơ mộng bi đát. Đây là con người mà tội ác đã bắt phải trầm tư. Lão có cặp lông mày của một tay buôn xì gà đã biến đổi vì vẻ nhìn của một vị tổng giám mục. Mái tóc thưa thớt hoa râm của lão bạc trắng ở hai bên thái dương. Người ta cảm thấy ở lão con người theo đạo Thiên chúa bị các thuyết định mệnh Thổ Như Kỳ biến thành phức tạp. Bệnh thống phong nổi cục làm biến dạng những ngón tay gầy guộc; vóc người cao nhẳng của lão nom rất buồn cười; lão có bàn chân thuỷ thủ. Lão bước thong thả trên boong, không nhìn một ai vẻ tự tin và nham hiểm. Hai con ngươi lão mơ hồ đầy cái ánh đăm chiêu của một tâm hồn chăm chú nhìn bóng tối, và phụ thuộc vào những lúc lương tâm trỗi dậy. Chốc chốc tên đầu đảng, hấp tấp, nhanh nhẹn, đi theo những hình chữ chi gấp trên thuyền, lại đến nói vào tai lão. Lão già chỉ gật hay lắc đầu để trả lời. Có thể nói đấy là tia chớp hỏi ý kiến trời đêm. 3. NHỮNG CON NGƯỜI BỒN CHỒN TRÊN MẶT BIỂN ĐỘNG Trên thuyền có hai người đăm chiêu lão già đó và viên chủ thuyền mà ta không nên lẫn lộn với tên đầu đảng; viên chủ thuyền đăm chiêu vì biển cả, lão già đăm chiêu vì điềm trời. Một bên không rời mắt khỏi sóng nước, một bên dán mắt giảm sát trời mây. Luồng nước là mối lo âu của viên chủ thuyền, lão già dường như ngờ vực thiên đỉnh. Lão rình đón tinh tú qua tất cả các khoảng trời mây. Giây phút này trời vẫn sáng, một số sao bắt đầu lấm tấm le lói trên màn trời trong. Chân trời thật khác thường. Sương mù ở đây luôn luôn biến đổi. Trên mặt đất có nhiều sương hơn và trên biển cả nhiều mây hơn. Ngay trước lúc ra khỏi vịnh Porlan viên chủ thuyền luôn luôn lo ngại về sóng nước đã lập tức lưu tâm tỉ mỉ đến mọi công việc. Y trông chờ ra khỏi mũi vịnh. Y kiểm tra lại dây lèo, dây chằng, dây trục xem có tốt không, đó là những công việc phỏng xa của một người đang định làm những chuyện liều lĩnh về tốc độ. Thuyền hơi chúi mũi, hơn đàng lái đến gần năm mươi phân, đấy là nhược điểm của nó. Viên chủ thuyền luôn luôn hết xem la bàn lại cầm com pa, và ngắm qua ống kính các vật trên bờ để xác định chiều gió. Thoạt tiên là một thứ gió hiu hiu thổi ngang; y không có vẻ gì khó chịu về ngọn gió này mặc dù có chệch hướng đi mất độ năm sáu vạch. Y tranh thủ đích thân nắm lấy cần lái, có vẻ như chỉ tin ở mình để khỏi phí hoài sức lực, hiệu quả của bánh lái được duy trì nhờ khéo rẽ nước nhanh. Thuyền đi càng nhanh khác biệt giữa độ lệch thật sự và độ lệch theo mắt thấy càng lớn, chiếc thuyền hình như hướng nhiều về gốc gió hơn trên thực tế. Thuyền không gặp gió xiên và đi không thật đúng hướng, nhưng người ta chỉ biết được độ lệch thật sự khi gặp gió phía sau. Nếu thấy trên mây có những vết dài châu đầu vào một điểm ở chân trời điểm đó là gốc gió; nhưng chiều hôm ấy có nhiều gió quá, và chiều gió thật mơ hồ; vì vậy tay chủ thuyền không tin vào những ảo giác của chiếc thuyền. Y vừa rụt rè vừa táo bạo trong tay lái, y lựa theo chiều gió, chú ý những lúc có thay đổi đột ngột, thận trọng khi chệch hướng, không để cho thuyền lao nhanh, quan sát khi thuyền trôi, ghi nhận những lúc tay lái khẽ giật, để mắt đến mọi trường hợp chuyển động, đến những lúc tốc độ rẽ nước không đều, đến những cây gỗ trôi giạt, luôn luôn giữ cách bờ biển đang men theo độ một phần tư góc gió vì sợ xảy ra sự biến, và nhất là giữ cho góc độ giữa chong chóng chỉ gió và sống thuyền được to hơn góc độ của buồm, vì góc độ chỉ trên la bàn luôn luôn đáng ngờ, do la bàn bé quá. Mắt y luôn luôn cúi gằm, quan sát tất cả mọi hình dạng của mặt nước. Tuy vậy cũng có lần y ngước mắt nhìn khoảng không và cố nhận ra ba ngôi sao trong chòm Thần Nông; mấy ngôi sao đó được gọi là ba vị đạo sĩ, và những hoa tiêu Tây Ban Nha ngày xưa có một tục ngữ cổ: Ai trông thấy ba vị đạo sĩ thì không xa Chúa lắm. Đúng lúc viên chủ thuyền nhìn trời thì ở đầu thuyền đằng kia lão già cũng lầu bầu một mình. - Đến giảng đường Vệ binh, và cả sao Tâm cũng chẳng thấy đâu, mặc dầu nó đỏ như thế. Không nhìn rõ một ngôi nào hết. Những tên chạy trốn khác chẳng có vẻ gì lo lắng cả. Tuy nhiên khi giây phút vui nhộn đầu tiên của cuộc đào tẩu đã qua, cũng phải nhận thấy là mình đang ở trên biển vào tiết tháng giêng và gió bắc lạnh buốt. Không thể nào ngồi trong cabin, quá chật lại ngổn ngang hành lý và bao bị. Hành lý của hành khách, và bao bị của thuỷ thủ, vì đâu phải thuyền đi chơi mà là thuyền buôn lậu. Hành khách đành phải ngồi trên boong; điều nhẫn nhục cũng dễ đối với cánh du cư này. Những thói quen sống ngoài trời khiến bọn lang thang cũng dễ thu xếp; ban đêm, trăng sao là bạn bầu của họ; và cái rét giúp cho họ dễ ngủ và đôi khi dễ chết nữa. Vả lại đêm hôm ấy, như ta vừa thấy vắng bóng trăng sao. Tên Lănggơdôc và tên gốc thành phố Giên, vừa chờ bữa ăn tối vừa ngồi thu lu bên cạnh mấy mụ ở chân cột buồm, dưới mấy tấm vải che hàng mà cánh thuỷ thủ vứt cho họ. Lão già hói đứng phía trước trơ trơ như tượng gỗ và như không biết rét là gì. Viên chủ thuyền, từ chỗ cần lái y đang đứng, cất tiếng gọi khàn khàn gần giống tiếng hót của thứ chim bên Mỹ gọi là Con Kêu than; nghe tiếng hót đó tên đầu đảng vội đến gần và viên chủ thuyền bảo thẳng hắn: Etcheco jaìina! Hai tiếng Baxcơ này có nghĩa là “anh nông dân miền núi”, đối với cánh Pirênê thời xưa ấy, là một lời mở đầu long trọng và ra lệnh chú ý. Rồi viên chủ thuyền đưa ngón tay chỉ lão già cho hắn, và câu chuyện giữa hai người tiếp tục bằng tiếng Tây Ban Nha hơi sai văn phạm vì là tiếng Tây Ban Nha miền núi. Sau đấy là những câu hỏi và câu trả lời: - Etcheco jaiina, que es este hombre? - Un hombre. - Que lenguas habla? - Todas. - Que cosas sabe? - Todas. - Qual pais? - Ningun, y todos. Qual Dios? - Dios. - Como le llamas? - El Tonto. - Como dices que le llamas? - El Sabio. - En vuestre tropa, que esta? - Esta lo que esta. - El gefe? - No. - Pues, que esta? - La alma[63] Tên đầu đảng và viên chủ thuyền buông nhau, mỗi người trở về với tư tưởng của mình, và chỉ lát sau con thuyền Matutina ra khỏi vịnh. Biển khởi bắt đầu dao động mạnh. Giữa những quãng cách của bọt sóng, biển cả có cái vẻ ngoài nhờn nhờn; sóng nước, nhìn nghiêng nghiêng tít tắp, trong ánh chiều hôm, giống như những vũng mật đắng. Đây đó một ngọn sóng, bềnh bồng sát mặt nước, phô ra những vết rạn và những ngôi sao như một tấm kính bị ném đá. Giữa những ngôi sao ấy, trong một lỗ xoáy, lung linh một điểm lân tinh, gần giống tia phản quang nham hiểm của ánh sáng vừa biến mất trong con ngươi những con cú mèo. Thuyền Matutina, hiên ngang và như một nhà bơi lội dũng cảm, vượt qua quãng lăn tăn dễ sợ của bãi Sămbua. Bãi Sămbua, một chướng ngại vật ngầm ở cửa vịnh Prolan, không phải là một cái đập, mà là một hý trường. Một rạp xiếc bằng cát dưới nước, những bậc ghế do những vòng sóng tạc đẽo nên, một đấu trường tròn, đối xứng, cao như một Yungfrau nhưng chìm dưới nước, một Côlizê[64] của đại dương mà người thợ lặn thoáng nhìn thấy qua lớp nước lung linh của vực xoáy trong đó là bãi Sămbua. Giống giao long thường đánh nhau ở đấy, lũ quái vật lấy đấy làm chỗ gặp nhau, theo truyền thuyết, ở đáy cái phễu khổng lồ, có những xác tàu bị con nhện kếch xù Krakeh, còn gọi là con cá-núi, bắt và nhận chìm. Bóng đen khủng khiếp của biển cả là như vậy. Những hiện thực ma quái ấy, mà con người không hay biết đến, biểu hiện lên mặt nước như một chút sóng lăn tăn. Hồi thế kỷ mười chín, bãi Lămbua bị huỷ hoại. Cái đập chắn sóng mới xây dựng đã phá đổ và cắt khúc công trình kiến trúc ngầm vĩ đại này vì sóng hồi dữ quá, cũng như cái đập bảo hộ xây dựng ở Croazi năm 1760 đã làm thay đổi giờ thuỷ triều đến mười lăm phút. Vậy mà thuỷ triều vốn vĩnh cừu; nhưng vĩnh cửu lại tuân theo con người nhiều hơn ta tưởng. 4. MỘT ĐÁM MÂY KHÁC BƯỚC VÀO SÂN KHẤU. Lão già mà tên đầu đảng trước gọi là Thằng Điên, sau gọi là Nhà Hiền Triết, không rời khỏi mũi thuyền nữa. Từ lúc qua khỏi bãi Sămbua, lão chăm chú hết nhìn trời lại nhìn đại dương. Lão nhìn xuống chán lại nhìn lên; lão quan sát kỹ nhất hướng đông bắc. Viên chủ thuyền giao cần lái cho một thuỷ thủ, rồi bước qua đống dây cáp, đi xuyên từ lái đến mũi, và tới bên con người đứng ở mũi thuyền. Y đến cạnh lão già nhưng không đến thẳng trước mặt. Y hơi đứng cách đằng sau, khuỷu tay áp sát sườn, hai bàn tay cách nhau, đầu cúi cúi trên vai, mắt mở to, lông mày dướn cao, nhếch mép mỉm cười, đấy là cử chỉ tò mò lửng lơ giữa châm biếm và kính trọng. Lão già, hoặc do đôi khi quen nói một mình hoặc do cảm thấy có người sau lưng thúc lão phải nói, liền bắt đầu vừa độc thoại, vừa ngắm nhìn trời biển. - Kinh tuyến mà ta định ngược thẳng lên, trong thế kỷ này được đánh dấu bằng bốn ngôi sao, Bắc đẩu, ghế Thiên hậu, đầu Tiên nữ, và sao Angiênip, ở trong chòm Phi Mã. Nhưng chẳng thấy sao nào cả. Những lời đó cứ tự động nối tiếp nhau; dồn dập, gần như trào ra chứ không phải do lão nói lên. Chúng trôi ra khỏi mồm lão và tan biến mất. Độc thoại là khói cua những ngọn lửa bên trong trí tuệ. Viên chủ thuyền cắt ngang : - Thưa ngài. Lão già, có lẽ hơi nặng tai đồng thời đang mải trầm tư, vẫn tiếp tục: - Chẳng có mấy sao, lại quá nhiều gió. Gió luôn luôn rời khỏi hướng đi để quật vào bờ. Nó quật thẳng vào bờ. Vì đất liền nóng hơn biển cả. Không khí trong bờ nhẹ Hơn. Gió lạnh và nặng của biển cả xô vào đất liền để thay thế nó. Bởi vậy trong khoảng trời rộng gió thổi vào đất liền từ khắp mọi phía. Vậy cần phải đivát thật dài giữa vĩ tuyến áng chừng và vĩ tuyến trên bản đồ. Khi vĩ tuyến quan sát không khác vĩ tuyến bản đồ quá ba phân giác trên mười dặm, và quá bốn phân giác trên mươi dặm, thì đang đi đúng đường. Viên chủ thuyền cúi chào, nhưng lão già vẫn không trông thấy y. Con người ấy, hầu như khoác áo trường đại học Ôcxfơc hay Gơtinh, vẫn không thay đổi thế ngồi kiêu ngạo ngang ngạnh của mình. Lão quan sát biển cả theo kiểu người từng trải sóng nước và con người. Lão nghiên cứu sóng, nhưng gần như lão xin đến lượt mình được nói trong tiếng ầm ầm của sóng, và dạy cho sóng một điều gì đó. Trong lão vừa có ông đồ gàn vừa có ông thầy đoán mộng. Lão có cái vẻ của nhà thông thải dởm về đáy biển. Lão tiếp tục bản độc thoại, có lẽ làm ra cũng để nói cho người khác nghe. - Cũng có thể chống đỡ được, nếu có một bánh xe chứ không phải một cái cần gỗ. Với tốc độ bốn dặm một giờ, một sức mạnh ba mươi livrơ[65] đè lên bánh xe có thể tạo nên ba mươi vạn livrơ kết quả vào hướng đi. Và hơn thế nữa vì có những trường hợp người ta quay luôn thêm hai vòng. Viên chủ thuyền cúi chào lần thứ hai và nói: - Thưa ngài Mắt lão già nhìn chòng chọc vào y. Cái đầu quay mà người không nhúc nhích. - Gọi tôi là tiến sĩ. - Thưa ngài tiến sĩ, tôi là chủ thuyền. - Được - lão “tiến sĩ” đáp. Lão tiến sĩ, từ đây ta gọi lão như thế, dường như đồng ý đối thoại: - Ông chủ, ông có ke Anh 45 độ không? - Không. - Không có ke Anh, ông không thể tiến về phía trước, cũng không thể tiến về phía sau. - Người Baxcơ - viên chủ thuyền đáp lại - đã từng tiến trước khi có người Anh. - Phải coi chừng gió đấy. - Tôi giảm dần tốc độ khi cần. Ông đã đo vận tốc thuyền rồi chứ? - Vâng. - Lúc nào? - Ban nãy. - Bằng cách nào? - Bằng máy lôsơ[66] - Ông có chú ý đến mặt gỗ máy lôsơ đấy chứ? - Vâng. - Đồng hồ cát vẫn đổ đúng ba mươi giây? - Vâng. - Ông có chắc cát không làm mòn cái lỗ giữa hai ống không? - Chắc. - Ông đã thử lại đồng hồ cát bằng chuyển động của một hòn đạn súng hoả mai treo. - Ở đầu một sợi dây bẹp, bóc ở vỏ gai ngâm kỹ chứ gì? Không có gì phải nghi ngờ cả. - Ông có vuốt sáp vào sợi dây, phòng nó dài ra không? - Có. - Ông có thử lại máy lôsơ không? - Tôi đã thử lại đông hồ cát bằng viên đạn súng hỏa mai và thử lại máy lôsơ bằng viên đạn đại bác. - Viên đạn đại bác của ông đường kính bao nhiêu? - Một piê[67]. - Nặng đấy. - Đấy là một viên đạn cũ của chiến thuyền cũ, chiếc la Casse de Pargrand. - Của Hải quân Tây Ban Nha? - Vâng. - Và nó chở được sáu trăm lính, năm mươi bảy thuỷ thủ và hai mươi đại bác? - Điều ấy thì vụ đắm thuyền biết. - Ông làm thế nào để đo sức nước đập vào viên đạn đại bác? - Bằng một lực kế Đức. - Ông có xét đến mức nước đẩy vào sợi dây treo viên đạn đấy chứ? - Vâng. - Kết quả ra sao? - Sức nước đập là một trăm bảy mươi livrơ. - Nghĩa là thuyền mỗi giờ đi được bốn dặm Pháp? - Và ba dặm Hà Lan. - Nhưng đó chỉ là thặng dư của một vận tốc rẽ nước trên vận tốc biển. - Hẳn rồi. - Ông đi về đâu? - Đến một cái tiểu loan mà tôi biết, nằm giữa Lôyôla và Xanh Xêbaxchiêng. - Đặt gấp vào vĩ tuyến của nơi đến. - Vâng. Cố chệch hết sức ít. - Coi chừng gió và nguồn nước. Cái trước kích thích cái sau đấy. - Trai dores[68]. - Không được chửi bậy. Biển cả hiểu đấy. Không được chửi gì hết. Cứ biết quan sát thôi. - Tôi đã quan sát và đang quan sát. Thuỷ triều lúc này đang chống lại gió; nhưng chốc nữa, lúc nó chạy cùng với gió thì chúng ta sẽ nguy to. - Ông có bản đồ không? - Không. Biển này thì không có. - Thế ông đi mò? - Đâu. Tôi có la bàn. - La bàn là một mắt. Bản đồ là mắt nữa. - Anh chột vẫn nhìn thấy. - Ông làm thế nào để đo gốc độ của hướng thuyền và sóng thuyền. - Tôi có compa thiên sai, và tôi lại đoán thêm. - Đoán là tốt; biết thì tốt hơn. - Crixtôp[69] cũng đoán. - Lúc có sương mù và khi hoa gió quay lung tung thì không còn biết dựa vào đâu mà định hướng gió, thế là cuối cùng chẳng có điểm ước chừng mà cũng chẳng có điểm sửa đổi. Một con lừa có bản đồ vẫn hơn một lão thầy bói với sấm ngữ của lão. - Chưa có sương mù trong gió bấc, và tôi không thấy có lý do gì phải báo động. - Thuyền bè là những con ruồi trên tấm mạng nhện của biển cả. - Hiện giờ tất cả trong gió và sóng đều khá tốt. - Những chấm đen lung linh trên sóng, đó là những con người trên đại dương. - Tôi chẳng thấy có điều gì xấu trong đêm nay cả. - Có thể xảy đến một điều bí ẩn mà ông khó thoát được. - Đến giờ phút này mọi việc đều tốt. Mắt lão tiến sĩ nhìn chằm chằm vào hướng đông bắc. Viên chủ thuyền tiếp tục: - Cứ đến vịnh Gaxcôn là tôi bảo lãnh hết. A! Còn gì nữa, ở đấy là nhà tôi. Cái vịnh Gaxcôn của tôi, tôi nắm chắc nó mà. Nó là một cái chậu thường hay nổi giận, nhưng ở đấy tôi biết rõ tất cả những mực nước cao và tất cả những ưu điểm của đáy; bùn trước Xan Xiprianô, vỏ sò trước Xizac, cát ở mũi Pêna, cuội ở Bucô Mimizăng, 133 và tôi biết mầu sắc của tất cả mọi thứ cuội. Viên chủ thuyền ngừng nói; lão tiến sĩ không thèm nghe y nữa. Lão nhìn ngắm phía đông bắc. Trên bộ mặt giá lạnh đó có một cái gì ký lạ. Tất cả hãi hùng có thể có được trên một cái mặt nạ bằng đá đều biểu hiện trên đó. Miệng lão để thoát ra hai tiếng: - Tốt lắm. Con ngươi của lão bỗng hoàn toàn trở thành như con ngươi cú vọ, tròn xoe, nở to ra vì kinh ngạc khi quan sát một điểm nhỏ trong không trung. Lão nói thêm. - Đúng thế. Còn tôi, tôi đồng ý. Viên chủ thuyền nhìn lão. Lão tiến sĩ lại nói tiếp, với bản thân hay với một con người nào đó trong vực thẳm. Tôi nói phải. Lão nín lặng, mắt mỗi lúc một mở to thêm để nhìn thật chăm chú vào điểm lão trông thấy, và nói tiếp: - Nó từ xa đến, nhưng nó biết việc nó phải làm. Khoảng trời mà mắt và trí óc lão tiến sĩ tập trung Vào, đối diện với phía mặt trời lặn, được soi sáng bởi ánh chiều tà bao la nên cũng gần như bởi ánh ngày. Khoảng trời đó rất nhỏ hẹp và xung quanh có những mảnh hơi nước xam xám toàn màu xanh lơ, nhưng một thứ xanh lơ gần sắc chì hơn sắc thiên thanh. Lão tiến sĩ ngoảnh hẳn về phía biển cả và từ lúc này không nhìn viên chủ thuyền nữa, đưa ngón trỏ chỉ vào khoảng trời và nói: - Ông chủ, ông thấy không? - Gì cơ? - Cái kia. - Kia kìa. Một chút xanh lơ. Vâng. - Gì thế? - Một khoảng trời. Đối với những ai lên trời - lão tiến sĩ nói. Còn đối với ai không lên đó lại là việc khác. Và lão nhấn mạnh những lời bí hiểm trên đây bằng một vẻ nhìn chìm đắm vào bóng tối. Im lặng một lúc. Viên chủ thuyền, nghĩ đến hai cái tên mà tay thủ lĩnh gắn cho con người kia, liền tự đặt câu hỏi: Một thằng điên? Hay một nhà hiền triết???Ngón tay trỏ xương xương và cứng đờ của lão tiến sĩ vẫn như dừng lại chỉ về cái góc xanh lơ đùng đục của chân trời. Viên chủ thuyền nhìn kỹ khoảng trời xanh đó. - Đúng - y lầu bầu - không phải trời xanh, mà là mây. - Mây xanh nguy hại hơn mây đen - lão tiến sĩ nói. Và lão tiếp thêm: - Đó là mây tuyết. - La nube de la niene - viên chủ thuyền nói, như tìm hiểu rõ hơn bằng cách tự dịch lại câu nói trên. - Ông có biết thế nào là mây tuyết không? - lão tiến sĩ hỏi. - Không. - Chốc nữa ông sẽ biết. Viên chủ thuyền lại nhìn kỹ chân trời. Vừa quan sát vầng mây, viên chủ thuyền vừa nói khẽ: - Một tháng gió to, một tháng mưa rền, giêng kho, hai khóc, tất cả mù đông của người Axtuyri chúng ta là thế. Mưa của chúng ta nóng. Chúng ta chỉ có mây ở trên núi. Coi chừng tuyết lở? Tuyết lở thì tuyết có cần biết gì đâu; tuyết lở là con thú dữ. - Và cây nước là con quái vật - lão tiến sĩ nói. Nghĩ một lúc, lão tiếp thêm: - Kia nó đến kia rồi. Lão lại nói: - Nhiều gió cùng hoành hành một lúc. Một ngọn gió to từ hướng tây, và một ngọn gió rất chậm từ hướng đông. - Ngọn gió kia là tên giả dối - viên chủ thuyền nói. Đám mây xanh lớn dần. - Nếu tuyết - lão tiến sĩ tiếp - đáng sợ khi nó từ trên núi lao xuống thì thử nghĩ xem nó thế nào khi nó từ đại cực đổ về Mắt lão mờ đục. Đám mây đường như to dần trên mặt lão cùng như đang to dần ở chân trời. Lão lại nói tiếp với một âm sắc mơ màng: - Mỗi giây mỗi phút đều góp phần để làm nên một giờ, ý trời đang hé mở. Viên chủ thuyền lại thầm đặt cho mình câu hỏi: - Một thằng điên chăng? - Ông chủ - lão tiến sĩ lên tiếng, con người luôn luôn xoáy chặt vào đám mây - ông có đi nhiều trên biển Măngsơ[70] không? Viên chủ thuyền đáp: - Hôm nay là lần đầu tiên. Lão tiến sĩ bị đám mây xanh thu hút và, như miếng bọt biển chỉ hút nước có chừng, lão cũng chỉ lo âu có hạn, nghe câu trả lời của viên chủ thuyền, tỏ ra thương hại nhưng không quá một cái nhún vai khẽ: - Sao thế? - Bẩm ngài tiến sự tôi chỉ quen đi Iêclăng thôi. Tôi thường đi từ Phôngtarabi đến Blek-Hacbua hoặc Akin, đó là hai hòn đảo. Đôi khi tôi cũng có đến Brasipun, một hải giác của xứ Galơ. Nhưng bao giờ tôi cũng lái qua các đảo Xinli. Tôi không biết biển này. - Nghiêm trọng đấy. Tai hoạ cho kẻ nào chỉ mới biết bập bẹ đại dương. Biển Măngsơ là một biển cần phải đọc thông thuộc kỹ. Nó là một con nhân sư[71]. Phải coi chừng đáy biển. - Chúng ta đang ở trong vùng hai mươi lăm sải nước. - Phải đến cho được chỗ năm mươi lăm sải, nằm ở phía mặt trời lặn, và phải tránh chỗ hai mươi sải ở phía mặt trời mọc. - Dọc đường chúng tôi sẽ đo mức nước. - Biển Măngsơ không giống như biển khác. Thuỷ triều dâng cao đến năm mươi bộ đầu tháng, cuối tháng và chỉ hai mươi bộ chỗ nước đứng. Ở đấy, nước rút không phải là triều xuống và triều xuống không có nghĩa là triều lui. Hừ! Tôi thấy ông có vẻ hoang mang thật rồi. - Đêm nay chúng ta sẽ đo. - Muốn đo phải đứng lại mà ông lại không thể đứng lại. - Tại sao? - Tại gió. - Chúng tôi sẽ cố. - Gió to là một lưỡi gươm nhọn thúc vào cạnh sườn. - Chúng tôi sẽ đo, thưa ngài tiến sĩ. - Ông không thể chỉ giơ sườn ra một cách khinh suất. - Tin tưởng vào Chúa. - Hãy dè dặt trong lời nói. Chớ có nhẹ dạ nói đến cái tên dễ nổi giận. - Tôi sẽ đo, tôi bảo với ngài thế. - Nên khiêm tốn. Lát nữa ông sẽ bị gió tát vào mặt cho xem. - Tôi muốn nói là tôi sẽ cố gắng đo nước. - Sức nước không cho hòn chì chìm xuống và dây sẽ đứt. Hừ ! Ông mới đến vùng này lần đâu tiên mà? - Lần đầu tiên. - Vậy thì, trường hợp này, ông chủ, ông hãy lắng nghe. Giọng nói của hai từ lắng nghe oai nghiêm đến nỗi viên chủ thuyền phải cúi chào. - Thưa ngài tiến sĩ, tôi xin lắng nghe. - Kéo buồm mạn trái lên và đi sát vào bờ mạn phải. - Ngài muốn nói sao? - Dóng mũi theo hướng tây. - Caramba! - Dóng mũi theo hướng tây. - Không thể được. - Tùy ý ông. Điều tôi bảo với ông, là vì những người khác. Còn tôi, tôi chấp nhận. - Nhưng thưa ngài tiến sĩ dóng mũi theo hướng Tây. - Vâng, thưa ông chủ. - Gió ngược mà! - Vâng, thưa ông chủ. - Thuyền chồm như quỷ sứ! - Lựa lời khác. Vâng. thưa ông chủ. - Thuyền đang cưỡi lưng ngựa. - Vâng, thưa ông chủ. - E cột buồm gãy mất! - Có lẽ. - Ngài muốn tôi lái về phía tây! - Phải. - Tôi chịu thôi. - Thế thì ông cứ vật lộn với biển cả như ý ông muốn. - Phải chờ cho gió trở đã. - Gió sẽ không trở suốt đêm nay. - Tại sao? - Đây là một quệt gió dài một nghìn hai trăm dặm. - Đi ngược con gió đó ư! Không thể được. - Dóng mũi theo hướng tây, tôi bảo ông! - Tôi xin cố gắng. Nhưng dù sao chúng ta cũng sẽ chệch hướng. - Nguy hiểm đấy. - Gió bấc đuổi ta sang đông. - Chớ đi sang đông. - Tại sao? - Ông chủ, ông có biết hôm nay cái chết của chúng ta tên là gì không? - Không. - Cái chết tên là phía đông. - Tôi sẽ lái sang phía tây. Lần này lão tiến sĩ nhìn viên chủ thuyền, và nhìn bằng cặp mắt xoáy mạnh như cắm một tư tưởng vào óc. Lão quay hẳn người về phía viên chủ thuyền và thong thả, từng tiếng, từng tiếng một, nói lên những lời sau đây: - Nếu đêm nay đứng giữa biển khơi mà chúng ta nghe có tiếng chuông thì thuyền đi đứt. Viên chủ thuyền kinh ngạc, nhìn chằm chằm lão già. - Ngài định nói sao? Lão tiến sĩ không đáp. Vẻ nhìn của lão từ nãy giờ thô lỗ, lúc này đã thụt lại. Mắt lão nhìn vào trong. Hình như lão không nhận thấy câu hỏi ngạc nhiên của viên chủ thuyền. Lão chỉ chăm chú vào những gì lão đang lắng nghe bên trong. Môi lão bất giác thốt lên mấy lời sau đây, nhỏ nhẹ như một tiếng thì thầm: - Đã đến lúc để cho những linh hồn đen tối được rửa sạch. Viên chủ thuyền bĩu môi rất ý nghĩa khiến cái mũi cúi sát xuống với cả phía dưới mặt. - Thằng điên hơn là nhà hiền triết - hẳn lầu bầu. Rồi hắn lảng xa. Tuy vậy hắn vẫn hướng mũi thuyền về phía tây. Nhưng sóng gió cứ lớn dần. 5. ACQUANON. Đủ mọi kiểu căng phồng làm biến dạng lớp sương Mù, đồng thời làm giãn nở tất cả các điểm ở chân trời, y như có những cái mồm vô hình thổi căng những túi da của bão táp. Hình dáng mây trở nên đáng lo ngại. Đám mây xanh chiếm lĩnh toàn bộ nền trời. Bây giờ, ở phía tây cũng như ở phía đông, đều thấy có mây xanh. Nó tiến ngược chiều gió bấc. Gió trời vẫn hay có những mâu thuẫn như vậy. Biển cả vừa lúc nãy có vảy bay giờ lại có da. Con rồng ấy vốn như thế. Không phải cá sấu nữa, mà là trăn. Lớp da mầu chì bẩn thỉu, có vẻ dày dặn, nhăn nhúm, nặng nề. Trên mặt, sóng biển sủi tăm từng đám từng đám như những thứ ung nhọt tròn tròn rồi bục vỡ. Bọt nước y hệt một loại phong hủi. Chính vào lúc ấy chiếc thuyền, mà từ xa em bé bị bỏ rơi còn nhìn thấy đã thắp ngọn đèn hiệu của nó lên. Mười lăm phút trôi qua. Viên chủ thuyền đưa mắt nhìn lão tiến sĩ. Lão không ngồi trên boong nữa. Ngay lúc viên chủ thuyền vừa bỏ đi, lão tiến sĩ đã cúi gập cái thân hình hom hem của lão dưới tấm áo khoác mặc trong nhà và bước vào cabin. Tại đây, lão ngồi cạnh bếp lò, trên một thanh gỗ; lão rút ở túi ra một lọ mực bằng da và một cái ví bằng da dê, lão móc ở ví ra một tờ giấy gập tư cũ kỹ, vấy bẩn, ố vàng; lão mở tờ giấy ra, lấy một cây bút trong túi lọ mực, trải ví lên đầu gối, trải tờ giấy lên ví, và dưới ánh đèn soi sáng tên đầu bếp, lão bắt đầu viết trên mặt sau tờ giấy. Sóng biển lắc dữ quá làm trở ngại. Lão tiến sĩ viết rất lâu. Vừa viết, lão vừa để ý nhìn cái bầu rượu mà anh chàng Prôvăng mỗi lần thêm ớt vào món xúp lại tu, như để hỏi ý kiến về việc cho thêm gia vị. Lão tiến sĩ để ý đến cái bầu không phải vì nó đựng rượu mà vì một cái tên đan trên nền vỏ mây, bằng cói đỏ luồn giữa mây trắng. Trong buồng khá sáng nên có thể đọc được cái tên đó. Lão tiến sĩ, dùng tay, đánh vần khe khẽ: - Acquanon. Rồi lão nói với tên đầu bếp : - Tôi chưa để ý đến cái bầu này. Có phải trước nó của Acquanon không? - Acquanon, thằng bạn đáng thương của chúng tôi ấy ư? - tên đầu bếp hỏi - Đúng đấy. Lão tiến sĩ nói tiếp: - Acquanon, người Flamăng xứ Flăngđrơ phải không? - Phải. - Hiện đang bị tù chứ gì? - Phải. - Trong vọng lầu Satam? - Bầu rượu của nó đấy - tên đầu bếp trả lời - nó là bạn thân của tôi. Tôi cất giữ cái bầu để tưởng nhớ tới nó. Ôi, bao giờ thì chúng tôi mới lại gặp nó? Phải, cái bầu hông của nó đấy. Lão tiến sĩ lại cầm bút và lại chật vật viết những dòng chữ hơi ngòng ngoèo trên mảnh giấy. Chắc hẳn lão cũng có ý muốn viết cho thật rõ ràng dễ đọc. Mặc dầu thuyền chòng chành và tuổi tác làm run tay, lão cũng hoàn thành được điều lão muốn viết. Vừa kịp thời, vì thình lình biển đánh một cái rất mạnh. Một đợt sóng dữ chụp lên chiếc thuyền và người ta cảm thấy sắp mở đầu lớp vũ khúc hãi hùng của thuyền bè đón tiếp phong ba. Lão tiến sĩ đứng dậy, đến cạnh bếp lò, mỗi lần sóng giật lão lại khuỵu gối một cách thông minh, cố hơ vào ngọn lửa cạnh nồi những dòng chữ vừa viết xong, gập tư giấy bỏ vào ví, rồi bỏ ví và lọ mực vào túi. Bếp không phải là phòng tồi nhất trong cách sắp xếp nội thất tài tình của chiếc thuyền, nó rất riêng biệt. Tuy nhiên cái nồi vẫn đung đưa. Tên Prôvăng đứng trông chừng. - Xúp cá đấy - hắn nói. - Để cho cá nó ăn - lão tiến sĩ đáp. Nói xong lão quay lên boong. 6. HỌ TƯỞNG ĐƯỢC GIÚP ĐỠ Suốt thời gian mỗi lúc một thêm bận tâm đó; lão tiến sĩ điểm qua toàn bộ tình thế, giá có người nào ở gần lão thì đã được nghe những lời sau đây thoát ra từ môi lão : - Lắc dọc nhiều quá, mà lắc ngang lại không có mấy. Bị cái công việc đen tối của trí óc thức tỉnh, lão tiến sĩ ngồi soát lại tư tưởng như một người thợ mỏ lần xuống giếng sâu. Tuy trầm tư nhưng lão không phút nào sao nhãng việc quan sát biển cả. Quan sát biển cả là giây phút mơ màng. Cực hình tối tăm của sông nước lúc nào cũng quằn quại, sắp bắt đầu. Một tiếng than thở thoát ra từ khắp mặt biển. Những việc chuẩn bị buồn thảm mơ hồ, đang được tiến hành trong cảnh trời nước mông mênh. Lão tiến sĩ quan sát những cái trước mắt và không để sót một chi tiết nào cả. Vả lại trong vẻ nhìn của lão chẳng có một tí gì gọi là thưởng ngoạn. Không ai thưởng ngoạn địa ngục. Một cuộc chấn động rộng khắp hãy còn ngấm ngầm, nhưng đã rõ nét trong xáo động của trời mây sóng nước, làm rõ thêm và ngày càng làm mạnh thêm sức gió, hơi nước và sóng biển. Không gì đương nhiên và phi lý như đại dương. Tính chất phân tán luôn luôn gắn liền với uy lực của nó, và là một trong những yếu tố của sự rộng lớn đó. Lúc nào sóng nước cũng ủng hộ và chống lại. Nó chỉ tự thắt để rồi tự cởi. Phía này sóng tấn công, phía kia sóng giải thoát. Không có ảo ảnh nào như sóng nước. Làm sao vẽ nổi những chỗ nhấp nhô liên tiếp thật thật hư hư, những thung lũng, nhưng võng nằm, những lồng ngực vỡ, những hình phác thảo ấy? Làm sao diễn tả được những chỗ bọt nước dồn dập, lẫn lộn cả núi non và mộng ảnh. Cái không tả nổi ở ngay đó, ở khắp mọi nơi, trong chỗ rách, trong chỗ nhăn, trong lo âu, trong mâu thuẫn, trong ánh sáng chập chờn, trong những giải mây buông thõng, trong những mái vòm luôn luôn sụp đổ, trong tan rã hoàn toàn và trong đổ vỡ thảm thê của toàn bộ cảnh thác loạn này. Gió bấc vừa chuyển sang chính bắc. Trong thế hung hăng nó rất thuận và rất cần cho việc rời khỏi đất Anh, đến nỗi viên chủ thuyền Matutina quyết định giương hết buồm lên. Chiếc thuyền lẩn trốn vào bọt sóng, như phi nước đại dong hết buồm, gió đằng sau chồm từ ngọn sóng này sang ngọn sóng khác, điên loạn và vui vẻ. Bọn tẩu thoát, hớn hở, cười ha hả. Chúng vỗ tay hoan nghênh sóng, nước, gió trời, buồm lái, tốc độ, cuộc trốn chạy, tương lai còn chưa rõ. Lão tiến sĩ dường như không nhìn thấy họ, vẫn trầm ngâm suy nghĩ. Bao ánh ngày còn lại đã bị che khuất hết. Phút giây đó là phút giây mà em bé chăm chú đứng trên vách biển xa lạ mất hút chiếc thuyền. Cho đến lúc ấy, mắt nó vẫn chằm chằm và như dán vào chiếc thuyền. Cái nhìn ấy có tham dự gì vào số mệnh không? Khi quãng cách xóa nhòa chiếc thuyền và khi không nhìn thấy gì nữa, em bé liền xăm xăm đi về phía bắc, trong lúc chiếc thuyền đi về phía nam. Tất cả chìm sâu vào đêm tối. 7. NỖI HÃI HÙNG THIÊNG LIÊNG Về phía họ, những người trên thuyền, hân hoan vô hạn nhìn mảnh đất thù địch lùi xa sau lưng và bé dần mãi. Vòng cung tối đen của đại dương cứ từ từ cong lên, làm mỏng dần trong ánh hoàng hôn Porlan, Puyêcbêc, Tinsan, Kimorit hai Matorave, những dải vách núi mờ trong sương và bờ biển lốm đốm hải đăng. Nước Anh mất hẳn. Xung quanh bọn người đào tẩu chỉ còn lại biển cả. Thình lình trời đêm bỗng tối khủng khỉếp. Không còn cảnh bát ngát nữa, cũng không còn khoảng không nữa; bầu trời là một khối đen ngòm khép kín trên chiếc thuyền con. Tuyết bắt đầu sa chầm chậm. Một ít bông tuyết xuất hiện. Tưởng như đấy là những hồn ma. Không còn thấy tí gì trong trường đua của gió lộng nữa. Người ta tự cảm thấy bị bỏ mặc. Tất cả những gì có thể có được đều ở đó, đều là cạm bẫy. Ở chỗ chúng ta, hiện tượng địa cực rồng lấy nước thường mở đầu bằng cảnh tối sầm như vậy của hang động. Một đám mây rất to, mờ đục, tương tự phía dưới một con giao long, đè nặng lên biển cả, và có những chỗ cái bụng tím bầm đó lại dán chặt với sóng nước. Một vài chỗ dán chặt đó giống hệt những cái túi thủng, bơm phồng biển lên, xì hơi ra rồi lại hút đầy nước vào. Những điểm hút như vậy làm dâng lên đây đó trên mặt sóng những cột bọt hình chóp nón. Cơn bão phương bắc ập lên chiếc thuyền con, chiếc thuyền con xông vào gió bão. Gió và thuyền lao bổ vào nhau như để lăng mạ nhau. Trong cuộc chạm trán mở đầu điên loạn này, không một lá buồm đại nào cuốn lại, không một lá buồm tam giác nào hạ xuống, không một mép buồm nào bị gấp, cuộc đào tẩu là một cơn mê sảng khủng khiếp. Cột buồm kêu răng rắc, oằn ra phía sau như sợ hãi. Ở bắc cầu chúng ta, gió cuốn thường xoay từ trái sang phải, cùng chiều với kim đồng hồ, di chuyển đôi khi mỗi giờ đến sáu mươi hải lý. Mặc dầu nằm ở trung tâm lực đẩy xoay tròn mạnh mẽ đó, chiếc thuyền con xử sự như đứng giữa vùng bán nguyệt thuận gió, không lo gì khác ngoài việc đứng vững trước sóng và hướng mũi vào ngọn gió trước mặt, đồng thời đón ngọn gió lúc ấy ở bên mạn phải để tránh những ngọn gió sau lưng và thổi xiên. Sự khôn ngoan nửa chừng đó chẳng ích gì nếu gặp phải gió trở liên tục. Trong vùng không thể tới được, gió thổi ào ào rất mạnh. Không gì có thể so sánh với tiếng gầm rú của vực Sâu. Đó là âm thanh dã thú vô biên của trời đất. Cái mà chúng ta gọi là vật chất, cái cơ thể không thăm dò được, cái hợp chất của những năng lượng không đo nổi, trong đó đôi khi người ta nhận ra một chút ý đồ rất nhỏ không thể thấy khiến phải rùng mình, cái vũ trụ mù quáng tối tăm ấy, vị Thần Vũ trụ không hiểu nổi ấy, có một tiếng kêu, một tiếng kêu kỳ lạ, kéo dài, dai dẳng, liên tục, không bằng tiếng nói nhưng lạ hơn tiếng sét. Tiếng hét đó là cuồng phong. Các âm thanh khác như câu hát, lời ru, tiếng kêu, giọng nói, thường thoát ra từ tổ chim, từ ổ trứng, từ những cuộc giao hợp, từ những buổi tân hôn, từ những căn nhà ấm, còn âm thanh này là cây nước, thoát ra từ cái Không nhưng lại là Tất cả. Những tiếng khác tiêu biểu cho linh hồn vũ trụ; tiếng này tiêu biểu cho quái vật. Đó là giống dị hình đang gào rống. Đó là cái không rõ, được cái mập mờ nói hộ. Thật là bi đát và khủng khiếp. Những tiếng ầm ầm đó đối đáp nhau ngay trên đầu và bên ngoài con người. Chúng dâng cao hạ thấp nhấp nhô, tạo nên những đợt sóng tiếng động, làm tất cả mọi sự bất ngờ hung dữ đối với trí óc, có lúc nổ ngay bên tai ta như tiếng kèn đồng nhức óc, có lúc ồ ồ khản đặc xa xăm; tiếng ồn ào choáng ngợp giống như một ngôn ngữ, mà quả thật là một thứ ngôn ngữ, đó là cố gắng của trời đất để nói lên, đó là tiếng bập bẹ của diệu huyền. Trong tiếng oa oa đó biểu lộ mơ hồ tất cả những gì mà cảnh hồi hộp rộng lớn tối tăm phải hứng nhận, chịu đựng, đau khổ, chấp nhận và vứt bỏ. Thường khi nó mất trí, nó như một cơn đau ác tính, thế mà chỉ là cơn động kinh thông thường chứ không phải chuyện sử dụng sức mạnh; người ta tưởng được xem một cảnh đổ nhào của đại ác vào chốn vô biên. Có lúc thoáng thấy sự đòi quyền uy của vật chất, không biết manh tâm nào đó muốn đòi lại cảnh hỗn mang với tạo hoá. Có lúc lại là tiếng than van, không trung rên rỉ và tự minh oan, một cái gì như trần gian được biện hộ; người ta tưởng vũ trụ là một vụ kiện cáo; người ta nghe người ta cố nắm được lý lẽ, cân nhắc cái phải cái trái đáng sợ; tiếng rên siết của bóng tối đó dai dẳng như phép tam đoạn-luận. Tư duy hoang mang cực độ, lý do tồn tại của những chuyện thần thoại và cả các thuyết đa thần là ở đó. Thêm vào nỗi hãi hùng của những tiếng thì thầm vĩ đại ấy, là những hình dáng phi phàm mơ hồ, là những khe vực lồng lộn trên mây, là những quái vật của Diêm vương hầu như được xác nhận. Không một khủng khiếp nào sánh kịp những tiếng thổn thức đó, những tiếng cười đó những tiếng đổ vỡ êm dịu đó, những câu hỏi và trả lời rối rắm đó, những tiếng gọi thủ hạ không quen biết đó. Con người không biết sẽ ra sao trước câu thần chú rùng rợn đó. Nó cúi gập trước sự bí hiểm của những âm điệu khắc nghiệt đó. Có điều gì ẩn ý? Chúng nghĩa là gì? Chúng đe doạ ai? Chúng van xin ai? Dường như đây là một cảnh đứt xích xổ lồng. Là tiếng gào thét của khe sâu gửi vực thẳm, của không khí gửi nước nguồn, của gió trời gửi sóng biển, của mưa ngàn gửi cho rừng núi, của đỉnh trời gửi cho lòng đất, của ngàn sao gửi cho bọt sóng, là rọ mõm đứt tung của vực thẳm, tất cả cảnh náo động ấy bị mối bất hoà bí mật nào đó với những lương tâm độc ác làm cho thêm phức tạp. Cảnh ồn ào của đêm tối cũng không kém phần sâu thẳm hơn cảnh im lặng của nó. Người ta cảm thấy trong ấy có sự phẫn nộ của vô định. Đêm tối là một sự có mặt. Có mặt của ai? Và lại giữa đêm trường và tăm tối phải phân biệt. Trong đêm trường có cái tuyệt đối; trong tăm tối có cái phức tạp. Ngữ pháp, kiểu luận lý ấy, không chấp nhận số ít cho tăm tối. Đêm trường chỉ có một, tăm tối thì nhiều. Lớp sương mù ấy của bí mật đêm trường là cảnh phân tán, cảnh nhất thời, cảnh sụp đổ, cảnh bi thảm. Người ta không nhìn thấy đấy nữa, người ta cảm thấy cái thực tế kia. Trong bóng tối vô biên và vô định, có một cái gì đó hay một người nào đó, sống động; nhưng cái sống động đó lại nằm trong cái chết của chúng ta. Sau bước đường trần gian của ta, khi bóng tối đó đối với chúng ta trở thành ánh sáng, cuộc sống bên kia cuộc sống của chúng ta sẽ tóm chặt chúng ta. Trong khi chờ đợi, hình như nó đang sờ nắm chúng ta. Tăm tối là một áp lực. Đêm trường là một thứ xâm chiếm linh hồn chúng ta. Có những giờ phút ghê tởm và trọng đại mà chúng ta cảm thấy cái ở phía sau bức tường phần mộ lấn át chúng ta. Không bao giờ vô định lại hiển nhiên như trong bão biển. Hãi hùng lúc ấy lại có thêm chất kỳ quặc. Kẻ chặn đứng hành động con người, vị thần Hô phong Hoán vũ thời xưa, nắm trong tay, để nhào nặn sự kiện theo ý riêng, cái nguyên tố không vững chắc, cái rời rạc vô cùng, cái sức mạnh tản mạn không thành kiến. Bí mật đó, tức là bão táp, luôn luôn tiếp nhận và thi hành không biết những thay đổi nào của ý chí, bề ngoài hay thực tế. Các nhà thơ của mọi thời đại đã gọi đó là giây phút bất thường của sóng nước. Nhưng làm gì có giây phút bất thường. Những điều kinh ngạc mà chúng ta thường đặt tên trong thiên nhiên là chuyện bất thường, và trong vận mệnh là ngẫu nhiên, điều là những mẩu định luật cảm đoán được. 8. NIX ET NOX[72]. Đặc điểm của bão tuyết là đêm tối. Vẻ ngoài thông thường của thiên nhiên trong giông bão là đất liền hoặc biển cả tối mù, bầu trời xám xịt, nay bị đảo lộn; bầu trời chợt tối đen, đại dương bóng trắng xoá. Bên dưới, bọt nước, bên trên u minh. Một chân trời khói bủa, một thiên đỉnh phù tang. Bão táp giống như phía trong một toà nhà thờ lớn căng vải. Nhưng không có đèn đuốc trong toà nhà thờ lớn đó. Không có đèn Xanh-Elmơ với những đầu sóng, không có tàn lửa, không có lân tinh, chỉ có bóng tối mênh mông. Cuồng phong địa cực khác cuồng phong nhiệt đới ở chỗ một bên thắp cháy tất cả mọi nguồn sáng, còn một bên dập tắt hết thảy. Trần gian đột nhiên trở thành một cái vòm hầm ngầm. Từ chỗ tối đen đó một thứ bụi cát lấm tấm nhợt nhạt rơi xuống lơ lửng giữa bầu trời và biển cả. Những chấm đó là những bông tuyết, trôi trượt, lang thang, bềnh bồng. Một thứ gì như nước mắt của một tấm khăn liệm sắp sống dậy và cử động. Thêm vào cảnh gieo rắc đó là một ngọn gió bấc điên cuồng. Một khối đen ngòm nát tan thành bụi trắng, tên hung dữ đứng trong bóng tối, tất cả ồn ào mà mộ địa có thể có được, một cơn phong ba dưới một cái nhà táng, bão tuyết là như vậy đấy. Bên dưới, đại đương rung chuyển, phủ lên những vực sâu khủng khiếp không lường. Trong gió địa cực, vốn có điện, bông tuyết lập tức trở thành những hạt mưa đá và không khí bỗng tràn ngập những viên đạn từ đâu bắn tới. Nước nổ lách tách như bị liên thanh quạt. Không có tiếng sét. Trong cơn bão bắc cực chớp cũng im lặng. Đôi khi người ta bảo mèo “gào” thì với loại chớp đó cũng có thể nói như vậy. Nó là một kiểu nhe răng dọa nạt nghiệt ngã lạ lùng Bão tuyết là thứ bão mù và câm. Khi nó đã đi qua, thường thường thuyền bè cũng mù và thuỷ thủ cũng câm. Ra khỏi một vực sâu như thế là điều rất khó. Tuy nhiên người ta sẽ nhầm nếu cho rằng chuyện đắm tàu tuyệt đối không thể tránh được. Những ngư dân Đan Mạch ở Đicxô và Balêzin, những người đánh cá voi đen. Hiêcnơ đi đến eo biển Berinh tìm hiểu cửa Sông mỏ đồng, Huytxân, Mắckenzi. Văngcuvơ, Rôx, Đuymông Đuyêcvin, đã gặp ngay tại địa cực những trận bão tuyết khốc liệt nhất và đã thoát khỏi. Chiếc thuyền con đã gặp phải loại bão như thế và đã giương hết buồm, đắc chí xông thẳng. Điên cuồng chống với cuồng điên. Lúc Môngômeri thoát khỏi Ruăng, lao chiếc thuyền của ông như bay vào dãy núi chắn ngang sông Xen ở Bui, ông ta cũng liều lĩnh đúng thế. Thuyền Matutina băng băng lao tới. Lúc căng buồm, có lúc so với mặt nước thuyền nghiêng đến mười lăm độ, một góc độ đáng sợ, nhưng cái sống bè bè của nó rất tốt, dán chặt xuống nước như nhựa đường. Sống thuyền chống chịu với bão giật. Chiếc đèn lồng vẫn soi sáng phía trước. Mây đẩy gió, kéo lê cả khối u trên đại dương, co hẹp và gặm dần biển cả xung quanh chiếc thuyền. Không một bóng hải âu. Không một cánh én biển. Chỉ có tuyết vả tuyết. Hiện trường của sóng rất hẹp và đáng sợ. Chỉ thấy ba hay bốn ngọn sóng, dài vô tận. Chốc chốc một tia chớp dài mầu đồng đỏ loé hiện sau những tầng lớp tối om của chân trời và thiên đỉnh. Vệt dài đỏ tươi đó cho thấy cảnh hãi hùng của trời mây. Vực sâu thình lình đỏ rực, trên đó thoáng nổi lên những tiền cảnh của mây và những hình ảnh trời nước đảo lộn mất hút vào chốn xa xăm, giúp ta thấy được đại dương trên toàn cảnh. Trên cái nền lửa đó, bông tuyết trở thành mầu đen, tưởng như đó là những cánh bướm đen trong một lò lửa rực. Rồi tất cả lại tắt ngấm. Tiếng nổ đầu tiên vừa dứt, ngọn cuồng phong, vẫn đuổi theo chiếc thuyền con, liền cất giọng trầm đều rống lên. Đấy là đợt gầm đáng sợ khi ầm vang lặng bớt. Không có gì đáng ngại bằng cuộc độc thoại của bão táp. Tiếng rì rầm buồn thảm đó giống hệt giây phút tạm ngừng của những lực lượng chiến đấu bí mật, và báo hiệu một đợt rình đợi trong vô định. Chiếc thuyền con vẫn điên cuồng lao tới. Nhất là hai lá buồm đại phải làm một nhiệm vụ khủng khiếp. Trời biển đều đen như mực, với những tia bọt bắn cao hơn cột buồm. Chốc chốc những tảng nước lại lao qua boong tàu như một trận hồng thuỷ, và mỗi lần thuyền chòng chành, bao nhiêu lỗ thả neo, lúc của mạn phải lúc của mạn trái, trở thành bấy nhiều cái mồm há hốc, lại mửa bọt sóng trả về cho biển cả. Đàn bà vào nấp trong cabin, nhưng đàn ông ở lại hết trên boong. Tuyết vẫn cuốn xoáy bưng lấy mắt. Sóng nước lại khạc nhổ thêm vào. Tất cả đều lồng lộn điên cuồng. Đúng lúc ấy tên đầu đảng đứng phía sau trên khoang lái, một tay bám vào dây chằng, một tay giật chiếc khăn quấn đầu ra vẫy trong ánh đèn lồng, kiêu căng thoả mãn, nét mặt tự đắc, tóc tai rõ khiếp, say sưa vì tất cả cái bóng đen kia, hét to: - Chúng ta tự do rồi! - Tự do! Tự do! Tự do! tốp người đào tẩu cùng nhắc lại. Tất cả bọn, tay nắm chặt những dụng cụ trên thuyền, đều đứng thẳng dậy trên boong. - Hura[73] - tên đầu đảng hét to. Và cả bọn cùng hét vang trong bão táp: - Hura! Tiếng hò reo vừa tắt trong sóng gió ào ào thì một giọng nói oai nghiêm vang động nổi lên ở đầu thuyền đằng kia. - Im lặng! Tất cả mấy cái đầu đều quay lại. Họ vừa nhận ra giọng nói của lão tiến sĩ. Bóng tối dày đặc lão tiến sĩ tựa lưng vào cột buồm, nó lẫn với dáng vóc gầy guộc của lão nên người ta không nhìn thấy lão. Giọng nói lại cất lên. - Hãy lắng tai mà nghe! Tất cả mọi người đều im lặng. Lúc ấy, trong tăm tối, rõ ràng có tiếng chuông thánh thót tiếng một. 9. PHÓ MẶC BIỂN DỮ Viên chủ thuyền vẫn cầm cần lái, cười phá lên. - Có tiếng chuông? Hay lắm! Chúng ta đang rẽ neo bên trái. Tiếng chuông chứng minh cái gì? Rằng đất liền ở bên phải chúng ta. Giọng nói rắn rỏi thong thả của lão tiến sĩ đáp lại: - Đất liền không ở bên phải các người đâu. - Có! viên chủ thuyền quát lên. - Không. - Nhưng tiếng chuông từ đất liền đến. - Tiếng chuông ấy - lão tiến sĩ nói - từ biển cả lại. Những con người liều lĩnh kia rợn cả tóc gáy. Bộ mặt hung dữ của hai mụ đàn bà hiện ra trong cái ô vuông ở nắp cabin, như hai con quỉ hiện hồn. Lão tiến sĩ bước tới một bước, bóng dáng lênh khênh của lão tách khỏi cột buồm. Tiếng chuông lại thánh thót trong đêm tối. Lão tiến sĩ nói tiếp: - Giữa biển khơi, nửa đường giữa Porlan và quần đảo Măngsơ có một cái phao hiệu, neo bằng xích sắt vào đáy biển và nổi là là trên mặt nước. Trên phao có gắn một giá sắt, ở gióng ngang giá sắt có treo một cái chuông. Lúc nào gió to, sóng biển đu đưa cái phao, thế là chuông rung. Chính các người đang nghe tiếng chuông đó. Lão tiến sĩ để cho một đợt gió bấc đi qua, chờ cho tiếng chuông nổi lên lại, rồi nói tiếp: - Trong cơn bão, lúc gió tây bắc thổi, mà nghe tiếng chuông tức là thôi rồi. Vì sao? Vì nếu các người nghe được tiếng chuông tức là nhờ có gió đưa nó đến. Thế mà gió thì từ phía tây đến và bãi ngầm ôrinhi lại ở phía đông. Các người chỉ nghe được tiếng chuông khi đứng giữa phao và bãi ngầm. Gió đang đẩy các người vào đúng bãi ngầm đó. Các người đang ở phía bất lợi của phao. Nếu ở.phía thuận thì các người đã đứng giữa biển khơi, nước cả, trên đường an toàn, và đã không được nghe tiếng chuông. Gió đã không mang tiếng chuông đến cho các người. Các người đã đi cạnh phao mà không biết có gió ở đấy. Chúng ta đã đi chệch hướng rồi. Tiếng chuông đó chính là tiếng cấp báo tầu thuyền sắp đắm. Bây giờ các người hãy suy tính đi? Trong lúc lão tiến sĩ nói, thì gặp lúc gió bấc hơi dịu, chuông lắng xuống, gõ rất thong thả, từng tiếng, từng tiếng một, và tiếng thánh thót cách quãng đó dường như xác nhận lời nói của lão già. Văng vẳng như tiếng chuông cầu nguyện của vực sâu. Tất cả mọi người đều lắng nghe, hồi hộp, lúc giọng nói này, lúc tiếng chuông kia. ---------------- [56] Ghi chú của vaporuos (thuvien-ebook.com) : Hiện tượng Calina là hiện tượng không khí bị bụi phủ mờ trong suốt mùa hè ở TBN do bụi bị những cơn gió mạnh thổi cuốn lên từ nền đất khô [57] Magienlăng (Magellan hoặc Magalhaens): nhà hàng hải Bồ Đào Nha đã tìm ra đường biển đi quanh dưới Nam Mỹ và đã tìm ra eo biển Magienlăng (Détroit de Magellan). [58] Una nube salida del malo del diabolo (V.H). [59] Pirênê (Pypréneés); dãy núi ngăn cách nước Pháp và nước Tây Ban Nha. [60] Người Baxcơ (Vùng tây bắc Tây Ban Nha) [61] Mũ cua phái quá khích trong thơ cách mang Pháp. [62] Món xà lách dầu giấm nóng - món ăn Tay Ban Nha có thịt, rau và gia vị. [63] - Anh nông dân miền núi, lão kìa là ai thế? - Một con người. - Lão nói tiếng gì? - Tất cả - Lão biết những gì? - Tất cả. - Lão người nước nào? - Tất cả các nước và chẳng nước nào cả. - Lão thờ gì? - Chúa. - Anh gọi lão là gì? - Thằng điên. - Anh bảo anh gọi lão là gì? - Nhà hiền triết. - Trong bọn của anh, lão là gì - Lão là lão. - Thủ lĩnh à? - Không - Thế là gì? - Linh hồn. [64] Côlizê (Coliseé): đấu trường ở La-mã, nơi các tín đồ Gia tô thường bị vứt cho thú dữ xé xác [65] Livrơ (livre) quãng 500gv [66] Lôsơ (lơch: dụng cụ đo tốc độ thuyền gồm một tấm ván thả xuống nước và một sợi dây treo. [67] Quãng 32 phân [68] Quân phản bội. [69] Tức Crixtop Côlông (Christophe Colomb, 1451-1506) nhà thám hiểm người ý đã tìm ra Châu Mỹ đầu tiên ngày 3-8-1492. [70] Biển Măngsơ (Manche) ngăn cách nước Anh và nước Pháp [71] Tượng trưng cho im lặng mang nhiều bí hiểm. Theo thần thoại Hy Lạp, con nhân sư (đầu đàn bà mình sư tử) nằm ở giữa đường và đặt những câu hỏi bí hiểm cho kẻ qua đường. Ai đáp được thì đi tiếp, ai không đáp được thì bị ăn thịt. [72] Tiếng la tinh : Tuyết và Đêm. [73] Hura: hoan hô.