áu giờ sáng, trời gió và trên trời mây bay đi hết. Ngoài đường phố đã đầy những tiếng ồn ào. Đàn phong cầm chơi đi chơi lại những điệu nhàm tai giữa tiếng trống náo nhiệt. Tiếng hát cất lên rồi lắng xuống, những tiếng vỗ tay lẹt đẹt. Một giọng nói được loa phóng thanh khuếch đại bật lên: “Cách mạng là lý trí tối cao! Hoan nghênh các chiến sĩ Cách mạng! Ai không muốn có cách mạng hãy cuốn xéo!” Năm 1966, năm có những sự kiện lớn dồn dập xảy ra thì tôi mười sáu tuổi. Một lớp lông tơ màu đen mọc lún phún phía trên môi trên của tôi. Sâu thẳm trong lòng, tôi đã phải chịu đựng nỗi đau vô hạn của một thiếu niên muốn được trưởng thành làm đàn ông. Đầu tôi tràn ngập những ý nghĩ thiểu não lẫn những cơn choáng váng. Con tim trống rỗng, tâm hồn đờ đẫn, tôi lang thang trên các đống đổ nát của cung điện Mùa Xuân. Tương lai không làm tôi quan tâm, tuổi thơ không làm tôi hoài niệm, nỗi lo lắng duy nhất của tồi là đau đớn tự vấn: “tôi là ai?” Vào một buổi sáng mùa hè đẹp trời, điều kỳ diệu đã xảy ra. Tiếng động kích thích tính hiếu kỳ, tôi lấy xe đạp đi ra khỏi nhà. Đúng ngã tư Trung Quan Thôn, tôi gặp sinh viên trường đại học Thanh Hoa từ khu nội trú đến. Họ mặc đồng phục màu xanh áo lính, ngực đeo hình chủ tịch Mao Trạch Đông, cánh tay phải đeo băng đỏ đậm, họ phất cờ và căng biểu ngữ dài mười mét, làm bằng hai tấm rèm giật ra từ phòng hội họp, Trên biểu ngữ viết “CHỦ TỊCH MAO TRẠCH ĐÔNG MUÔN NĂM”. Tôi để xe đạp trên vỉa hè và chen vào với đám đông. Không ai nhận ra sự đột nhập của tôi, tôi lấy quyển sách nhỏ màu đỏ trong túi ra cầm tay rồi cùng đoàn người diễu hành. Tính hiếu kỳ kích thích khiến tôi tiến bước nhanh hơn những người khác. Chẳng mấy chốc tôi gặp nhóm sinh viên mới gồm con em nông dân, công nhân và viên chức nhỏ. Họ ăn mặc kém hào nhoáng hơn. Họ mặc quần áo nhàu nhĩ màu xanh lơ: từ một năm nay, cả bộ quần áo màu xanh lá cây kiểu quân đội trở thành đồ vật xa xỉ, quý hiếm Băng đeo tay của họ không đúng kích cỡ chính thức. Họ nhiệt tình tự may lấy bằng tay bằng tay rồi nhuộm màu đỏ đầy thánh kính. Không khí hừng hực ngọn lửa nhiệt tình, những con người này toả rạng niềm vui. Một cô gái, có thể nói là bé gái vì nom rất trẻ con, ngồi trên chiếc xe kéo ba bánh, chơi phong cầm điêu luyện điệu nghệ. Xung quanh cô, là những bức chân dung Mao chủ tịch nhảy múa. Một thanh niên cao to, tóc cắt trọc, dẫn đầu nhóm. Anh mặc áo vét xanh là lượt cẩn thận nhưng vá ở khuỷu tay. Loa phóng thanh trước miệng, anh ta đọc thơ của Mao: Một mình đứng trước cái rét mùa thu, Giữa dòng Siang đang trôi nhanh về miền Bắc Đến tận mũi đảo Cam Ta nhìn qua hàng ngàn ngọn núi đỏ chót Những tầng tầng lớp lớp cảnh rừng nhuộm đỏ Trên những dòng sông mênh mông, xanh trong Hàng trăm con tàu đua nhau lao đi Đại bàng đập cánh vào không gian vô tận Cá bơi lượn ngang mặt nước. Mọi người, trong sương giá, tranh đua tự do Xúc động trước mênh mông này Ta cất tiếng hỏi con sóng bao la Ai là người chèo lái con tàu chìm nổi. Theo nhịp những vần thơ tuyệt đỉnh, ông mặt trời nhô lên từ sau rặng cây, trút xuống chúng tôi cả đại dương ánh sáng. Bị xô đẩy vì sinh viên chen lấn nhau đế dán lên tường và cột điện những bức tranh chế giễu kẻ thù nhân dân, tôi nhập vào hàng ngũ trường đại học Bắc Kinh, nơi đang bùng nổ chiến tranh. Hai đoàn người đi sát bên nhau, văng vào nhau các câu lên án mỉa mai, mắt gườm gườm nhìn nhau thù địch. Bất chợt trong mớ hỗn loạn, có hai cô gái trẻ được đồng đội công kênh trên vai, nâng cao lên phía trên đám đông, họ đối mặt với nhau. Hai cô gái bắt nhịp cho cả bọn cùng cất giọng đồng ca những điệu hát cách mạng. Trong phe của tôi, mọi người hát hết mình bài “Đông phương hồng” và ở phe bên kia lại vang lên thật to “Ra khơi nhờ tay lái vững”. Sau đó, phe đầu tiên bất chợt hoà giọng ‘'Tiến lên! tiến lên! đội ngũ ta tiến về phía vầng dương”, phe thứ hai hát đối lại bằng bài “Ngôi sao đỏ rực sáng lấp lánh”... Đứng dưới lá cờ trường Đại học Nhân dân, tôi được yên thân. Hai sinh viên nắm tay tôi. Sát cánh bên nhau, hàng trăm thanh niên kết thành một khối và hát những bài thơ của Mao Chủ tịch. Tiếng tôi hát chìm giữa dàn đồng ca đang rống lên. Tôi không nghe thấy giọng tôi nói, nhưng những lời thơ làm đầu tôi quay cuồng và bụng tôi nóng ran. Lý tưởng mà chúng tôi say mê là: nước Trung Hoa thịnh vượng, nhân dân Trung Hoa hạnh phúc, giai cấp công nhân rạng rỡ nụ cười thoả mãn, trẻ con giống như những bó hoa tươi. Bỗng nhiên tất cả hoàn toàn yên tĩnh, giọng một người diễn thuyết vang lên. Từ loa phóng thanh loan ra giọng nói dịu dàng, trong sáng và rành mạch: " Thưa các đồng chí, chúng ta đang sống trong một thời kỳ hoàn toàn trong sáng. Tám năm chiến tranh chống Nhật Bản, bốn năm chiến đấu chống Quốc dân đảng làm đất nước kiệt quệ và biến nền văn minh chúng ta chỉ còn lại là con số không. Thế hệ chúng ta gắn liền với nền dân chủ nhân dân không biết đến cả chế độ nô lệ lẫn giết chóc. Chúng ta đã học phân biệt thiện với ác, đẹp với xấu, dũng cảm với đớn hèn, chúng ta ý thức được rằng chúng ta sẽ hy sinh tương lai cho sự nghiệp tái thiết đất nước. Nhưng chúng ta thiếu kinh nghiệm cho nên chúng ta khao khát được tôi luyện giống như thép ước ao được nung đỏ trong lò cao. “Chúng ta, những người sinh viên, nôn nóng cải thiện xã hội. Hôm qua, chúng ta muốn trở thành kỹ sư, giáo sư, thủ thư và tặng cho đất nước tri thức của chúng ta. Hôm nay, Mao Chủ tịch kính yêu của chúng ta nói: “Cần phải nghi ngờ tất cả cần phải đánh đổ tất cả”. “Nghi ngờ tất cả”, có nghĩa là bản thân mình phải tự đánh giá, dám biết coi khinh, tin tưởng vào dự cảm của mình, tin tưởng vào tuổi trẻ. Trong châm ngôn “cần phải đánh đổ tất cả”, Người cầm lái vĩ đại đã cho chúng ta thấy nhiệm vụ của chúng ta và chỉ cho chúng ta con đường cần phải đi, đó là: làm cách mạng. Điều này có nghĩa là chúng ta phải mạnh bạo, loại trừ trong bản thân ta tất cả những nguyên tắc đã được thiết lập còn sót lại, rồi lật đổ xã hội cũ với tất cả các thành phần thối nát của nó. Mao Chủ tịch còn nói “những kẻ đại diện cho quyền lực đã trở thành những tay tư sản, chúng tồn tại nhờ dựa dẫm vào sự ngoan ngoãn của tuổi trẻ”. Thầy cô giáo, cha mẹ chúng ta và một số người lãnh đạo cứng nhắc, bảo thủ đã trở thành chướng ngại vật cho cách mạng xã hội Trung Quốc. Họ sợ sự tiến bộ, sợ cách mạng văn hoá sẽ làm họ mất quyền lực. Các đồng chí, tương lai thuộc về tuổi trẻ. Chúng ta hãy tập hợp nhau lại dưới lá cờ của tư tưởng Mao, dùng phép lành của nó mà đập tan mọi quyền lực, đánh đổ những kẻ xét lại, bọn tiếu tư sản, những kẻ bảo vệ chế độ phong kiến. “Mao Chủ tịch muôn năm! Cách mạng văn hoá vô sản muôn năm! Đại đoàn kết nhân dân Trung Hoa muôn năm!” Tiếng hát lại cất lên Tràn ngập niềm xúc động mãnh liệt, tôi không thể nói gì dù chỉ nửa lời. Chưa từng bao giờ có bài diễn văn tác động mạnh mẽ đến tôi như vậy. Mỗi lời nói xuyên thâu trái tim tôi. Từ một năm nay, lần đầu tiên tôi có bao nhiêu là suy nghĩ suy tư chen lấn trong đầu. Tôi chưa bao giờ nghi ngờ cha mẹ tôi, chưa bao giờ nghi ngờ thầy cô giáo của tôi. Họ là chân lý tuyệt đối. Cuộc sống của tôi trôi chảy, bình lặng, yên ổn; Tôi từng là học sinh ngoan ngoãn, vâng lời, thích đọc sách, thích chơi cờ, chơi bóng đá, mơ ước đỗ vào trường đại học Bắc Kinh để rồi một ngày nào đó sẽ trở thành nhà vật lí thiên văn Trong những dự định mênh mông về cuộc sống như vậy, quyết định của bản thân tôi có vai trò như thế nào? cha mẹ tôi có vai trò như thế nào? Tôi được giáo dục phải biết tôn trọng, phải biết vâng lời. Chưa bao giờ tôi dám ngang cao đầu kêu gào, hát hò và diễn đạt ý kiến riêng thành lời dõng dạc Tôi là một thứ bù nhìn được sản xuất ra theo dây chuyền rồi được phân phát cho một chức năng, một số phận. Không bao giờ dám phủ định hay gạt bỏ vì cái gì, tôi không còn biết tôi là ai nữa. Chỉ có cách mạng mới rèn được cho tồi một bản sắc Tôi tìm trong đám đông cô gái ban lúc nãy nói trên loa phóng thanh, đúng lúc đó, hàng nghìn Hồng vệ binh từ trường đại học đi ra nhập vào nhóm chúng tôi. Ai đó chuyền cho tôi lá cờ đỏ. Một nữ sinh viên phát cho tôi tờ giấy in những chỉ thị mới nhất của Uỷ ban Trung ương Cách mạng văn hoá Tôi gập nó lại làm đôi, nhét vào túi áo vét, nơi gần sát trái tim. Những tiếng thì thầm nổi lên. Họ bàn bạc với nhau rồi thống nhất đặt tên cho tôi là Xuân Ninh, “sự yên ả của mùa xuân”. Mắt nhắm nghiền, lông mày nhíu lại, tôi chìm vào lặng thinh. Thỉnh thoảng, tiếng anh tôi cười hả hê lôi tôi từ sâu thẳm của thế giới Bóng tối trở về. Tôi bỗng khóc thét lên. Má tôi rát bỏng, giọng tôi như xé vải. Tôi tìm cách thách thức với anh tôi. Đứa con trai được kích thích hét váng lên inh ỏi cho đến khi tôi ngạt thở và những tiếng thét của tôi trở thành những tiếng rên yếu ớt. Bà tôi kéo tuột anh tôi ra khỏi bầu vú mẹ. Mẹ tôi suy yếu hoàn toàn sau kỳ sinh nở. Bà cho anh vào phòng của mình, tìm cho anh một bà vú to khoẻ, được ăn uống nhồi nhét như một con ngỗng nhà nuôi. Khi Xuân Di đi rồi, mấy ngày sau thì tôi tăng cân. Ba tuổi, anh tôi được mặc váy ngắn, đội mũ chiến nhẹ, rồi được đặt lên yên ngựa. Khi vừa tròn bốn tuổi, bà cho mời thầy giáo nổi tiếng tỉnh Tứ Xuyên về dạy học cho anh ấy. Ít lâu sau, bà chết ở đám tang của bà, người ta nắm tay tôi đẩy về phía một đứa con trai nhỏ có khuôn mặt cau có. “Xuân Di, đây là em Xuân Ninh của mày; Xuân Ninh, đây là anh Xuân Di của mày”, người ta nói với chúng tôi. Tôi quỳ xuống chào. Anh ấy mặc tang phục may bằng vải lanh trắng. Tôi chỉ có kỷ niệm về anh trai tôi quấn trong tã trắng, suốt ngày lắc đầu gào thét. Trong năm năm tách nhau, anh ấy lớn lên nhiều. Tôi không nhận ra được khuôn mặt anh ấy, ngày xưa bé tí tẹo, đỏ hỏn và đầy nếp nhăn. Anh ấy cao hơn tôi một cái đầu. Những bài tập võ làm cho cánh tay anh ấy nở nang, đôi vai dày cuồn cuộn. Má đầy thịt bao xung quanh cái mũi tẹt dí xuống mặt Anh ấy khinh khỉnh nhìn tôi vẻ thù địch Tôi mỉm cười. Anh ấy cong môi trên lên, đáp lại bằng một cái nhăn mặt khủng khiếp. Tôi sợ, nước mắt rưng rưng. Anh tôi quan sát tôi, vẻ mãn nguyện. Tôi cố gắng hết sức không khóc, mỉm cười với anh ấy lần nữa. Anh ấy quay đi. Sau hôm đưa ma, người ta không cho anh ấy bú vú nuôi nữa và cho ở với mẹ của hai chúng tôi. Nhưng anh ấy trốn đi gặp vú nuôi đang làm việc trong bếp. Vú vứt đồ làm bếp xuống, ôm anh ấy vào lòng khóc nức nở. Cả hai trốn trong góc chứa đồ. Bà ấy cởi khuy áo ra. Anh tôi nằm trên đầu gối bà, mắt nhắm hờ, bám lấy bầu vú bú chùn chụt. Tay còn lại vặn vẹo chơi nghịch bầu vú bên kia. Anh ấy ngủ thiêm thiếp, mơ màng, chìm vào mùi thơm da thịt của vú nuôi. Thế rồi cả hai bị phát hiện. Chồng của vú làm việc trong chuồng ngựa được gọi đến, người ta cho ông ta một món tiền. Sáng hôm sau, ông ta gói ghém hành lý ra đi, mang theo cả người vợ. Xuân Di không thấy vú nuôi nữa, lo lắng điên cuồng. Anh ấy một mình bí mật sục sạo chuồng ngựa, nhà bếp, nhà kho, vào cả trong các buồng lạnh đã được đóng chặt bằng khoá to qua lối cửa sổ, lật rèm che phòng ngủ, rũ gối, tìm trong từng góc vườn. Anh ấy không tin được là vú nuôi có thể biến mất, nên quyết tâm tìm cho bằng được cho dù vú có biến thành bông hoa, thành cái bóng hay thành hơi nước. Mùi da thịt vú ám ảnh anh. Anh ấy đánh hơi như chó dại. Đêm, anh ấy tỉnh dậy, âu sầu thiểu não. May mắn thay ngày tháng trôi đi. Nỗi ám ảnh giống như giấc mơ biến mất. Anh trai tôi tìm thấy niềm vui mới. Anh ấy được phép ra khỏi nhà nếu có gia nhân đi kèm. Họ cưỡi ngựa một mạch xuống núi theo hình chữ chi. Phía dưới, đồng cỏ trải rộng đến tận chỗ trời cao cúi cong xuống, hoà vào trong bao la. Ngẩng đầu lên có thể thấy ngôi nhà kiên cố, giống một con đại bàng đậu trên mỏm đá bo bo canh giữ đất đai của mình. Đám người phi nước kiệu. Trái đất run lên, thảo nguyên lao lên, trùm xuống, ào sâu vào con ngươi và lồng ngực của anh. Đôi lúc, cả bọn dừng lại vì một toán kị sĩ trong những bộ quần áo kỳ lạ vấy bẩn tiến đến gần. Cả đoàn chờ cho toán kị sĩ lại gần và xuống ngựa. Anh trai tôi ngạc nhiên nghe thấy mình được gọi là thiếu gia. Anh tôi khinh khỉnh quan sát đám người hoang dại đó cúi mình rất thấp để chào anh. Một hôm, viên quản gia tháp tùng anh trai tôi quàng tay vẽ một vòng và nói: “Thưa thiếu gia chủ, những ngọn núi này, đất đai này và súc vật kia là của người. Bọn người kia là nô lệ của người”. Theo cánh tay của tên quản gia, mắt anh tôi đưa từ mỏm núi này sang mỏm núi khác rồi dừng lại trên thảo nguyên nơi gió thổi bạt cây cỏ tạo nên một đường chạy dài như một đường cày rộng. Anh hắng giọng, muốn nói một câu gì đó trang nghiêm. Nhưng trong đầu anh chẳng có gì mà nói. Bỗng nhiên có tiếng vỗ cánh đồm độp, một con sếu bay ngang trời. “Sếu trắng kia, của ta!”, anh trai tôi mừng rỡ kêu lên rồi chạy bổ theo để bắt. Anh tôi cảm thấy mình côi cút kể từ khi bà tôi qua đời Anh tôi hoàn toàn bối rối khi được dẫn tới gặp mẹ. Ngược với bà tôi lúc nào cũng chung thuỷ với màu áo lam, mẹ tôi lại mặc toàn lụa và gấm đẹp. Tóc mẹ đen nhánh, dùng dầu quế chải bóng mượt. Một con chim phượng miệng ngậm viên ngọc to trang trí búi tóc của mẹ. Anh tôi ngắm mẹ, miệng há hốc ra, chẳng nghe được gì chẳng nghe được tiếng ai nói hết. Mẹ tôi thở dài đứng dậy bỏ mặc anh tôi đang đờ người ra đó. Anh đứng như tượng phỗng, lòng tràn ngập một nỗi buồn lạ lùng. Đôi khi, tâm trạng mẹ vui vẻ, mẹ để cho anh ngồi cạnh rồi hỏi anh muốn ăn gì, thích đồ chơi gì, việc học hành của anh thế nào. Mẹ đặt bàn tay nặng những nhẫn lên đầu anh, anh tôi thẹn đỏ như gấc, người cứng đờ lại. Anh trai coi khinh tôi. Bà tôi không bao giờ nói với tôi nửa lời, bà dạy cho anh biết kiêu ngạo khi là thân trai, là người nối dõi tông đường. Tuy nhiên, anh vụng trộm quan sát tôi. Đối với anh, những việc tôi làm lúc thức dậy, lúc một nhũ mẫu và hai thị nữ hối hả tắm cho tôi, chải tóc rồi mặc quần áo cho tôi, là một nghi lễ đáng xấu hổ. Buồi chiều, sau khi phi ngựa một vòng trở về, người đầy bụi và mồ hôi, anh thấy tôi đang ngồi một chỗ tránh nắng và tránh gió. Tôi đứng lên bắt chuyện với anh. Lúc nào nhìn thấy anh, tôi cũng thấy vui vẻ. Còn anh thì nhìn lại tôi đầy vẻ khinh rẻ tàn bạo đến mức hễ còn cách anh năm bước là tôi đứng sững lại không dám bước tiếp nữa. Đối với tôi, trả thù anh rất dễ. Xuân Di lúng túng trước những âu yếm vuốt ve của mẹ, còn tôi lại nhào vào vô cùng thích thú. Nằm trên đầu gối mẹ, tôi vặn vẹo người, vầy vò váy lụa của mẹ, chơi với các đồ trang sức của mẹ, hít hà mùi nước hoa của mẹ. Sự sỗ sàng này làm anh tôi bực bội tức giận vì anh cảm thấy mình lố bịch. Một đêm, tiếng tôi hét làm anh thức giấc. Anh đứng lên trên nệm, vén màn rèm lên, rồi tuồn ra khỏi giường. Bà nhũ mẫu cùng ngủ trong phòng với bọn hầu gái biến đâu không biết. Tò mò, anh tôi đẩy cửa bước ra sân. Những bóng đen in hắt trên lối đi đến toà nhà đối diện, từ đó có tiếng tôi kêu khóc và rên rỉ. Anh tiến lại gần cửa sổ, nhấm nước bọt cho ướt ngón tay, rồi làm thủng một lỗ trên tờ giấy bản rồi dán mắt vào đó. Những gì anh nhìn thấy làm anh sợ chết cứng. Anh thấy tôi ngồi trên giường váy kéo lên, và được một hầu gái mặc bộ đồ chàm giữ lấy. Bà quản gia, trước kia là vú nuôi của mẹ tôi, ngồi trên ghế đẩu trước giường, tay áo xắn lên. Bà tay cuốn băng quanh bàn chân tôi. Mỗi một vòng, bà lại thít chặt lại. Ngoài tiếng nức nở của tôi chỉ có sự im lặng trang trọng. Trong bóng tối, anh tôi thấy bà nhũ mẫu của anh tay cầm kéo, bên cạnh là một nữ tỳ bê chậu nước và một nữ tỳ khác bê một cái giỏ. Quần áo màu sặc sỡ của họ thành những mảng đen trong bóng tối. Mẹ ngồi trên ghế, tựa lưng vào tường, hơi cau mày mỗi khi tôi kêu quá to. Cuốn băng xong, bà quản gia khâu nó lại. Chiếc kim lấp lánh. Mẹ đưa cho bà ta cuộn băng thứ hai để bó nốt chân kia. Các đốt ngón chân đau nhức, tôi khóc lóc giãy giụa. Một bà nhũ mẫu lấy cánh tay ghì chặt tôi lại. Thỉnh thoảng, một cô thị tỳ lấy khăn ướt lau mặt tôi đẫm nước mắt và mồ hôi. Thay vì đến giúp tôi thì anh tôi lại run lẩy bẩy ngoài cửa sổ. Gió rú ngoài vườn, lá xào xạc. Một con chim cất tiếng khàn khàn rồi tung mình vào bầu trời. Kinh hoàng không thể tả được, anh tôi trốn vào phòng riêng, chui xuống đống chăn. Đêm đó, tôi không ngủ được. Cạn nước mắt vì khóc, tôi rên khừ khừ. Nỗi đau đớn ở chân tôi lan ra khắp nơi, đùi tôi ngứa ngáy. Ngày hôm sau, người ta bắt ép tôi đứng lên. Dù tôi van xin thảm thiết, nhưng tôi vẫn bị bắt buộc phải đi lại trên đôi chân bó chặt. Yên lặng bất thường ngự trị trong vườn. Người ta nói anh tôi bị sốt. Anh ấy nằm liệt giường mười ngày. Năm lên sáu tuổi, anh tôi và tôi đã tỏ ra có tính cách trái ngược nhau. Xuân Di hung hăng và hiếu động còn tôi lại biết kiềm chế tính đỏng đảnh, biết giữ ý tứ trong lời nói, biết đoán trước những đòi hỏi của mọi người. Anh tôi thích chế ngự thiên hạ, còn tôi chỉ thích làm hài lòng người khác. Khuôn mặt Xuân Di là một vũ trụ hỗn độn mà ở đó thiên nhiên chưa định hình. Gió, mây và mù dày đặc vần vũ giữa đất và trời. Anh ấy có mũi quá to, đôi má quá phình, mí mắt quá hụp làm cho đôi mắt chỉ còn tựa như hai đường kẻ mảnh - có thể gọi là giống bố. Người ta nói rằng khuôn mặt tôi có những nét đẹp nhất của ông bà tôi, lộng lẫy và kiêu sa. Ngay cả cha chúng tôi, người nghiêm khắc và ủ ê, đôi lúc cũng tỏ ra cảm động khi nhìn tôi. Cha trút tiếng thở dài và phàn nàn tại sao tôi lại không phải là con trai. Ngôi nhà của chúng tôi vốn chỉ là một nơi trú ấn, một pháo đài, một vương quốc của những kẻ bị lưu đày. Qua nhiều thế kỷ, gia đình tôi cố gắng phục hồi lại vẻ huy hoàng, thanh tao ngày xưa. Nhưng nằm trong một vùng thiên nhiên chỉ có thể có được cái hùng vĩ và sự thô kệch, con mắt nhìn của cha ông tôi cũng biến đổi. Cách xa đô thành, tin tức hiếm khi đến được với các cụ, thế là các cụ chỉ biết đến vẻ lộng lẫy của quá khứ qua những bức chân dung các cụ tổ và những câu chuyện truyền miệng từ thế hệ này sang thế hệ khác, rút cục các cụ đã biến ngôi nhà thành một sự phô trương kiêu kì đầy mâu thuẫn. Tường nhà rất dày, quét sơn đỏ, mùa hè thì mặt trời thiêu đốt, mùa đông thì gió bấc đập ình ình, đôi chỗ bở ra, rơi xuống để hở những viên đá đen, nơi cho địa y xanh bám vào. Cánh cửa trang trí bằng đinh đồng đóng trên khung cửa vẹo vọ vì mưa gió nắng sương. Các tấm đá lát được đẽo cắt thô thiển, màu xám xỉn lót lối đi. Cây cối không có chút dịu dàng nào: những cây thông, cây trắc bách diệp, các loài tùng bách cành lá xoắn xuýt vào nhau vì gió thổi quá mạnh, sét đánh nứt cả thân cây tạo thành những ngọn giáo thép được nước mưa mài sắc thêm. Một cụ tổ nào đó trồng được mấy cây thùy liễu. Nửa thế kỷ sau, thân liễu bắt đầu rỗng, lại bị sét đánh, cành liễu tàn tạ xơ xác rạp xuống tận mặt đất. Nhưng mỗi khi gió nổi lên, tự nhiên đám cây cối nổi hứng lạ kỳ, chúng cùng nhau nhảy múa. Mấy khóm đỗ quyên, loại hoang dại nhất, cũng ra được hoa nhưng than ôi chỉ là những bông hoa ốm yếu bé tí. Hoa hồng leo lên tường nhà, nở ra những bông hoa xỉn màu và hương chúng chỉ thơm thoang thoảng. Chính vì vậy mà gia đình chúng tôi rất quý hoa mẫu đơn, loại hoa sống trên núi đá mà vẫn không mất đi vẻ đẹp rực rỡ và cao quý. Các cụ nhà tôi còn lại tạo những giống mẫu đon mới, lấy tên của các nữ hoàng triều Minh mà đặt. Mẫu đơn chẳng tìm cách quyến rũ chúng tôi, ngược lại, chúng làm cho cuộc sống của chúng tôi càng thêm đau đớn tan nát bằng cái lối bất ngờ nở rộ như sét đánh. Những cái chòi sơn son được lợp mái ngói đá đen. Những cửa sổ có hình thù chạm trổ, những cánh cổng hình mặt nguyệt làm chúng tôi vui mắt. Những dãy hành lang có mái lợp nối liền các ngôi nhà chạy ngoằn ngoèo qua vườn. Chúng che nắng, che mưa, che tuyết cho chúng tôi. Hai trăm căn phòng tạo thành một mê cung. Để đi lại từ nhà này qua nhà nọ, phải mở cửa, nâng rèm, đi ngang một vách ngăn có hình chạm trổ rồi vòng qua bức tường chắn bằng đá hoặc tấm bình phong sơn thếp và khảm xà cừ. Anh tôi khoái trá chiêm ngưỡng cơ ngơi rộng rãi đượm vẻ tăm tối này. Một vết nứt, một con thằn lằn hoặc thậm chí là một mạng nhện, cả cái gì đó xấu xí cũng đều làm anh ngạc nhiên và mơ màng. Anh chú ý đến rất nhiều căn phòng không người ở, những góc không ai đặt chân vào đầy ắp bóng tối và bụi bặm. Bầu trời của chúng tôi có màu xanh ngọc còn mặt trời thì đỏ thắm. Nhưng ở vùng núi này, xen lẫn với những buổi đẹp trời là những ngày bão táp. Anh tôi sợ tiếng đất gầm gào, sợt tiếng sấm nổ đùng đoàng nhưng lại thích những giây phút hiếm hoi trước cơn giông, lúc mà bầu trời thì không một gợn mây, và những cột mây mù mịt xô đấy nhau ở phía dưới thung lũng. Trên đỉnh núi, một thứ ánh sáng xanh xao soi lên mái nhà, trèo vào trong vườn, làm biến mất mọi bóng hình. Một nỗi âu lo khó tà từ ngọn cây bò xuống, làm cho những người hầu gái mặc quần áo lụa cảm thấy hoảng hồn, xua đuổi lũ côn trùng đang trốn trong những đọt cây. Anh trai tôi ghét những ngày lễ Tết, khi cả ngôi nhà như bừng tỉnh sau những ngày dài u ám. Việc chuẩn bị được kéo dài nhiều ngày, tùy theo tầm quan trọng của từng dịp. Người ta lau chùi nhà cửa, treo đèn lồng trong phòng khách có bày biện bàn ăn. Có tiếng ư ử hát, tiếng váy sột soạt, tiếng cười như những hạt ngọc lăn tròn từ phòng này sang phòng khác, rồi tràn ra đầy ắp khuôn viên. Vàng bạc, châu báu, nhung gấm lụa là lóng lánh khắp nhà, những món đồ chơi xem ra cũng có vẻ quý giá, treo đầy tường là tranh vẽ, thư pháp của các bậc thầy. Anh tôi đi dạo quanh quanh, người cứng đờ trong bộ quần áo mới, lòng không vui. Anh lỉnh vào bếp, nơi người ta hối hả nhặt rau, gọt củ, cắt tiết gà, treo thỏ lên đế lột da, nhổ lông gà gô, đôi khi còn chọc tiết lợn nữa. Máu động vật sùi bọt làm anh chóng mặt. Thấy mặt anh tái xanh tái xám, những người làm trong bếp buông lời pha trò trong khi vẫn thọc sâu đôi tay vào lòng ruột con vật. Anh tôi co rúm người lại, muốn ngoảnh mặt đi, nhưng có sức thôi miên kỳ lạ cứ níu anh lại. vẫn còn đờ đẫn, anh được dẫn đến trước mặt khách mời là những vị quyền cao chức trọng trong vùng, bụng phệ, nhạt nhẽo và trang sức phủ đầy người. Có cha giám sát nên anh buộc phải nói chuyện với mấy vị này. Họ hỏi han anh chuyện học hành, rồi cất giọng the thé nói chuyện với nhau về lịch sử, đọc thơ, bàn về về du ngoạn và các sự kiện xảy ra. Anh cảm thấy hoàn toàn xa lạ với những người này và chỉ muốn nhớ lại cảnh cạo lông máu me trong nhà bếp, nhớ lại những con mắt đau đớn và lóp da hồng của những con vật bỗng biến thành đỏ thẫm. Bị anh trai khinh thị, lại không có ai là bạn ngoài mấy người hầu buồn thảm, tôi sống một cuộc đời đơn độc. Niềm vui thú nhất của tôi là ngửa đầu ra đằng sau đi lang thang trong các dãy nhà. Đi từ phòng này sang phòng khác, tôi ngắm nghía những tấm hoành có hoạ tiết nối ngang các cột nhà. Tôi tìm cách nhận diện ở đó những nhân vật truyền thuyết, các anh hùng trong sử sách và những con vật huyền thoại. Rồi tôi ra nằm mơ mộng dưới gốc cây. Thỉnh thoảng mây trắng đến chói mắt đột nhiên chồng chất thành đống trên trời tạo thành quả núi. Những tia nắng màu tím, màu xanh, màu xám vây quanh những đám hơi nước, khoét thành những thung lũng, cắt thành những thành vách, tỉa hình những mỏm núi. Có gì trong những đám mây nhỉ? Truyền thuyết kể lại rằng mây cõng trên lưng cả một xứ thiên đường, ở đó, trong những cung điện, chủ nhân của chúng là những người bất tử, sống cuộc đời không lo âu và đầy lạc thú. Không như Xuân Di, tôi lại nóng lòng mong đến ngày lễ Tết, thời gian trôi chậm chạp muốn làm tôi chết. Hương, khói, pháo hoa, đèn lồng son, những món ngon, quần áo thêu thùa và cả những nghi lễ chán ngắt đều làm tôi cảm nhận thấy sự tồn tại của các vong hồn. Tại sao mùa thay đổi? Năm mới mang đến tuyết và lạnh, Vào Tết Nguyên Tiêu, gió bấc thổi ù ù, những chiếc đèn lồng rung rinh, hắt ánh sáng yếu ớt lên lớp nhũ đá lạnh cứng. Vào tết Thanh Minh, tuyết vẫn còn đọng lại nhưng bị mặt trời nhuộm đen. Đâu đó vang lại những tiếng róc rách bí ẩn, nước nhỏ giọt xuống từ đám lá cây, đập tong tong vào mái nhà. Vào lễ Đoan Ngọ, mồng năm tháng năm âm lịch, người ta làm bánh nếp gói lá tre, người lớn buộc dây lạt nhuộm xanh nhuộm đỏ vào cánh tay chúng tôi để đánh lừa ma quỷ, những kẻ gieo rắc bệnh tật. Sau ngày Tết, mùa xuân ngự trị trên núi. Từ những miền đất xa xôi, hạc trắng quay trở về, cánh giang thẳng trên trời. Tại sao ngày lại dài ra? Tại sao không khí đặc hơn? Cây cối hít thở, uốn đưa, vươn dậy, hướng thẳng lên bầu trời. Những chú ong bụng đốm đập đập đôi cánh trắng bạc. Ai cho chúng niềm vui làm mật nhỉ? Một chú bướm leo lên tận trên đỉnh núi chót vót, lượn lờ dưới những thân cây. Bàn tay thiên thần nào vẽ nên vẻ duyên dáng của nó? Mùa hè trôi qua, tết Trung Thu gọi mùa thu tới. Vì tinh tú nhẵn nhụi và tròn trịa soi sáng cánh rừng bắt đầu thưa lá. Người ta thấy rõ màu đỏ trên cánh rừng, màu vàng trong các bụi cây, nho lủng lẳng dưới giàn đầy lá. Ngôi nhà kiên cố nghiêng mái trên đó có những hình ác thú quỳ gối tạc bằng đá hoa cương. Hỡi các anh bạn ác thú của tôi, những người canh giữ cho những buổi đêm yên tĩnh, các anh có thấy thần núi đi ngang qua chăng? Mùa thu đi qua vào ngày mồng chín tháng chín, vào dịp tết Trùng Dương. Lúc đó, những chậu cây hoa cúc được mang tới, mùi ẩm ướt, vẻ mong manh báo hiệu sắp đến lúc tuyết rơi. Mùa đông ơi, ngươi đi đâu, rồi ngươi từ đâu quay lại? Vào những ngày lễ Tết, tôi ngồi vào bàn dành cho phụ nữ dựng ở những căn phòng phía trong, tôi chỉ được nhìn thấy các vị khách mời khi tham dự cảnh biếu diễn. Trong vườn theo truyền thống của những gia đình giàu có, các cụ tổ cho xây một cái chòi dùng làm nơi biểu diễn ca kịch. Một cái ao ngăn đôi chỗ ngồi của khách nam và khách nữ. Gió mang lại cho tôi nghe chuyện của đám người ngồi phía bờ bên kia. Họ nói về những thị thành xa xôi, bí ấn, những phong tục kỳ lạ. Họ nói cả chuyện ma, chuyện người hiện hồn, cả chuyện người da trắng mắt nâu. Tôi rất hay nghe thấy tên Bắc Kinh, thành phố của vạn sự phồn hoa kỳ thú. Thế thì Bắc Kinh ở đâu nhỉ? Làm sao đến được đó? Ở đó có bao nhiêu nhà? Bao nhiêu mèo? Có bao nhiêu người con gái như tôi? Bờ hè đường ở đó có màu gì? Ở đó có chim nô đùa trong lá không? Có sư tử đá đứng trước cửa chế nhạo người đi ngang qua không? Tôi có một nhũ mẫu già người thường chải bộ tóc dài của tôi. Mồ côi từ nhỏ, bà sinh ra ocirc;i phản công lại bằng cách dán chồng lên loạt áp-phích vu khống đó những tờ báo của chúng tôi. Ngày 1 tháng Mười, Uỷ ban đối lập có tên là Hồng Thạch đã vây kín khu thể dục, biến nó thành trụ sở bộ tham mưu của uỷ ban này đồng thời giam giữ tù nhân của chúng tôi cùng với hai người đồng chí của chúng tôi. Buổi tối, họ tổ chức kết án ngay tại đó. Các đồng chí của chúng tôi bị hạ nhục, tra tấn cùng lúc với các giáo sư phản cách mạng. Ngày mùng 2 tháng Mười, nhóm Hồng Thạch tấn công đài phát thanh. Từ trên đầu cầu thang, tôi nhận ra một số cựu thành viên đoàn đại biểu học sinh trong số các học sinh đang giơ cao gậy gộc, vợt cầu lông và dây thắt lung. Chúng tôi tự vệ bằng những gì có sẵn trong tay. Có một kẻ trong đám đông xông lên mở lối, trèo lên cầu thang. Hai Hồng Vệ binh của chúng tôi xông vào hòng cướp vũ khí của anh ta thì bị anh ta dùng dây thắt lưng quật ngã. Anh ta tiến được đến lối vào phòng ghi âm và đối mặt với tôi. Chúng tôi nhìn nhau chòng chọc. Anh ta chính là người đại diện môn thể thao của trường, là trưởng nhóm bơi lội mà tôi là thành viên. Trong số tất cả các trận đấu, thì môn bơi là môn thể thao thanh lịch nhất, tình hữu nghị giữa các vận động viên bơi lội trong nhóm rất trong sáng và minh bạch, tựa như làn nước xanh biếc mà chúng tôi vẫn quăng mình xuống ngụp lặn. Tôi muốn thuyết phục anh ấy tham gia vào phe nhóm của chúng tôi. Nhưng, cứ như tự dưng bị phát điên, anh dùng dây thắt lưng giáng thẳng xuống đầu tôi. Tôi loạng choạng, tai ù đặc. Điên dại lên, anh ta tiếp tục đập tôi. Choàng tỉnh sau cơn choáng váng đầu tiên, tôi hiểu ra rằng nếu không tự vệ thì sẽ bị anh ta giết chết. Tôi nhặt chai bia to lăn lóc dưới đất, đập vỡ tan rồi chọc thắng vào bụng anh ta. Anh ta co quắp, nhìn tôi bằng ánh mắt vằn những tia máu Tôi kinh hãi, vận hết sức xoáy cái chai. Một thứ chất lỏng nóng hổi len lỏi chảy vào mấy ngón tay, xuống cánh tay rồi đọng thành dòng suối máu dưới cánh tay tôi. Tôi thả chai bia ra, cả thân người cao to của anh ta lảo đảo. tôi tóm lấy cổ và với một sức mạnh không ngờ, kéo lê anh ta đến tận đầu cầu thang. Tôi hét lên chiến thắng, và phô bày chiến công đẫm máu của mình. Mọi ánh mất đố dồn về phía tôi. Từ cổ họng tôi bỗng phát ra một tiếng cười điên loạn, tôi giơ chân đá thẳng vào đít người đại diện môn thể thao. Anh ta trượt xuống rồi lăn lông lốc theo bậc cầu thang. Lợi dụng sự hoảng loạn của quân địch, chúng tôi dồn rồi vây chúng vào khu thể dục. Đội tiếp viện đến liền tối hôm đó, chỉ huy trưởng của. Ủy ban cách mạng của trường trung học bên cạnh là người bạn thân thiết của tôi từ hồi mẫu giáo, cử những Hồng Vệ binh hung dữ nhất tới. Chúng tôi phá cửa. Sau ba tiếng đánh giáp lá cà, các thành viên Hồng Thạch bị bắt gọn. Không thèm tra tấn chúng, chúng tôi thả cho chúng tự do để tỏ lòng khoan hồng, giữ lại những kẻ tha thiết muốn đi theo chúng tôi, và từ đây trường trung học cấm cửa những kẻ nào có lập trường khác với chúng tôi. Ngày mùng 5 tháng Mười, chúng tôi tái lập Uỷ ban cách mạng của trường. Tôi được nhất loạt bầu làm chỉ huy trưởng. Ngày mùng 6 tháng Mười, cuối buổi chiều, tôi vẫn giữ chiếc khăn băng trên đầu rồi đội thêm mũ lính để che cái sẹo. Tôi cởi bỏ chiếc áo vét vẫn còn vết máu dù đã được giặt kỹ, mặc áo sơ mi đi mượn được. Tôi kiên quyết không cho lính bảo vệ đi kèm. Nhét dao găm vào túi, tôi đạp xe về nhà. Bỏ lại phía sau tiếng ì èo, ra khỏi mấy bức tường của trường trung học, tôi ngạc nhiên thấy tất cả mọi người chẳng có gì thay đối. Yên tĩnh bao trùm cả thành phố như đang thiếp đi trong giấc ngủ. Hai con la mệt mỏi chậm chạp kéo lê một cái cây. Làn gió nhẹ vờn những chiếc lá bạch dương xào xạc ở hai bên lề đường dải nhựa. Mùa hè vẫn còn đó với cái nóng nhẹ nhàng. Vừa đạp xe, tôi vừa quan sát thành phố với sự háo hức của một kẻ vừa mới lại thoát khỏi chốn Địa Ngục. Nhưng dần dần, niềm vui thú được thấy ông mặt trời rực rỡ và bầu trời lúc nào cũng trong xanh biến mất. Một ý nghĩ lạ lùng bao bọc lấy tôi làm tôi hoảng hốt: nếu tất cả những điều mà tôi làm từ tháng Chín đến nay là vô ích thì sao? Liệu tôi có đánh nhau trong một cơn mê và vì một cơn mê hay không? Bởi vì cuộc đời vẫn hờ hững trôi Nắng muộn buổi chiều trải khắp dãy nhà tôi ở làm lớp than vụn mỏng chồng chất hàng năm nay trước cánh cổng chính phản chiếu lấp lánh. Gia đình tôi sống ở tầng lầu thứ hai, đầu cùng hành lang dài không cửa sổ được soi sáng bằng hàng bóng điện vàng. Dãy nhà tôi ở gồm giáo sư, bác sĩ, kỹ sư đủ tiêu chuẩn được nhà nước cấp nhà cũng như phần lớn hàng xóm, ngay từ khi ra trường, cha mẹ tôi đã ghi tên vào danh sách chờ. Cứ hai tháng một lần, mẹ tôi lại đến trình diện tại phòng uỷ ban chính trị của bệnh viện Bắc Kinh, nơi cha và mẹ tôi làm bác sĩ phẫu thuật. Người ta trả lời mẹ tôi rằng một khu chung cư đã được xây xong, nhưng đầu tiên phải dành chỗ cho các cán bộ cao cấp. Lần khác, người ta lại nói phải tôn trọng và ưu tiên cho người nhà nạn nhân chiến tranh. Lại lần khác nữa, cha mẹ tôi phải nhường nhà cho một đôi vợ chồng già hưu trí, bởi vì với tư cách là những người cộng sản chân chính, cha mẹ tôi biết hy sinh hạnh phúc riêng. Mười tám năm sống với niềm hy vọng sẽ chuyến chỗ ở vào ngày mai, chúng tôi phải hài lòng với hai căn phòng bé tí, không có bếp cũng không có nhà tắm. Chúng tôi phải đi vệ sinh chung với hàng xóm cùng tầng. Trong hành lang chất chồng hàng đống đủ thứ lộn xộn nào than, nào lốp xe đạp, nào chậu, rồi cả xe đấy chở đồ nữa Trên bức tường rạn nứt, người ta treo lủng lẳng hành, tỏi, hạt tiêu, túi bột giặt và các công cụ làm bếp. Có ai đó đang nhóm lửa và lăng xăng bên cạnh bếp lò. Đó là cô hàng xóm đang chuấn bị nấu bữa ăn tối cho chồng đang có phiên trực đêm ở bệnh viện, là đồng nghiệp của cha mẹ tôi. Cô quẳng rau vào chảo to, rau lèo xèo trong dầu nóng. Lợi dụng lúc âm thanh hỗn loạn, tôi lách ra phía sau lưng cô mà đi nhưng vẫn bị gọi giật lại. “Vân, mày đây rồi, cô kêu to, mấy ngày rồi không về nhà. Mày đi đâu thế? Trong khu nhà chật chội như tổ kiến thế này, chẳng ai có gì bí mật được với ai. Tức tối, nhưng tôi cố rặn cười. Tôi không muốn chọc tức vợ đồng nghiệp của cha mẹ tôi. “Cháu ốm.. ” Tôi ấp úng vài từ ngọng nghịu, khó hiểu. Cô hối hả đảo rau trong chảo nên không kịp nhìn mặt tôi và tin lời nói dối của tôi. “Ổm à? Khổ thân cháu! Thế thì mày ngủ ở đâu? Thế nào? Ở trường học á? Phải cho bọn tao biết tin tức với chứ. Bọn tao có thể đi xe cứu thương đến đón mày. Mày xanh lắm cháu ạ Thôi đi nghỉ nhanh đi. Chốc nữa tao qua thăm”. Tôi vội vàng rảo bước. Tôi mở cửa và định nhảy lên giường thì thấy cha tôi. Tôi với cha tôi có một mối quan hệ đặc biệt Cha nuôi tôi bằng sự dịu dàng nghiêm khắc. Cha đối xử với tôi bình đẳng, chịu bỏ thời gian để nghe tôi. Cha nêu gương sáng về sự khéo léo. Trước giải phóng, học tại khoa Y cũ của trường đại học Bắc Kinh, cha từng tuyên thệ trước Đảng Cộng sản và làm việc trong các tổ chức bí mật. Khi nước Trung Hoa mới ra đời, Nhà nước cử cha sang Matxcơva để bổ túc kiến thức với các bác sĩ tăm tiếng của Liên Xô. Một bệnh viện ở Matxcơva mời cha tôi ở lại làm việc với các cơ hội rất hấp dẫn. Nhưng cha tôi từ chối để trở về Bắc Kinh. Cha tôi là nhà phẫu thuật có tên tuổi, say mê nghề nghiệp, nghiêm khắc với bản thân nhưng rất rộng lượng với người khác. Tuy nhiên, không rõ vì lý do gì, nhưng từ một năm nay, tồi phải chịu đựng các khiếm khuyết của thần tượng của mình, tôi thấy cha quá tốt, quá cứng nhắc. Sự thương cảm của cha gần giống sự ngây thơ làm tôi tức tối. Tôi muốn được nghe cha phàn nàn. Vô ích. Cha hài lòng với chút ích lợi cỏn con người ta cho và nhiệt tình thực hiện hết lòng các nhiệm vụ mệt nhọc được giao. Cha tôi không biết nghĩa của hai từ chơi và giải trí. Trong suốt mười bảy năm, cha không bao giờ làm cho tôi được một cánh diều hay một lần mang tôi đi chơi vườn bách thú. Khi cha rủ tôi theo cha đi dạo buổi tối, cha bắt đầu trò chuyện với tôi, không phải để cho vui đâu mà là để hướng tôi thành người đàn ông đường hoàng, có đạo đức Cha bắt tôi ngồi trên giường, đối diện với cha, nói với tôi về việc thi tuyển vào Đại học được tổ chức vào tháng Sáu tới, rồi hỏi tôi định làm gì. Cha nói với tôi: “Dù có tham gia làm Cách mạng văn hoá thì cũng không được quên việc học hành. Theo ý con, ai sẽ là những người xây dựng nước Trung Hoa xã hội chủ nghĩa trong mười năm, hai mươi năm tới khi mà thế hệ của cha mẹ đã già hết cả? Thanh niên ngày hôm nay sẽ là trụ cột của ngày mai. Đừng quên nhiệm vụ của con. Không có kiến thức vững vàng, con sẽ không thế góp viên đá của con đi xây dựng công cuộc hiện đại hoá xã hội Trung Hoa”. Tôi cúi đầu Trong thâm tâm, tôi đồng ý với ông. Nhưng chính sự khôn ngoan của cha mẹ làm tôi căng thẳng bởi vì lúc nào nó cũng có lý, cho nên tôi muốn kháng cự lại quyền năng vững chắc của cha tôi. Thế là tôi nói: “Nhưng thưa cha, cha đã quên mất đấu tranh giai cấp! Quên cả mối hiểm nguy đang đè l&t long lanh. Suốt đời đã trải qua, già luôn luôn thành tâm cầu nguyện trời phật, luôn luôn hỏi ý kiến các ông thầy bà đồng, luôn luôn cầu khấn các oan hồn để được giải thoát khỏi vòng luân hồi. Tôi bẽn lẽn hỏi già Lý không biết khi nào đó tôi có thể trở thành kiếp chim được không. Già chỉ mỉm cười mà không trả lời. “Thành một con bướm hay một con chuồn chuồn cũng được!” Tôi kêu lên. Ý tưởng có đôi cánh bay lượn thoải mái trên bầu trời làm tôi sướng rơn. Bất chợt niềm vui của tôi biến thành nỗi lo âu. Nếu tôi là bướm thì mẹ tôi sẽ ra sao? Tôi hỏi già Lý. Liệu mẹ tôi có trở thành bướm mẹ được không? Có thể như vậy được chăng? Có thể ở kiếp đó, mẹ tôi sẽ là một công chúa, một con chim hay là một cái cầy. Mẹ sẽ chẳng biết đến tôi và không yêu tôi. Rồi còn cha tôi nữa? Và anh tôi nữa? Và rồi ông bà tiên tổ của tôi, họ sẽ là ai? Tại sao lại phải sùng kính ông bà cha mẹ nếu mọi quen hệ chỉ là thoáng qua? “Hãy cầu nguyện đi, con ạ, phải chấp nhận số phận đã được dành cho chúng ta”. Nhưng tôi không nghe chuyện của già Lý nữa, Tôi quay lại nhìn cái chòi biểu diễn ca kịch, nơi đó mấy diễn viên đã hoá trang xong, một số khác thì đang biểu diễn rồi, còn một số người nữa ngồi bệt xuống đất đợi đến lượt ra sân khấu. Tôi cảm thấy một nỗi cô đơn mênh mông. Tôi là ai? Tôi trèo xuống khỏi ghế, để yên cho người ta mặc quần áo cho tôi, bỗng thấy anh tôi đang rình ngó tôi ở cửa sổ. Anh ấy muốn trốn đi nhưng bị tôi giữ lại. “Xuân Di, anh nghe thấy hết cả rồi! Em sẽ là con bướm bay lượn!” Anh nhăn mặt, biến mất sau gốc ây. Tức giận vì thái độ thờ ơ như vậy, tôi thề sẽ bám theo anh ấy đến tận kiếp sau, khi đó tôi sẽ làm người tra tấn anh. Sau đó, tôi về phòng mẹ ăn bữa sáng. Đó là thời ỳì xương ngón chân tôi đang dần gãy, đôi bàn chân băng bó của tôi bắt đầu thâm tím lại, chảy máu và mưng mủ. Nhưng vẫn cứ phải đi. Đau đớn buốt da buốt thịt làm tôi phát khóc. Sáng nay, mẹ có vẻ lo lắng. Nhìn thấy tôi khập khiễng đi tới, mẹ thở dài, ôm tôi vào lòng. “Con gái tội nghiệp của mẹ, mẹ nói với tôi. Khi người ta bó chân cho mẹ, bà ngoại con lấy đá lăn lên chân mẹ cho xương gãy nhanh hơn. Chúng ta không có lựa chọn nào khác. Không có đôi chân bó đẹp đẽ, mẹ không thể gả con cho một đám tử tế được”. Người mẹ thơm mùi bạch xạ. Lời mẹ nói ngọt ngào là niềm an ủi hào phóng giảm nhẹ đau đớn cho tôi. Khi chúng tôi ăn cơm sáng xong, mẹ cho dọn bàn đi. Đám gia nhân bày trước mặt mẹ mực, giấy, sổ ghi chép, bàn tính gay bằng gỗ rồi thông báo cho mẹ biết các quản gia, kế toán và quản lý đang đứng đợi để báo cáo công việc với mẹ. Từ khi bị bó chân, để an ủi tôi, mẹ cho tôi ngồi cạnh khi xử lý các công việc gia đình. Ngồi trên ghế, tôi hí hoáy vẽ bằng bút lông. Tôi thích cái giây phút trang trọng của buổi sáng yên tĩnh tuyệt đối này. Mẹ thừa hưởng của ông cái khiếu điều hành công việc. Mẹ biết cách nắm các khoản chi tiêu. Mẹ tính toán, suy nghĩ, ra lệnh với cách nói vừa dịu dàng vừa chắc nịch. Mẹ nói những từ giản dị để làm cho gia nhân tuân lệnh. Kẻ mắc lỗi thì phải chịu tra hỏi rất tỉ mỉ và phải giải thích đến từng chuyện nhỏ nhặt. Kẻ nói dối thì tái mét mặt mày dưới cái nhìn tinh sâu của mẹ đọc được mọi điều họ suy nghĩ. Sáng nay, sau khi người quản gia ra khỏi phòng, tôi định đòi mẹ thề sẽ vẫn cứ là mẹ trong kiếp tới, thì đúng lúc đó cha đến thăm. Thấy cha đi vào, tôi không nói gì nữa, tôi cúi lạy cha rồi lẻn sang phòng bên cạnh. Ngay khi đó, tôi nghe tiếng cha càu nhàu. Cha kêu ca khí trời oi bức, ánh nắng loá cả mắt, gió thổi tung cả quần áo của cha, và chuyện gia nhân hỗn hào. “Ông cần bớt hút thuốc đi, mẹ tôi trả lời, giọng điềm tĩnh. Hút thuốc làm sức khoẻ của ông yếu đi”. Cha tôi phá lên cười giọng miễn cưỡng. “Ngu muội, cha nói, ngu muội!” “Thời gian gần đây, ông gầy đi nhiều, mẹ tôi thuyết phục thêm. Thiếp nghe nói ở Quảng Đông, từ vài năm nay, người ta đóng cửa các nhà hút và trưng thu tất cả thuốc phiện, đem đốt trước dân chúng. Ông thấy đấy, ai ai cũng biết tác hại của nó”. Tôi nghe thấy cha lên giọng: “Im đi, im đi, mụ đàn bà ngu xuấn, đừng có nhúng mũi vào chuyện của ta”. Cha tôi dừng lời, hạ thấp giọng hòng kiềm chế cơn giận dử: “Cuộc sống là dòng sông chảy chậm chạp, mọi thứ đều bị cuốn trôi, không có cái gì ở lại. Tất cả trốn chạy, tất cả đều bốc hơi và biến mất ở ngay nơi trần thế này, ta có thể là trời nếu cứ tuần theo dòng chảy của vũ trụ, không ràng buộc vào điều gì hết, không sợ cái chết. Thuốc phiện là cái nâng đỡ trí tuệ. Nó giúp ta vượt qua những giây phút phù du và giao cảm với cái vĩnh hằng”. Mới đầu, mẹ tôi giữ im lặng, nhưng rồi mẹ nói: “Theo thiển ý của thiếp, vĩnh hằng là điều đi ngang qua chúng ta qua việc ta thờ cúng tổ tiên và dạy con cái biết khiêm nhường, biết tôn kính và biết cống hiến”. Tiếng một đồ bằng sứ vỡ tan. Cha tôi la lên: “Con cái ư? Giời đất ơi, ta có đứa con trai vô dụng, không phẩm cách. Tại sao bà lại không bao giờ hiểu vinh quang của gia đình ta thế là đã hết. Sẽ không có gì trường tồn, chả có cái gì là trường tồn nữa hết. Hôm nay, ta còn được một cái nhà kiên cố, ngày mai, nó sẽ thành đống đá đồ nát. Phi lý, phi lý..Cha đi khỏi. Tôi còn nghe nhiều lần nữa cha lặp đi lặp lại “phi lý, phi lý”. Ngay từ hơi thuốc phiện đầu tiên, người hút lập tức chìm sâu xuống vực thẳm, nơi đó hơi nóng và bóng tối liệm họ lại. Tiếp theo, đột nhiên là sự nhẹ tênh, là cõi tịch mịch... cái vô tận. Linh hồn tách ra khỏi thân thể bay là là ở một độ cao mà hiện tại, quá khứ và tương lai đều lẫn lộn, hoà làm một. Nằm trên giường hút, cha tôi mơ mơ màng màng, chiêm ngưỡng cuộc đời như một bức tranh mà săm soi những vẻ đẹp phù phiếm nhất của nó. Cha tôi ngẫm nghĩ về vũ trụ trống rỗng của chúng ta. Khi thuốc phiện hết tác dụng, sau chuyến du ngoạn lơ lửng trong xứ sở các thánh thần, cha tôi quay trở lại với thực tế. Cha mở mắt ra. Phòng hút được soi sáng yếu ớt tựa hồ chiếc mõm ngoác rộng của một con quái vật. Cha tôi đứng dậy, gọi người hầu đến nhưng không ai đến. Cha đi vài bước, đẩy cửa ra. Mặt trời trút xuống cha nỗi buồn dai dẳng của cuộc sống trần thế. Ngay sau khi sinh cha tôi, ông tôi bỏ lâu đài ra đi và biến mất. Một số người kể lại rằng ông đi theo đạo thiên chúa, một số khác lại nói ông trở thành thủ lĩnh của hội Nghĩa Hoà Đoàn đi cắt đầu bọn Tây đương ngoại quỷ. Là đứa trẻ ốm yếu, cha tôi được nuôi dưỡng lớn lên giữa đám phụ nữ. Cha mơ ước trở thành một viên tướng. Nhưng ông tôi, người mà cha tôi tôn kính, lại chẳng quay về để đón cha bước vào đời. Đứa trẻ bị ốm vì tuyệt vọng Người ta đặt đứa trẻ là cha tôi lên giường, bọc nhiều lóp chăn lụa. Quanh năm lúc nào phòng của cha cũng được làm nóng; rất nhiều thầy thuốc được mời đến kê cho cha tôi cơ man nào là đơn thuốc. Dù đã uống biết bao sâm nhung, đã ăn yến sào và các loại cao địa bồ, nhưng cha vẫn cứ yếu đi. Cha ho, cha nôn, cha đau đầu dữ dội; cha trở nên ủ rũ, cha đối xử tồi tệ với gia nhân. Vinh quang, chiến trận, du ngoạn, kinh kỳ, tất cả đều bốc bay đằng sau những tấm rèm thêu. Khi trời đẹp và ấm áp, đôi khi cha được đưa ra khỏi gian phòng tối. Người ta cứ bê nguyên cả giường với cha ra ngoài vườn. Chăn trùm kín đến tận cằm, cha nhìn trời. Chim bay qua trên đầu. Đó là thời niên thiếu của cha, trôi đi như cánh chim bay qua cửa. Ngày hôm đó, khi ra khởi phòng hút, cha nhớ ngay đến thằng con trai nối dõi tông đường căm ghét học hành và không chịu thờ phụng tổ tiên. Cha bỗng điên tiết lên, đâm bổ về phía chòi đặt tên là chòi Hương Xưa như thể có ma quỷ dẫn lối. Vào thời kỳ đó, tôi cũng được học kèm với anh tôi. Lớp gồm có bốn người, con nhải riêng của tôi, người hầu của anh, Xuân Di và tôi. Chiều chiều, chúng tôi lại tụ họp trong chòi Hương Xưa hình tứ giác, do một cụ tổ xây nhưng không ai còn nhớ rõ đó là cụ nào. Để giúp đầu óc tập trung vào việc học hành, tường nhà hoàn toàn trần trụi, bàn ghế giản dị và là đồ cũ. Những cây trắc bách diệp cành lá đan vào nhau rủ bóng mát xuống ru chúng tôi. Anh tôi ghét cay ghét đắng chuyện phải ngồi yên một chỗ, vì vậy anh vô cùng căm ghét việc học hành. Giọng nói run run của thầy dạy ru anh buồn ngủ. Trong phòng, đôi khi có con ruồi bay qua làm cho anh mơ mộng. Đằng sau cửa sổ, cha giật mình thấy anh tôi xé sách dựng trên bàn, vê thành cục nhỏ, lấy nước bọt thấm ướt lên rồi ném vào gáy tên người hầu. Cha tôi đẩy cửa bước vào, tất cả mọi người đều đứng dậy chào. Cha ra hiệu cho tất cả chúng tôi ngồi xuống, trừ anh tôi, cha bắt phải quỳ. Cả hai gườm gườm nhìn nhau. “Hãy đọc to bài “Tổ tiên quang vinh”, cha ra lệnh cho Xuân Di: Ôi, tổ tiên quang vinh! Hành trang tổ tiên mãi mãi trường tồn! Hãy ban phúc lành vỏ giới hạn Cho tất cả chúng cote;i nóng bức làm cho ngọn đuốc đó lan truyền nhanh nhạy hơn, an ủi trái tim của những người lính lang thang. Vào mùa xuân, cha mẹ tôi phải đi cải tạo tại trường mùng 7 tháng Năm. Mùa ấy lạnh thê thảm. Gió bấc từ Xibêri tràn qua các thảo nguyên Mông Cổ thổi ào ạt trên thành phố và vùi thành phố trong xoáy cát sa mạc. Tôi đã đến làm việc với tất cả các trường mùng 7 tháng Năm quanh Bắc Kinh trước khi gặp cha mẹ tôi. Phía bên kia hàng rào dây thép gai, cha mẹ tôi đang dùng cuốc xới đất. Tóc mẹ cắt ngắn, bù xù. Chiếc áo vét lót bông của mẹ như quá mỏng trong thời tiết xuân giá lạnh. Mẹ làm đất chăm chỉ như một cô gái nhỏ. Mẹ đứng dậy lau mồ hôi trên trán. Rồi mẹ nhìn thấy tôi và giơ hai tay về phía tôi Nhưng tôi quay lưng chạy đi. Rồi mùa hè chợt đến. Ngày lại ngày, thành phố ngập tràn tiếng ve, nóng nực và đầy ánh nắng. Các phe phái cách mạng lao vào cuộc chiến đẫm máu với nhau. Trước tình hình đó, quân đội phải can thiệp và nắm quyền chỉ huy. Theo lệnh của thủ tướng, các trường học lại mở cửa, các buổi học lại được tiếp tục. Chỉ trừ những giáo sư đang chịu hình phạt trong trại, còn lại tất cả mọi người đều quay trở lại làm việc. Tôi dự thi và đỗ vào trường Đại học Bắc Kinh. Ở khoa, chúng tôi chẳng học hành gì cả. Tôi đi chơi, kết bạn, tham gia vào các cuộc tranh luận. Trung tâm cách mạng đã chuyến chỗ. Bắc Kinh hết năng lượng, hết sức tưởng tượng, tàn lụi đi. Tôi quyết định gia nhập vào đội quân hàng triệu sinh viên đi về những vùng xa xôi hẻo lánh đế khai hoang. Tôi ghi tên ở Văn phòng phân bổ Hồng Vệ binh về nông thôn Trung Quốc, tôi huỷ thẻ cư trú của mình tại Bắc Kinh. Tin này làm cha mẹ tôi sầu não vì không hiểu và sẽ không bao giờ hiểu tôi. Nhưng trường mùng 7 tháng Năm đã tước quyền cha mẹ của họ. Cha mẹ tôi không nói lời nào, để cho tôi ra đi. Ngày mùng 1 tháng Mười hai, cuộc tập trung gồm mười nghìn người diễn ra ở sân vận động Bắc Kinh. Giữa sân cỏ, hàng nghìn sinh viên từ biệt thành phố chôn rau cắt rốn của mình. Người ta hoan hô chúng tôi; những cô bé gái má phấn, đeo nơ đỏ trên hai bím tóc, nhào đến với chúng tôi giống như những chú bồ câu non vui tươi. Các em buộc những bông hoa đỏ sẫm vào hàng khuy áo của chúng tôi. Buổi chiều, chúng tôi ra đến nhà ga. Côn tàu chật như nêm, không thể len vào trong toa được, trong đó những Hồng Vệ binh chen chúc nhau như đàn gia súc. Tôi trèo lên vai một đồng đội, nhảy vào qua cửa sổ Các cô gái đã ngồi chật kín mấy chiếc ghế dài. Cách xuất hiện của tôi làm các cô có vẻ rất vui và tỏ ý muốn giúp đỡ. Tôi kéo tay đồng đội giúp họ trèo lên, còn các cô gái thì để cho họ lao qua đầu mình. Sau đó, các cô xếp va li làm hai trong số chúng tôi có thể ngồi được trên chỗ để hành lý. Con tàu rùng mình lắc lư. Tôi bị kẹp giữa một bức tường người và một cái lưng. Phía trên vai tôi, qua gương chiếu hậu, tôi nhìn thấy khung cảnh mùa thu đang lướt qua. Hát những bài ca cách mạng và ngâm thơ Mao chủ tịch làm chúng tôi mệt nhoài. Nhịp điệu đoàn tàu lắc lư đều đều ru tôi vào giấc ngủ nhẹ nhàng, đầy những hình ảnh lẫn lộn và những đoạn đối thoại không rõ ràng. Bất chợt, tôi nghe thấy có người nói: “Cho tôi xin phép”. Tôi mở một mắt ra, thấy một cô gái có khuôn mặt xanh xao bị kẹt trong góc tường. Kể từ khi chúng tôi đến, cô là người duy nhất không nói gì, không cười một tiếng nào. “Cho tôi xin phép”, cô nói và cố gắng đứng lên. Nhưng, người này bị lèn chặt bởi người kia, chúng tôi gắn chặt với nhau như là vạn lý trường thành: không thế nào có được một chỗ trống đế cho cô gái đi ra! Những định kiến xấu của tôi về con gái, những định kiến ngu xuẩn và trẻ con bỗng thức dậy. Mặc cho cô gái kêu xin, tôi cứ nhắm mắt lại. “Cho tôi xin phép”, cô gái lại nằn nì. Không ai nhúc nhích. “Cho tôi xin phép”, cô gái cất cao giọng run rẩy, hình như sắp khóc đến nơi. “Cho tôi xin phép, tôi muốn đi nhà vệ sinh”. Tôi nhận ra giọng nói dịu dàng và trong sáng như pha lê của người con gái đã đọc cả một bài diễn văn dài hôm đi biếu tình tôi mở mắt ra. Hàng nước mắt lấp lánh trên má cô gái. Tôi đánh thức người đồng chí bên cạnh đang nằm cuộn tròn và đẩy mạnh anh ta một cái. Tôi đưa tay ra cho cô gái và kéo cô ra khỏi chỗ ngồi. Chúng tôi phải mất gần một giờ đồng hồ mới đi đến được nhà vệ sinh ở đầu toa. Vô địch bơi lội trong cuộc thi thành phố, tôi bơi trongn nơi trần gian! Xin rót đầy rượu trong cốc; Xin cho con được thực hiên ỷ nguyện của mình, Và đây là, đây là... Mặt Xuân Di đỏ bừng. Anh cố nhớ những câu thơ nhưng không sao nhớ nổi, chúng biến đi đằng nào mất. Mồ hôi chảy ròng ròng trên gò má. Anh lấy mu bàn tay bẩn quệt ngang mặt, để lại mấy vệt đen. Anh tôi vẫn tiếp tục quỳ, đầu cúi gằm, lưng cong, mắt cắm xuống đất. Bỗng nhiên, tôi nhìn thấy nụ cười nhạo trên mép anh. Tinh thần tôi rối loạn, tôi nhìn về phía cha tôi cầu khẩn. Tôi thấy cha tôi cũng vậy, cha cười mỉa mai. Cha gọi người mang roi đến. Tôi chăm chú nhìn vào quyển sách. Vô ích. Tôi cố gắng đọc từng chữ. Bên tai tôi chỉ còn nghe thấy tiếng roi vun vút và sự im lặng bướng bỉnh của anh tôi. Tôi co rúm người lại, tự dưng lại đếm những tiếng roi quật xuống dù cố gắng kiềm chế không làm như vậy, tôi cầu nguyện tất cả các vị thần linh sao cho cuộc tra tấn rút ngắn lại Tiếng roi ngừng lại, tiếng cha tôi cất lên: “Xuân Ninh, chắc là con đọc được bài “Tổ tiên vinh quang” cho ta nghe”. Tôi định giả vờ không thuộc để làm đồng loã với anh tôi đang lăn lộn dưới đất. Nhưng tôi lại không đủ dũng cảm để nói dối. Tôi đọc toàn bộ bài thơ từ đầu đến cuối không vướng lỗi nào. Ngay tối hôm đó, anh chặn đường tôi dưới giàn đậu tía. Anh đi theo tôi rất lâu trong bóng tối, rình lúc tôi chỉ có một mình. Anh nhìn tôi chằm chằm thật lâu như người đàn ông đang chiêm ngưỡng bóng của chính mình, ảnh phản chiếu chính mình, con đỉa của mình. Đột nhiên, anh ấy tóm lấy cánh tay tôi và chửi rủa tôi, gọi tôi là đồ phản trắc, đồ hèn, đồ con gái ngu xuẩn. Anh nói sẽ trả thù. Anh nói sau khi cha mẹ chết, anh sẽ có toàn quyền đối với tôi và sẽ làm tôi đau khổ. Anh giậm chân, nhổ nước bọt, giơ nắm đấm. Một cách vô ý thức, anh hành động hệt như cha. Anh cao hơn tôi đúng một cái đầu Tôi thấy vừa sợ hãi, vừa thương hại. Đêm tĩnh mịch, tôi cố gắng đếm những chùm đậu tía treo lơ lửng trong bóng tối. Những lời sỉ nhục làm tôi tổn thương. Nhẽ ra tôi đã hét lên, gào lên, cào vào mặt anh rồi bỏ chạy và mách cha, nhưng người ta vẫn dạy tôi phải kính trọng và không bao giờ được tự vệ. Tôi còn quá trẻ con nên chẳng thể biết được rằng chửi tôi thì tôi có quyền chửi lại. Tôi không thể hiểu được tôi có quyền chống đối, còn Xuân Di đã lạm dụng quyền làm anh mà chà đạp lên tôi. Những cảnh như vậy tiếp tục tái diễn nhiều lần, bởi vì anh tôi càng ngày càng sa sút phẩm cách, trong khi tôi thì càng ngày càng trưởng thành hơn. Đôi khi tôi cảm thấy có lỗi vì hơn anh. Cha bỏ hẳn việc giáo dục con trai, có chút ít dịu dàng, tình cảm cha dành hết cho tôi. Cha đòi tôi đọc một bài thơ, nhắm mắt lại thưởng thức nụ cười trên khoé miệng. Sau đó, cha thường cho tôi một câu nói dịu dàng, một cái vuốt ve âu yếm hoặc một món quà. Càng ngày cha càng suy ngẫm lâu hơn trong phòng hút. Cha không còn đến lớp học để kiểm tra sự chuyên cần của Xuân Di nữa. Tuỳ theo cảm hứng của cha mà cha bắt con trai mình phải chịu hình phạt nặng đến mức nào để rồi sau đó, các hình phạt đó lại được trút sang tôi vì thù hận. Nghe tôi rên rỉ, nức nở, anh ấy nhẹ người đi. Tôi không tố cáo anh ấy, đấy là điều bí mật của tôi. Sự bạo tàn của cha làm tôi sợ, còn sự bạo tàn của anh tôi chỉ làm tôi mếch lòng mà thôi. Xuân Di và tôi là người thân thích, dù cho anh ấy có khinh bỉ và xa cách tôi. Còn cha là người dưng trong vũ trụ của chúng tôi. Chúng tôi là những người chia sẻ cuộc sống với nhau từ trước khi nó bắt đầu. Cha nghe nói rằng tiếng đàn thập lục có thể thuần hoá thú dữ, làm cho tính người mềm mại, biến kẻ vô đạo thành sùng tín và có đạo đức, nên cha cho mời thầy dạy đàn giỏi nhất tỉnh Tứ Xuyên về, hy vọng lôi Xuân Di trở lại con đường đúng. Lão thầy già này không chấp nhận học sinh thuộc giới ô uế, nhưng tôi cứ xin mẹ can thiệp giúp. Nhạc cụ mà chúng tôi tìm cách tuần phục đáp lại chúng tôi bằng những tiếng kêu khó chịu. Mới đầu anh tôi say mê chiếc đàn thập lục cổ do cha mua cho, nhưng rồi rất nhanh nản chí. Anh thiếu năng khiếu cảm nhận nhịp điệu và anh cũng kém bền chí, nhất là những buồi học nhạc lại cướp mất đi của anh thời gian vô công rồi nghề và đem lại thêm cho anh những lời quở mắng mới. Tôi thì gần với văn thơ hơn là với âm nhạc, nên tôi phải hết sức cần mẫn chế ngự cây đàn, bởi vì Xuân Di có mặt bên cạnh và tôi cần phải vượt anh ấy. Tôi tiến bộ rất nhanh, làm cho thầy dạy phải ngạc nhiên vì trí nhớ và bàn tay khéo léo. Chẳng bao lâu sau, tôi có thể chơi nhiều điệu không mắc lỗi nào, trong khi đó, cây đàn của anh tôi cứ bập bùng sai điệu, sai âm và vô hồn. Tôi không thấy vui thích gì hết trong việc học đàn, ngoại trừ được cảm thấy nổi bật. Tôi không thể tiếp thu được loại âm nhạc này. Dù vậy, tôi thích nghe thầy chơi sau nhiều lần cha tôi nài nỉ khi gia đình tôi ăn tối xong trong không khí thuận hoà. Thầy ngẩng đầu để kiểm tra xem có đúng là trăng đã soi tỏ ban đêm không và ngoài vườn đã tắm trong một không khí tinh khiết chưa. Thầy đòi chậu nước trong để rửa tay. Rượu sưởi ấm tâm hồn thầy, giải phóng thầy ra khỏi sự trang trọng cứng nhắc. Thầy ngồi dưới cây thông to mà tnrớc đó tên hầu của thầy đã đặt sẵn một cái bàn với chiếc đàn thập lục đời Đường. Thầy bật ngón tay vào dây đàn. Âm thanh yếu ớt nhưng rõ, như một tiếng thì thầm vào tai. Những nốt nhạc tuôn ra như dòng suối chảy quanh những cây to, vuốt ve những mỏm đá rồi biến thành thác nước. Gió đi ngang khu vườn làm run rẩy những bông hoa. Âm điệu của cây đàn lướt trên những khối đá, làm dịu đi vẻ hỗn độn của chúng. Anh tôi ngủ, miệng há hốc. Cơn buồn ngủ ngay lập tức xâm chiếm lấy anh khi âm nhạc vừa nổi lên. Còn cha thì mắt nhắm lại, tĩnh tâm suy tưởng. Tiếng đàn mở rộng một cánh cửa vô hình, tôi bắt đầu phân biệt được những âm thanh nhỏ nhất của đêm: tiếng rin rít của một con côn trùng, tiếng rì rào của lá, tiếng vỗ cánh. Cái mênh mang bủa vây lấy tôi: cỏ trên thảo nguyên gọn sóng, một con ngựa cất tiếng hí, những làn sóng vỗ ì oạp, những chú cá đuổi nhau dưới nước. Dần dần, những âm thanh này biến mất như thế một đám sương mù bốc hơi. Chỉ còn lại tiếng đàn vang lên rồi yếu dần, tâm trí người theo dõi nó dần dần tụt xuống một vực thắm yên lặng. Tiếng nhạc bây giờ không thể nhận ra được nữa, nó giống như bóng ma dẫn dắt chúng tôi về nơi Âm Phủ. Bỗng nhiên, nó hoá thành một con sếu trắng, giương cánh ra lao thẳng vào nền trời tối đen, rồi trở thành một chấm nhỏ mà mắt thường không nhận ra được nữa. Năm mười hai tuổi, anh tôi nhảy lên một chú ngựa trắng hùng dũng, lưng anh đeo bao tên da khảm những hình bằng vàng. Trong bộ quần áo kỵ sĩ, đôi vai rộng của anh như đội cả bầu trời. Đầu anh để trần, chạm vào mầy. Cánh tay phải anh quấn băng dày làm chỗ cho một con chim ưng mặt bị che kín bám chặt vào. Bằng một cử động đầy hung hăng, anh cho ngựa xông tới cái cồng bên đã được lão coi ngựa mở sẵn. Anh lao vút đi như tên bắn thẳng vào cái thế giới cấm kỵ đối với tôi. Anh trở về nhà khi màn đêm buông xuống, đúng giờ cha thường giam mình trong phòng hút để chỉ trở ra vào sáng hôm sau. Anh tôi đi theo con đường có mái che, vừa đi vừa gây ồn ào ầm ĩ. Mọi người nhận ra ngay tiếng bước chân kênh kiệu của anh. Quần áo anh rách tơi tả, dính đầy lá và bùn khô. Người anh bốc ra mùi nằng nặng của khói lẫn mồ hôi. Nhưng đôi mắt anh tràn đầy kiêu hãnh của con người đã chiêm ngưỡng một xứ sở thần bí. Cái mênh mông vô cùng của cao nguyên ám ảnh anh, sự thô kệch của dân chúng trên thảo nguyên thôi miên anh. Anh đi săn với lũ gia nhân và với cả bọn trẻ con người Mông cổ và người Tây Tạng. Anh quý bọn trẻ đó hơn trẻ con của người chăn cừu Trung Quốc vì chúng có nụ cười hoang dại, giọng hát sắc ngọt và cái nhìn không thế chế ngự được. Chúng dạy anh đi săn con chim ưng, leo trèo và đánh giáp lá cà tay không. Bức tường nhà là những đường biên giới có từ lâu. Vượt qua đó trở về, tính cách anh thay đôi. Niềm vui rơi mất. Tim anh chỉ còn lại sự thù hận, tính kiêu căng và xua đi sự vô tư. Anh vừa khiếp đảm đồng thời lại say mê tính bạo tàn của cha. Anh bắt chước cha lối đối xử thô bạo với tôi. Ghen tị trong anh đã đạt tới mức cực điềm. Anh cảm thấy bị truất bỏ, bị kết án, cảm thấy chỉ là cái bóng trước ánh sáng toả ra từ tôi. Anh sợ trở thành một hành tinh chết. Tôi học thuộc mọi sách quy tắc, đọc hàng trăm bài thơ. Tôi thông tường tất cả cây cối, những câu chuyện được minh hoạ trên trần nhà, các quái vật chạm khắc được dựng trên mái hay trên tường. Nhưng mùa xuân Rồi mùa thu cứ thay phiên nhau đến rồi đi mà chẳng ai biết cách giải thích cho tôi về những điều ấy. Các mùa đi qua rồi quay trở lại, hoa tàn rồi lại nở, mà tôi vẫn chưa gặp được một trí tuệ, một bóng ma hay một người bạn gái nào. Vào lần sinh nhật thứ mười sáu, tôi lăn ra ốm. Chỉ là những cơn nghẹt thở nhưng tôi không thể ngủ được, ăn không ngon miệng. Tôi trở nên bẳn tính. Nhiều thầy thuốc đã đến bên đầu giường thăm và chữa bệnh cho tôi nhưng chẳng toa thuốc nào hiệu nghiệm. Khi đó là mùa đông, một mùa đông dài và im ắng. Ngày trôi qua, tôi ngồi dưới cửa sổ, ôm chiếc lồng ấp lớn với đôi găng tay lông chồn Tuyết rơi. Trên những tờ giấy bản che ô cừa kính, những bông tuyết to vẽ nên những chiếc bóng. Mùa xuân đến muộn. Vài cây dại xanh trồi lên trên tuyết. Đất ấm ướt, đen như mực. Rồi một hôm, mặt trời bỗng toả sáng rực rỡ, làm cho cây cối xanh mơn mởn. Ngày hôm sau, sau nhiều lần nài nỉ, mẹ cho phép tôi đi ra ngoài. Tôi lang thang trong vườn, nhiều lần phải dừng lại đế thở. Không khí nhẹ nhàng, ấm áp. Nhưng khắp nơi vẫn chưa nở hoa; vẫn không có tiếng ong vo ve cũng chẳng có tiếng sếu kêu. Buồn bã, tôi ngước mắt nhìn trời. Những dải mây trôi nổi. Bỗng nhiên, có tiếng kêu than van theo sau là những tiếng rì rào. Một đàn sếu trắng bay ngang bầu trời. Chúng bay qua đầu tôi, oai nghiêm, nhẹ nhàng. Tôi dõi mắt theo chúng, có cảm giác cũng đang bay lên, nhưng bức tường lại cắt đứt mất chân trời của tôi, thả tôi trả lại mặt đất. Tức giận, tôi ra lệnh cho người hầu kiệu tôi lên vai, giúp tôi trèo lên cây trắc bách diệp có đến hàng trăm năm tuổi. Một cành to đâm ngang, sà lên bờ tường như một cái cầu. Tôi ra lệnh cho cô hầu ngậm miệng lại vì cô ta sợ hãi rên ri. Tôi trèo lên tường, quấn váy lại và ngồi lên tường theo kiểu cưỡi ngựa. Tôi ngước mắt nhìn. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy xứ sở của mình. Khoảng vài trăm bước chân phía dưới, trên thảo nguyên bao la, bò, cừu và ngựa Tây Tạng đi lại như từng đàn mây bị gió xua đi. Bên phải và bên trái, những dải núi bò như những con rắn, trên đỉnh là những đám tuyết vĩnh cửu. Phía chân trời có một hồ lớn, phản quang cả trời và đất. Đàn sếu bay về phía hồ nước ấy: vô số những con chim khác họp lại như những đàn ong, xoay tròn xung quanh như những chấm đen. Tôi ước muốn được tung mình trên không, được bay lên trời. Từ lúc ấy cho đến tối, con người tôi là sự phấn khích tột độ. Tôi cười, ăn ngon miệng vô cùng và chuyện trò rôm rả. Tôi đe doạ bắt cô hầu thề giữ kín bí mật của tôi. Buổi tối trên giường, trước mắt tôi lại hiện ra những phong cảnh kỳ lạ rồi tôi ngủ thiếp đi với niềm hạnh phúc của một người đã có trong tay cả một đế chế. Năm mười bốn tuồi, thỉnh thoảng Xuân Di cũng có chút tình cảm với em gái song sinh. Anh cố gắng nói chuyện với tôi, giải thích cho tôi những thứ vũ khí mà anh sử dụng, nhưng anh không kiên nhẫn, thường xuyên nổi giận rồi bỏ đi. Anh mang về cho tôi những ôm hoa dại, xanh hơn cả màn đêm và trắng hơn cả bình minh. Anh nhiệt thành đến độ khi bắt gặp vẻ dè dặt của tôi khiến anh thất vọng. Anh tức mình vứt cả bó hoa qua bờ tường. Tôi khóc. Anh ân hận, lại ra đi và mang về cho tôi một quả trứng hay một chiếc lông đẹp. Một lần trở về nhà người anh ướt sũng, anh tìm tôi khắp nơi, tay bưng cho tôi một cái bát đầy nước trong vắt. Một cái cây kỳ lạ trôi nổi bập bềnh trong đó, lá xanh của nó giống những chiếc lông chim. Có một con cá trong suốt đang bơi. Anh tôi mang về cho tôi một cư dân của cái hồ xa xôi kia mà tôi vẫn chiêm ngưỡng từ trên bờ tường! Anh và tôi hoà giải với nhau mà không nói lời dàn hoà chính thức. Chúng tôi nghĩ rằng vũ trụ của chúng tôi được chia làm đôi. Một bên có mẹ và chúng tôi, còn bên kia có cha và các nàng thiếp. Cha có ba nàng thiếp, chúng tôi đều gọi là “Má”. Họ là giống người chẳng như ai, tựa như con thú bé nhỏ có răng sắc nhọn trú ẩn trong hang sâu. Họ là nỗi sợ hãi, cái quyến rũ, sự tàn ác. Họ làm chúng tôi choáng váng, kinh hãi vì thứ ngôn ngữ tục tằn của họ. Cung cách của họ bạo tàn hơn mẹ nhưng tinh tế hơn người hầu. Khuôn mặt họ hằn lên sự dỗi hòn, đố kị và bạc nhược. Trẻ con trên thảo nguyên trưởng thành sớm. Mùa xuân, khi hoàng hôn tô hồng đỉnh núi, trai trẻ trần trùng trục dưới làn da dê, thong thả đuổi từng đàn súc vật về chuồng. Những cô gái mang quần áo được gió hong khô vào nhà, chuẩn bị nấu nướng. Khi đi ngang qua trước cửa lều có cô gái ở, các chàng trai cất tiếng hát. Giọng hát khàn, đầy khát khao làm trời phải đỏ mặt. Thỉnh thoảng nổi lên tiếng hát của một cô gái ước mơ trở thành đàn bà. Giai điệu, dường như khởi sinh từ khung cảnh, diễn tá niềm vui một cách đau đớn. Vào những lúc đó, Xuân Di đi theo bạn, răng nghiến chặt, máu nóng rần rần trong huyết quản. Nàng thiếp đầu tiên là một cô bán hàng chợ phiên. Cha tôi chọn nàng vì những ngón tay khéo léo của nàng chơi đàn tì bà như ngón tay của nữ thần; người thiếp thứ hai xuất thân từ một gia đình quý tộc bị phá sản; người thứ ba, đẹp nhất, người thiếp cuối cùng được phát hiện ra trong dịp chợ phiên ở miếu thờ, lúc đó nàng trong bộ áo dài xám, đầu cạo trọc, đang đi ăn xin. Vào tuổi hai mươi, nàng mê hoặc cả nhà bằng gương mặt sáng ngời, thái độ vui vẻ và làm mủi lòng mọi người bằng những câu chura chiến dịch “Về nông thôn tham gia cải tạo”, là người muốn chúng ta thay đổi tư duy, muốn chúng ta giũ bỏ khỏi đầu óc tiểu tư sản sự kiêu ngạo của giới trí thức. Liễu khóc lâu lắm. Em kể em sinh ra trong một gia đình quân nhân cao cấp, được cha mẹ nuông chiều. Vây quanh em nào là tài xế, y tá, bác sĩ, đầu bếp, cần vụ và bảo vệ. Em chỉ biết tập trung toàn bộ sức lực vào việc học hành. Cha em cấm em không được đi về nông thôn. Ông giữ cho em một vị trí trong ban tuyên truyền của trung đoàn do ông chỉ huy. Liễu nổi dậy chống lại các ưu tiên ưu đãi, em trốn khỏi gia đình, tin tưởng rằng sự thô ráp của đồng quê và các công việc chân tay sẽ làm cho em rắn rỏi lên. “Cha mẹ đã huỷ hoại cuộc sống của em”, em chua chát nhắc lại. Tôi không biết phải cư xử thế nào. Những giọt nước mắt của cô gái này làm tôi cảm động và bối rối. Tuy nhiên, cuối cùng tôi cũng thuyết phục được em trở về trại, về đến cổng làng, em gạt nước mất, bắt tôi phải thề giữ bí mật về gốc gác của em. Bây giờ tôi mới biết Liễu hơn tôi tám tháng. Liễu đã học năm thứ nhất chương trình thạc sĩ của trường Đại học Nhân dân. Nhờ năng khiếu đặc biệt, nàng đã học xong trung học trong vòng bốn năm. Nàng thuộc lòng hàng trăm áng văn cổ. Khi bị tôi giễu cợt, nàng lại ngâm cho tôi nghe hàng giờ liền các áng văn cố để tôi có dịp châm chọc kiểu cách phong kiến của những áng văn nàng vừa đọc tôi nghe. Rồi mùa xuân cũng đến. Gió nhẹ mở những cánh hoa đỗ quyên vàng cam Chúng tôi đổi dòng chảy của nhiều con suối để tưới cho cánh đông bậc thang trồng lúa. Từng tầng một, làn nước bình yên phản ánh nền trời xanh. Bắt đầu cấy. Để kích thích không khí hăng say làm việc, chúng tôi tổ chức thi đua. Tôi thường dẫn đầu nhóm, còn Liễu lúc nào cũng đứng cuối cùng nhóm. Nàng dấm dúi khóc, tôi lại an ủi nàng Bây giờ, tôi đã biết kể cho nàng nghe những câu chuyện vui. Nàng cười, nước mắt lưng tròng rồi quên hết mọi khó khăn gian khổ. Nàng có vẻ tươi vui hơn so với hồi mùa đông. Đôi má nàng hồng hơn, khuôn mặt nàng vẫn có da có thịt dù điều kiện sống của chúng tôi vô cùng khắc khổ. Trong thời gian nghỉ ngơi các nữ sinh đến lấy quần áo của nam sinh mang ra ao giặt. Việc này trở thành một thông lệ. Chúng tôi đền ơn bằng cách sửa sang lại mái lều hoặc thu dọn đệm nằm cho họ. Liễu lấy quần áo của tôi giặt rồi trả lại, gấp ngay ngắn đặt trên giường. Những chỗ rách được vá lại vụng về. Những chiếc cúc mới thay thế cho những chiếc cúc cũ bị đứt. Không lâu sau, dưới ánh nắng vui tươi rạng rỡ, những thân lúa đã mọc lên, sườn núi được bao phủ bằng lớp lụa xanh Ai có thể tin được mới chỉ ngày hôm qua thôi, đó còn là một vùng đất cháy thành than! Xung quanh khu trại, chúng tôi biến những chỗ đất bỏ hoang thành vườn cau. Những luống đậu, cà chua, cà tím, khoa tây, cà rốt, dưa chuột, và cải thi nhau nảy mầm. Ông trưởng thôn tặng chúng tôi hai con gà nhép và ngay lập tức chúng tôi đã mơ thấy cả một chuồng gà đông đúc Ngày này qua ngày khác, trang trại dần dần thay đổi đến mức không thể nhận ra nổi. Những mảng màu mới xuất hiện; cây cối rậm rạp hơn; ánh sáng làm thay đổi bóng hình những mái lều; nước ao ánh lên vẻ êm mượt. Những người dân làng trước đây chưa quen biết thì bây giờ đã trở thành thân thuộc. Những con ong vo ve, ruồi và chuồn chuồn lượn đuổi theo nhau, những chú cánh cam và bọ ngựa ngủ gà ngủ gật dưới mặt trời. Trong khu trại của chúng tôi, nam nữ sinh viên bắt đầu thành đôi yêu đương, không thể tách rời giống như cây sồi với bóng của nó Liễu và tôi trêu chọc không thương tiếc những người bạn đang yêu hết hồn. Chúng tôi tự hào vì tình bạn trong sáng giữa chúng tôi như tình cảm anh chị em. Sau vụ cấy, rồi chúng tôi cũng có chút thời gian nghỉ ngơi. Chúng tôi dạo chơi trong rừng. Những con đường ngoằn ngoèo dẫn chúng tôi vào miền bí mật của rừng núi. Trời đẹp, không khí khô. Khi hít thở thật sâu, hai lỗ mũi như bị bỏng, có thế ngửi thấy mùi hương thanh cao của lá xanh. Mặt trời dát những mảnh vàng lấp lánh lên thân cây. Mặt đất rải đầy một lóp lá vàng kêu xào xạc dưới bước chân. Phía trên đầu chúng tôi, những thân tre khổng lồ tạo thành một mái vòm. Cành cây cọ vào nhau, cong xuống rồi thả ra. Gió rung từng chiếc lá run rẩy. Một hôm, bị lạc trong rừng - chúng tôi cố tình bị lạc vì khát khao những điều bất ngờ - chúng tôi thấy một ngôi nhà đổ nát. Hàng rào sụp đổ hoàn toàn, đây đó chỉ còn lại những đống đá. Ngôi nhà ngày xưa có nhiều phòng. Chỉ có một phòng được những người đi hái măng và những thợ săn gà lôi sửa lại. Họ lợp lại mái, đắp lại tường, bịt cửa sổ và đặt một cái giàn thay cho cửa vào. Trong nhà rất tối. Những cuộn chiểu tre chất đống ở góc nhà, dành cho những người chậm chân phải ngủ lại qua đêm. Chúng tôi còn tìm thấy một cái lò đất, một cái nồi sành, mấy cái bát mẻ và một ít cành tre để nhóm lửa; ở miền núi, khi phải ngủ trong một chỗ trú ấn như thế này, người ta sẽ chuấn bị đầy đủ mọi thứ trước khi ra đi để sẵn cho những người đến sau. Một cái bàn và ba chiếc ghế dựng trước cửa làm chúng tôi chú ý. Dương xỉ xen đầy mặt đất đến nỗi cỏ phải xuyên qua đám dương xỉ mà mọc. Liễu quét là khô. Em nhổ cỏ và bới đám dương xỉ ra. Em dọn quang được một phần chiếc bàn. Đó là một chiếc bàn cẩm thạch. Chúng tôi ngồi trên ghế. Thời tiết ẩm ướt. Chúng tôi đánh hơi trong gió có mùi của một cơn bão sắp nổi lên. Liễu trở nên suy tư, đột nhiên, em nói: “Anh có nghe thấy tiếng rừng tre đang run ray không? Chúng thì thầm bằng một thứ tiếng mà em biết Nhưng mà tại sao em lại không tài nào nhớ ra nổi?” Một con chim có bộ lông sặc sỡ tung mình lên bầu trời. “Em có mê sảng không? Em đã từng nghe thấy tiếng vỗ cánh này rồi”, Liễu nói tiếp Cơn mơ mộng của Liễu làm tôi run sợ. Tôi thấy em buồn đến vô vọng nên không nói gì nữa. Tôi im lặng làm em bối rối, em nhìn tôi chăm chăm một hồi lâu rồi nói: “Ban nãy em rủ anh đi với em vì muốn nói với anh một chuyện...” Liễu dừng lại. Tôi nài em nói tiếp. Em nhìn tôi không chớp. Bỗng nhiên hai hàng nước mắt tuôn trào và chảy dài trên má em. Em thầm thì: “Em không thế nào còn chơi đàn dương cầm được nữa!” Tôi hỏi em tại sao. Em càng khóc to hơn. Em chìa cho tôi xem những ngón tay đỏ lựng, các đốt tay sưng vù Tôi nhận ngay ra triệu chứng của bệnh viêm khớp. “Em có đau không?” Em nức nở không thể thốt nên lời. Tôi nắm chặt tay em trong tay tôi. Tôi nhớ lại suốt mùa đông, em cày đất bằng cái xới đất nhỏ, em giặt quần áo của tôi vào lúc đầu mùa xuân nước ao chắc phải vô cùng băng giá! Em thở dài rồi nói em bắt đầu học dương cầm từ khi sáu tuổi. Năm mười lăm tuổi, em phải chọn giữa nhạc viện quốc gia và trường đại học. Em đã quyết định đi học trước rồi trở thành nghệ sĩ dương cầm sau. “Em không nên than thở về số phận của mình. Trở thành nhạc sĩ dương cầm là ước mơ kiểu tư sản và theo chủ nghĩa xét lại. Nhưng anh có hiểu không, đấy là ước mơ thời trẻ con của em! Để thực hiện được cần phải bỏ ra ba nghìn giờ tập luyện”. Những lời Liễu bộc bạch làm trái tim tôi tan nát. Là con trai của gia đình bác sĩ, tôi biết nỗi đau đớn và những di hại của căn bệnh mà Liễu mắc phải. Thế nhưng, tôi lại nói với em: “Liễu ơi, hãy vững vàng lên, em là một chiến sĩ”. Tôi tự hẹn sẽ chữa khỏi bệnh cho Liễu. Những ngày nghỉ, tôi đi khắp làng để tìm cho em quả phúc bồn tử, dâu tây và nhiều loại quả khác giàu vitamin c có vào đầu mùa hè ở đó. Nhớ những lời trò chuyện giữa cha và mẹ tôi, tôi mang về cả cho em lá cây dâu tây đế nấu nước uống cho em. Khi mùa gặt bắt đầu thì những người lính giã từ chúng tôi. Chúng tôi bầu ra chỉ huy mới trong số sinh viên. Tôi được bầu làm chỉ huy trưởng của cả đại đội. Lợi dụng quyền lực, tôi để Liễu ở lại khu trại, chỉ cắt cử nàng làm việc bếp núc. Nàng chống lại, hễ hết việc trong bếp núc là lại chạy ngay ra ngoài đồng. Thu hoạch lúa xong thì vụ cấy mới lại bắt đầu liền. Tháng Bảy, trời đầy mây đen như là những vũng chì rồi mưa như trong nạn đại hồng thuỷ. Để cứu lúa, chúng tôi thay phiên nhau canh chừng bờ đê, khơi những lỗ tháo nước. Đất sũng nước, nhão nhoẹt. Đất vỡ ra, bùn ào xuống ruộng lúa. Mỗi đêm, tôi phải thức dậy hai đến ba lần vì người bảo vệ đánh kẻng báo động. Tôi khoác vội chiếc áo tơi lá tre, lao mình vào bóng tối đầy mưa. Ngọn đèn pin làm đuốc soi tỏ bùn đen, những vũng nước, lá rụng. Bất chợt, tôi nghe thấy một tiêng kẻng, hai tiếng rồi ba, bốn tiếng kẻng báo động khẩn cấp. Đó là báo hiệu núi đe doạ đổ sụp xuống đầu chúng tôi. Một hôm, mưa bắt đầu ngớt hạt. Sương mù dày đặc. Đứng trên ruộng lúa, tôi thấy những khoảng đất toạ thành những bậc thang khổng lồ được làn mây bạc bao phủ. Tôi nhớ lại sự kiêu ngạo của mình lúc vừa đắp ruộng xong: lúc đó tôi tin rằng thiên nhiên đã bị chúng tôi khuất phục. Giờ đây, một khung cảnh khác hiện ra trước mắt. Núi non sũng nước, bức màn mưa mênh mông, bầu trời vô thuỷ vô chung. Con người thật mong manh, nhỏ bé và nực cười làm sao, và tôi cũng là một kẻ trong đám ấy. Mùa thu đến. Mặt trời cứu vãn đôi chút những hư hại do mưa gây ra và đem đến cho chúng tôi một vụ mùa đẹp đẽ. Ủy ban cách mạng của thành phố Mỹ Lâm cử một đoàn đại biểu đến chỗ chúng tôi. Tôi cho rằng, họ muốn kiểm tra công việc của chúng tôi. Điều làm cho chúng tôi bất ngờ là sáu thành viên của đoàn từ chối ngủ trên những chiếc giường mà chúng tôi dành cho họ và muốn trọ ở nhà dân. Trưởng thôn choáng ngợp trước vẻ quan trọng của họ nên bố trí chỗ cho họ ngay. Sáng hôm sau, đoàn đại biếu triệu tập tất cả một trăm ba mươi sinh viên dưới chân núi, ở chỗ rừng trống mà chúng tôi vẫn dùng làm nơi hội họp. Như những người nông dân thực thụ, nhiều người trong số chúng tôi đến họp mà vẫn chít khăn trên đầu. Cũng là một cán bộ lãnh đạo nên tôi cảm thấy vô cùng tức tối khi đoàn đại biểu giấu chúng tôi mục đích chuyến viếng thăm của họ, hơn nữa không ai trong chúng tôi được hỏi ý kiến trước khi tổ chức cuộc họp. Tuy nhiên, tôi cũng theo đám đông, ngồi một góc đế quan sát cho rõ. Trưởng đoàn là một thanh niên khoảng hai mươi lăm tuổi, vóc người trung bình, gầy. Một lọn tóc của anh ta lò ra khỏi chiếc mũ lưỡi trai quân đội. Đằng sau cặp kính dày, cặp lông mày như chiếc bàn chải phủ xuống đôi mắt như mắt cóc. Đôi môi mỏng, hơi có vẻ đàn bà che giấu nội tâm anh căng thẳng. Anh ta nhảy lên một tảng đá, im lặng một lúc để cuốn hút sự chú ý của chúng tôi, sau đó, một tay chống nạnh, anh ta kêu gọi chúng tôi. “Thưa các đồng chí, binh sĩ và Hồng Vệ binh. Tôi được Uỷ ban cách mạng của thành phố Mỹ Lâm cử đến đế thông báo với các đồng chí một tin quan trọng! Phương Đông Đỏ, nhóm phản cách mạng nay đã bị Quân đội nhân dân vinh quang đánh tan!” Những tiếng thì thầm nổi lên. Sau khi những người lính đi khỏi, có tin đồn rằng phe cách mạng Thái Dương Đỏ liên minh với quân đội. Những thành viên của phe Phương Đông Đỏ bị dồn đuổi, tụm lại trong trường đại học Mỹ Lâm. Người ta cũng còn đồn rằng cuộc bao vây đó kéo dài được hai mươi ngày, rồi thì đạn dược và thực phấm cạn kiệt, hội Phương Đông Đỏ ăn phải chất asen và để lại cho quân đội cả một phòng đầy xác chết. Từ đó, Thái Dương Đỏ chiến thắng. “Hạt nhân của nhóm phản cách mạng đã bị tiêu diệt, người thanh niên nói tiếp. Nhưng những kẻ đồng loã với Phương Đông Đỏ vẫn còn lẩn trốn giữa các sinh viên đi cải tạo ở nông thôn. Chúng tìm cách lợi dụng sơ hở đế tàn phá phong trào cách mạng của chúng ta”. Anh ta giơ cánh tay lên, hô to “Cách mạng văn hoá muôn năm”, “Chủ tịch Mao Trạch Đông muôn năm”, “Tư tưởng Mao Trạch Đông muôn năm”. Hơn một trăm giọng sinh viên lặp lại mấy câu khẩu hiệu, không một chút dũng khí. Sau mười tháng cải tạo, cứ cày bừa trên đồng và đếm từng hạt thóc, chúng tôi hoàn toàn thành những kẻ đờ đẫn, chẳng còn biết gì là niềm say mê nữa. Những thành viên khác của đoàn đại biểu đứng dưới chân mỏm đá. Tất cả bọn họ đều trẻ trung, sạch sẽ trong bộ trang phục quân đội, dây thắt lưng da đeo súng ngắn, họ có cái vẻ ngỗ ngược cao đẹp mà tôi từng có vào thời kỳ đi khắp Bắc Kinh cùng các nhóm cách mạng đế truy lùng đồng đảng xét lại. Đối diện với mấy vị thượng đế này là chúng tôi trong những bộ quần áo rách rưới, lưng còng xuống, khuôn mặt khắc khổ, đôi tay chai sạn, những con mắt nhìn trống rỗng, chúng tôi trở thành nông nô của họ. Đoàn đại biểu bực mình. Họ thấy chúng tôi thiếu năng động. Để kích thích chúng tôi, họ đề nghị ngay lập tức biến cuộc họp động viên tinh thần thành cuộc họp tố giác. Tôi ngắm một nhìn vầng thái dương dần dần đứng bóng. Hạt thóc, nặng như bụng bà chửa, đang đợi chúng tôi trên núi. Tôi cất cao giọng để người trên đỉnh mỏm đá nghe thấy tiếng: “Chúng ta có thể hoãn buổi tố giác lại vào buổi tối được không? Chúng tôi phải đi cắt lúa vào mùa này, mỗi phút trong ngày đều rất quý giá” Đề nghị của tôi được toàn bộ sinh viên ủng hộ. Đám đông ồn ào, sắp sửa giải tán. Trưởng phái đoàn nhìn tôi vẻ khinh bỉ: “Buổi họp kết thúc ở đây, anh ta nói mà mặt nhăn nhúm. Buổi họp tới vào tám giờ tối nay tại nhà ăn”. Đoàn đại biếu trưng dụng một phòng ở nhà của một người nông dân làm văn phòng. Một trăm ba mươi tù nhân lần lượt được triệu tập đến tra hỏi. Việc thanh tra kỹ lưỡng này làm đảo lộn trật tự công việc của chúng tôi. Đồng lúa trở thành quảng trường đế chúng tôi tụ tập trao đổi tin tức. Người ta nói rằng đoàn đại biểu là lính cũ của nhóm Thái Dương Đỏ, bọn họ ôm trong lòng mối hận dai dẳng và luôn luôn bị ám ảnh vì một nỗi sợ hãi. Là người đầu tiên được hỏi cung, tôi soạn một bản báo cáo hết mực trung thực. Đại đội của chúng tôi chủ yếu gồm sinh viên từ Bắc Kinh đến khi chúng tôi đến Mỹ Lâm, quân đội tập trung chúng tôi trong nhà hát nhân dân. Cư trú ở vùng chân núi này, vì những khó khăn về giao thông, chúng tôi gần như cách ly với thế giới. Trong điều kiện như vậy, làm sao chúng tôi có thể liên lạc được với người của phe Phương Đông Đỏ và dự phần vào xung đột chia rẽ thành phố Mỹ Lâm? Phái đoàn không đôi co gì. Viên chỉ huy hút hết điếu thuốc này đến điếu thuốc khác, đồng thời quan sát cuộc hỏi cung đang diễn ra dưới cặp kính đen sì. Anh ta không nói nửa lời. Khi tôi rời văn phòng, anh ta dõi mắt theo tới tận cửa rồi lạnh lùng chào tôi. Tôi cố gắng trấn tĩnh nỗi lo lắng của các bạn. Theo tôi, cuộc hỏi cung chỉ là hình thức, và đoàn đại biểu sẽ sớm rời sang làng khác. Nhưng những người bi quan nhất nói rằng họ sẽ chưa đi khi chưa tìm thấy một kẻ tay sai trong số chúng tôi. Cậu Trương béo có cha mẹ quê ở Mỹ Lâm, được triệu tập đến văn phòng lần thứ hai. Khi quay về anh ta có vẻ thay đổi nhưng không ai cậy miệng anh ta được nửa lời giải thích về những việc vừa diễn ra. Sống cùng lều với anh ấy, biết tính cách hay hoảng sợ của anh ấy, rồi bỗng nhiên, một buổi chiều, các thành viên của đoàn đại biểu ra tận ruộng đế bắt tôi. Họ đeo còng vào cổ tay tôi rồi áp giải tôi về làng Viên chỉ huy, lúc nào cũng có điếu thuốc lá gắn trên mép, đang đợi tôi ở bàn làm việc. Tôi ngồi lên ghế, bình thản hỏi lý do họ bắt tôi. Anh ta mỉm cười và rút ra một quyển sổ: trong tay anh ta là quyển nhật ký của tôi Cuộc hỏi cung bắt đầu. Phái đoàn kết tội tôi là thành viên của Phương Đông Đỏ đã tham gia mưu phản lật đổ Đảng Cộng sản và Mao Chủ tịch. Bằng chứng là quyển sổ nhật ký của tôi đã ghi lại cuộc gặp gỡ với cậu thanh niên thành viên của Phương Đông Đỏ và tấm huy hiệu của trường trung học Sao Đỏ. Không thể để sự vu khồng bóp nát, tôi phẩn nộ vặn lại răng, lúc nào tôi cũng cư xử như một người chiến sĩ chân chính của cuộc Cách mạng văn hoá. Họ bực dọc, xắn tay áo lên và tuột dây thắt lưng ra Cứ mỗi cú bị họ quật vào người là tôi lại tuôn ra những lời nguyền rủa họ. Khi còn thiếu thời, tôi vẫn lo lắng tự hỏi là những người cách mạng chân chính, không biết, tôi có chịu được tra tấn mà phản bội hay không. Bây giờ, niềm tin vào sự vô tội của mình làm nảy sinh trong tôi sức mạnh giúp tôi chiến đấu chống lại bất công. Bình minh hé rạng, đoàn đại biểu giam giữ tôi trong ngôi miếu được họ biến thành nhà tù. Tôi lết đến tận bàn thờ, chỗ đó các bức tượng phật đá bị họ tháo bỏ sạch. Tôi thấy vẫn còn những chiếc gối rách trước kia các tín đồ dùng để quỳ gối. Mặc kệ mọi điều, tôi nằm thẳng cẳng lên đó. Toàn thân run lẩy bẩy, tôi không tài nảo ngủ được. Mặt trời lách qua khung cửa sổ bé tí tẹo nằm cách mặt đất hai mét, ném một tia sáng lên trên bàn thờ, Tôi nhìn những hạt bụi nhỏ li ti quay tròn trong chùng ánh sáng yếu ớt đó. Ai là người tiết lộ cho phái đoàn biết quyển nhật ký của tôi? Ai phản bội tôi? Phải chăng Trương béo đã bán rẻ tôi để thoát thân khỏi cơn lúng túng? Hay là cô Hoài, người đã nhìn thấy tôi viết nhật ký vào một hôm dậy sớm hơn thường lệ? Ai đã rình rập tôi? Ai đã theo tôi khắp các nơi tôi giấu quyển nhật ký? Hay là Lý, gã đàn ông độc miệng và tò mò như một con cú vọ? Cũng có thể là Phương chăng, vì tôi đã mắng anh ta khi anh ta lấy nệm của tôi mà không hỏi? Không, không thể được. Làm sao anh ta biết tôi viết gì khi anh ta mù chữ? Ngoại trừ trường họp tối hôm trước, trong lúc say xỉn tôi đã thổ lộ bí mật với anh ta? Chiều hôm sau, những cú đá kéo tôi ra khỏi giấc ngủ, tôi bị giải ra khỏi làng. Họ dựng gần mỏm đá cái bàn tròn, phía trên là những thửa ruộng bậc thang. Cờ đỏ ở hai phía bàn xử án phần phật trong gió, làm khung cảnh thêm màu sắc mới và có vẻ uy nghiêm. Một băng rôn đỏ chót được căng ra phía trước sân khấu, trên đó viết một hàng chữ màu trắng: “Cuộc họp xử án kẻ xét lại phản cách mạng Vân”. Tôi thở phải vì thoát khỏi cảnh sống cách ly, và đầu óc bị ám ảnh bởi kẻ tố cáo không lộ diện, tôi cứ nghĩ mình phát điên mất. Họ giải tôi lên trên sân khấu. Mặc dù có một tấm bìa to tướng treo ở cổ viết các tội danh của tôi, tôi vẫn có thế ngửng đầu lên được và chỉ trong loáng mắt tôi đã nhìn bao quát hết cảnh đồng lúa Những mảnh ruộng tạo thành những tấm gương vỡ ngoạn mục chồng chéo lên nhau. Từng tảng mây phản chiếu lên vách núi những ánh đen. Một dải sương mù bồng bềnh trên cánh rừng tre. Bắt đầu buổi họp, họ đọc các châm ngôn của Mao Chủ tịch. Sau đó, viên trưởng đoàn vạch tội “mất cảnh giác và tinh thần giảm sút trong đội ngũ Hồng Vệ binh”. Họ buộc tay tôi quặt ra phía sau, đẩy tôi ra phía trước sân khấu, đối diện với tất cả mọi người rồi dúi tôi gập người xuống. Kịch bản dàn dựng theo kiểu cổ điển. Lúc ở trường trung học, tôi từng tổ chức hàng chục buổi biểu diễn kiểu này nhưng điều mới lần này là chính tôi đóng vai kẻ bị kết án. Cái biên viết tội buộc băng dây thép mỏng xiết chặt lây cổ tôi. Lưng tôi bầm dập, đôi chân tôi như có ngàn ngọn lửa thiêu đốt, cơ bắp tôi đau đớn, đầu tôi muốn nổ tung ra. Khi người ta đọc diễn văn, tôi muốn quan sát thái độ bạn bè. Họ bực tức hay thờ ơ? Trong thâm tâm tồi cứ nghĩ những người đã cùng với tôi lao động, đã chiến thẳng bão táp và xây dựng cuộc sống mới sẽ chống lại đoàn đại biểu. Tôi nghĩ, dưới áp lực của bạn bè tôi, người ta sẽ tuyên bố tôi vô tội. Nhưng tôi chỉ nhúc nhích một tí là những kẻ tra tấn lại tung lên người tôi hàng loạt cú đấm đá. Tôi đành lòng cúi mặt nhìn mũi giày mình đang đi. Sau vài câu khẩu hiệu và những bài ca cách mạng, ai đó nhảy lên sân khấu, rồi tôi nhận ra giọng Trương béo. Hắn bắt đầu rên rỉ: tôi đã cố gấng nhồi nhét cho hắn những tư tưởng xét lại bằng cách phỉ báng những thói quen nông dân; tôi nói phải học đọc và học viết đế khỏi ngu xuấn. Hắn nói rằng lương tâm hắn buộc hắn phải đọc mấy trang nhật ký của tôi và hắn thấy rất kinh ngạc. “Đối với Vân, hẳn nói với giọng thiếu tự tin, giống như đang đọc một bài tập đọc, cải tạo ở nông thôn chỉ là ngụy trang, là dịp để len lỏi vào đội ngũ những người tiền tiến để truyền bá nọc độc của tư tưởng phản động”. Theo hắn, khi tới thành phố Mỹ Lâm, tôi đã bắt liên lạc với các thành viên của nhóm chống đối cách mạng Phương Đông Đỏ, nhanh chóng thiết lập quan hệ với chúng. Chúng tôi trao đổi ký hiệu để nhận nhau, đó chính là huy hiệu có tên một trường trung học. Nhiệm vụ của tôi là phát triển hệ thống phản cách mạng ở nông thôn. Tên Trương béo dừng lại vì những tiếng rên từ cổ họng tôi thoát ra. “Đồ dối trá! Đồ tồi! Mày sẽ phải trả giá cho những lời bịa đặt của mày...!” Một trận mưa nắm đấm rơi xuống người tôi, chẹn ngang câu nói của tôi. Ai đó tiếp lời Trương, tôi nhận ra giọng Hoài. Cô ta tố cáo tôi không quan tâm đến bạn bè. Một hôm, cô ấy ốm rất nặng, thế mà tôi còn cưỡng bức cô ấy ra đồng làm việc. “Đồ lừa đảo! Đồ chó!” tôi tuồn ra những lời chửi rủa, đáp lại, chúng xối xả quất hàng trận mưa dây thắt lưng xuống người tôi. Tôi ngã xuống. Chúng dựng tôi dậy. Lý nhảy lên sân khấu nói mưu đồ phá hoại của tôi đã thất bại. Tôi giấu cuốc thuống không cho bạn bè làm việc, tôi lợi dụng bão tháng Bảy để đục đê làm lúa ngập lụt “Vu khống! Vu khống!” Nhưng những lời phản bác của tôi bị chìm trong tiếng hô khẩu hiệu của viên chỉ huy đoàn đại biểu để cả đám đông nhại lại: “Đả đảo quân phản cách mạng Vân! Đả đảo kẻ phản bộ Cách mạng văn hoá! Tư tưởng Mao muôn năm!” Ai đó nhổ nước bọt vào mặt tôi và kết tội tôi lạm dụng lòng tin và sự tín nhiệm của sinh viên. Người đó khẳng định rằng tôi thù địch với đoàn đại biểu và nói những lời dối trá bỉ ổi về phía đoàn. Mọi người lần lượt lên sân khấu. Tôi không còn chửi bới được nữa vì để chặn họng, bọn chúng nhét bít tất vào miệng tôi. Tôi mới thấu hiểu rằng mọi chi tiết trong cuộc sống hàng ngày đều có thể dùng đế bịa ra mọi lời xuyên tạc. Tôi vỡ lẽ ra đã bị tất cả những người mà tôi tin tưởng phản bội lại, những người mà mới ngày hôm qua còn cười với tôi và tôi coi đó đều là bạn bè. Thế rồi sau đó là sự vỡ mộng cuối cùng, cú đau đớn nhất trong mọi cú đòn, hoàn toàn hạ gục tôi. Giọng viên chỉ huy vang lên trong loa phóng thanh: “Đồng chí Liễu, đồng chí đã dũng cảm tố cáo kẻ phản cách mạng, chính đồng chí tiết lộ nơi hắn giấu quyến nhật ký, bằng chứng cho niềm tin tưởng của chúng ta, đồng chí không có gì nói trước công chúng sao?” Máu tôi lạnh đi trong huyết quản. Tôi thu hết sức lực ngẩng đầu lên. Tôi nhận ra Liễu trong đám đông. Tôi nhìn em bằng đôi mất đầy hận thù đến nỗi mắt tôi phát đau. Bất chợt, một cú thắt lưng quật xuống đầu tôi, thái dương tôi kêu ong ong, tôi ngất xỉu. Đêm hôm sau cuộc đấu tố, tôi thật buồn. Tôi ngắn nhìn chị Hằng qua ô cửa sổ bé tí tẹo. Chị Hằng tròn vành vạch như một khuôn mặt, nhìn tôi bí ẩn. Chị nghĩ gì về tôi? Chị nghĩ gì về thế giói mà chị dát những ánh bạc? Tách biệt với thế giới trần gian, từ trên trời cao ngó xuống, chị có tỏ tường từng kiếp người chăng? Chị là người biết các anh hùng thuở xưa, biết các triều đại, hoàng đế, những tì thiếp, những nhà thơ, chị còn soi sáng trái đất này cả khi chúng tôi không còn nữa, chị có biết tương lai của tôi chăng? Nhưng vầng trăng lặng lẽ di chuyển và biến mất khỏi khung cửa sổ. Ngày hôm sau, hỏi cung và tra tấn lại bắt đầu. Mệt mỏi, vô vọng, tôi không thừa nhận mọi tội lỗi và muốn chết luôn dưới đòn roi. Tôi còn có thể hy vọng gì nữa khi cuộc sống chỉ là lăng nhục và bội phản? Nhưng than ôi, cơ thể của tôi lại dẻo dai. Những vết bầm tím, những vết thương và máu mủ còn làm thân thể tôi càng thêm quyết liệt bám riết lấy sự tồn tại khốn khổ. Vào giờ ăn trưa, cả đoàn đại biểu áp giải tôi ra miếu thờ. Chúng trói tôi lại rồi đi ra nhà ăn. Ngay khi chúng vừa đi khỏi, tôi nghe thấy tiếng nức nở yếu ớt. Lê đôi chân cứng đờ vì đau đớn, tôi lại gần cửa sổ cất tiếng hỏi ai đang khóc. “Em ạ”, Liễu trả lời. “Cút đi! Tao không còn muốn nhìn thấy mặt mày nữa, cút khỏi đây ngay. Để tao yên”. “Xin hãy nghe em! Chúng đến hỏi em anh cất quyển sổ nhật ký ở đâu. Một buối tối, em thấy anh giấu cái gì đó trong thân cây liễu này.. Em không muốn nói gì với họ cả... Nhưng họ nói rằng vấn đề rất quan trọng, rằng anh tham gia hội mưu phản cách mạng. Em không tin họ. Em nghĩ quyển nhật ký sẽ chứng tỏ anh vô tội... Em thật ngu ngốc khốn khổ làm sao...” “Câm đi!”. Tôi hét hết sức mình. Niềm tin mà tôi gửi gắm nơi em, kỷ niệm về những ngày tuyệt diệu bên nhau làm trái tim tôi tan nát. Nước mắt tôi rỉ ra. Giọng tôi tan nát: “Sao mày còn đến đây kể lể những chuyện thêu dệt gian dối như thế? Chúng cử mày đến đây để moi móc những lời thú tội của tao chứ gì! Cút khỏi đây ngay, đi mà nói với mấy thằng chủ của mày rằng chính chúng mới là những kẻ phản cách mạng!” “Em xin, Liễu cũng hét lên. Xin Vân hãy tha thứ cho em! Tất cả hoàn toàn là lỗi của em. Em chết vì ân hận!” Giận dữ điên cuồng, tồi điên loạn lao người vào tường và la hét: “Đồ đạo đức giả! Biến đi! Mày không phải là bạn tao nữa! Mày phản bội tao! Cút đi!” Tiếng la hét của tôi thu hút sự chú ý của đoàn đại biểu. Chúng mở cửa, bịt miệng tôi lại. Tôi lăn lộn dưới đất, kiệt sức, bất lực, hết biết thẹn, hết danh dự. Vào buổi đấu tố tiếp theo, số lượng người tham gia giảm xuống. Nông dân quay trở lại với vườn mộng và chỉ có ba phần tư số sinh viên đến dự. Cơn sốt của họ hạ xuống. Những lời kết tội tôi đơn điệu, đầu voi đuôi chuột, không còn nhiệt tình, không còn hùng hồn. Tên chỉ huy đoàn đại biểu thụi tôi một cú vào giữa mặt, mũi tôi bắt đầu chảy máu. Ngay cả máu cũng không còn tạo được hiệu quả mong đợi nữa. Lũ đao phủ và những kẻ phán quyết tôi đã mệt mỏi. Trở về miếu thờ, nỗi đau đớn của tôi dường như dịu xuống. Tôi ngủ dưới bàn thờ như một con chó vừa bị đòn. Mạng nhện, bóng tối và mũi thối của chính tôi không còn làm cho tôi ghê tởm nữa. Tức giận và ám ảnh trả thù sôi sục trong tôi từ nhiều ngày nay bỗng biến mất. Yên tĩnh trở lại. Ánh hoàng hôn nhạt dần ở cuối chân trời. Màn đêm buông xuống. Được ru bằng những tiếng kêu ngắt quãng của lũ dế và côn trùng, cuộn tròn trong một niềm cảm xúc gần như sung sướng, tôi săp ngủ thì có ai đó trườn đến gần cửa sổ và gọi tên tôi. Tôi nhận ra người đó nhưng không trả lời. “Em biết anh ở đó, Liễu nói với giọng buồn bã. Nhưng anh không muốn nói với em nữa Đành vậy... Em sẽ không được tha thứ. Em sẽ không bao giờ tha thứ cho mình”. Tôi nghe thấy tiếng cô ấy khóc. “Vân, em mang đến cho anh lọ thuốc bôi này. Nó có thể làm các vết thương bớt đau đớn”. Có cái gì đó đập vào chấn song cửa số, nảy vào phía trong điện thờ, lăn trên nền. Một giây phút yên lặng trôi qua. Tôi vừa nghĩ chắc cô ấy đi rồi thì nghe thấy tiếng cô ấy nói: “Vân, anh ngủ đấy à? Anh đang mơ gì thế? Ngày hôm qua em đi dạo một mình trong rừng tre. Em trèo lên tận chỗ ngôi nhà đổ nát.. Tiếng cô nức nở làm lính gác thức giấc. Cô ấy chạy đi. Mặt trăng trèo lên trên cửa sổ, có vẻ lo lẳng suy tư rồi lại biến mất. Tôi nhìn góc trời được thắp sáng qua bước đi của chị. Khoảng trời đó chậm chạp tắt dần, rồi những vì sao xuất hiện. Tối đó, tôi không tài nào nhắm mắt được. Tôi nghĩ về cha mẹ tôi. Các chi tiết của quãng đời đã trôi qua quay trở lại trong tôi, rõ ràng đến độ đáng kinh ngạc: tôi nghe thấy tiếng réo của rau ném vào chảo mỡ, những chiếc nồi va vào nhau, những tràng cười ròn rã, tiếng xe đạp bấm chuông dưới cửa sổ. Đó là lũ bạn cùng lớp tôi đến. Tôi sung sướng, yên ổn. Buổi đêm hắt ánh sáng mờ đục lên cửa kính. Vâng, Tết đến! Những tiếng pháo nổ, tiếng pháo hoa rít lên. Nhà nào cũng làm bánh bao. Bên cạnh tôi mẹ tôi toả ra mùi thơm của xà phòng hiệu Thiên Miếu. Nhưng tiếng gió gầm gừ và tiếng tre trúc thầm thì kéo tôi trở lại với thực tế. Tôi rùng mình. Đầu óc tôi đột nhiên sáng láng hơn bao giờ hết. Cái mà tôi bị thiêu trong cuộc sống thành thị, đó chính là sự tiếp xúc với đất đai. Tôi ăn cơm mà không biết nó được làm ra như thế nào, không biết cả những giọt mồ hôi đã đổ xuống. Sự tồn tại của tôi là toà lâu đài nhỏ bé dựng trên những công trình vô hình của hàng triệu người. Để sờ mó tận thực tế, tôi tham gia Cách mạng văn hoá, nó làm cho tôi phải chịu lạnh, chịu nóng, chịu lao động và chịu tù đày để cho tôi có dịp chứng tỏ sức chịu đựng của mình và rũ bỏ tính kiêu ngạo của mình. Trong vòng một năm, các sự kiện xảy ra đã đảo lộn cả số phận tôi, mang tôi đến những mảnh đất tôi chưa từng biết tới. Hôm qua, còn là người chỉ huy cách mạng, hôm nay tôi đã là tù nhân. Tôi nóng lòng muốn biết số phận tiếp theo ra sao. Vì thế giới đã mở cửa cho tôi, ngày mai tôi vẫn cứ tiếp tục cuôc hành trình. Tôi sẽ đi xa, thât xa. Cuộc đời của tôi là một chuyến lữ hành cô độc! Hành lý của tôi nặng trĩu những nỗi nhớ nhung!Tôi đứng dậy khỏi chỗ nằm, nhặt cái lọ nhỏ mà Liễu vừa ném vào cho tôi qua cửa số. Tôi thở dài nhìn nó. Đây chính là lúc tôi rũ bỏ hết mọi con người đồng điệu mà ra đi Hoàn toàn đơn độc. Ngày hôm sau của buổi họp xét xử, phái đoàn quyết định lên đường. Họ mang theo nạn nhân của cuộc điều tra. Sinh viên tụ tập lại để xem tôi ra khỏi nhà tù. Đầu ngẩng cao, đôi tay bị trói quặt sau lưng, tôi nhìn tận mặt họ soi xét. Họ cúi xuống lẩn tránh ánh mắt nhìn của tôi. Tôi tìm kiếm Liễu nhưng không thấy. Người ta vứt tôi lên xe tải, xe đi rất lâu mới dừng lại. Những thành viên trong phái đoàn bước xuống, chỉ có hai người lính gác canh chừng tôi. Nằm ườn một góc, tôi khoan khoái lẳng nghe âm thanh thành phố. Xe tải lại chuyến bánh. Âm thanh thành phố nhỏ dần. Khi chúng tôi một lần nữa dừng lại, họ cho tôi xuống xe. Đó là chỗ bờ rìa một cánh rừng. Họ đẩy tôi đi về phía toà nhà có tường bao quanh, bên trên cắm dây thép gai. Tôi thay bộ quần áo nông dân đầy máu mủ để mặc bộ quần áo tù nhân sạch sẽ. Tôi nghe nói những người mới vào tù sẽ bị đánh đập thật lực cho tới khi rơi rụng hết ý định trả thù và tính kiêu ngạo, y như thế người ta đập bụi bám trên quần áo vậy. Khu tôi ở ken đặc tù nhân chính trị - các giảng viên đại học bị vu khống dẫn tới chỗ chết. Ở đây, hiếm khi có tra tấn. Sau khi đổi tên để lấy số hiệu, con người trở thành đồ vật, trở thành một chiếc bóng. Nhưng cái đói mới là sự tra tấn hiệu quả hơn cả những cú đấm và dây thắt lưng da quất. Một bát nước và nửa bát cám mỗi ngày duy trì sự sống trong chúng tôi, triền miên thất vọng. Trong các giấc mơ, bát mì, thịt, rau, những thứ tầm thường nhất bỗng có một sắc thái sống động, một hương thơm tuyệt đỉnh làm tôi phát cuồng phát điên. Nhưng tất cả biến mất khi tôi mở mắt ra. Đôi khi, lửa thiêu đốt dạ dày, đầu óc điên loạn, tôi hau háu dõi theo những con gián khổng lồ đang bò trên vết tường nứt. Tôi có một thèm muốn rất động vật là cắn vào da thịt chúng. Suốt ngày, tôi nằm ẹp một chỗ, mê man. Ý niệm về thời gian bắt đầu lờ mờ. Suy nghĩ của tôi chậm dần, cơ thể tôi khô héo. Tôi chỉ còn là một miếng củi. Kỷ niệm về Bắc Kinh và núi rừng hiện về lộn xộn, hình ảnh mờ ảo. Chỉ có ám ảnh về chuyện ăn chiếm hết cả tâm trí, làm tôi mê sảng và nhắc tôi nhớ mình là con người. Một buổi chiều, người ta báo có người đến thăm tôi, rồi tôi được dẫn ra phòng tiếp khách. Chỗ đó thật nhớp nhúa. Tiếng thì thầm lẫn với tiếng khóc nghẹn ngào. Mỗi tù nhân được ngồi một bàn, đối diện với gia đình mình. Kể từ khi bị bắt, họ cấm tôi liên lạc với thế giới bên ngoài. Có thể một người bạn cùng đi với tôi từ Bắc Kinh đã biên thư cho cha mẹ tôi, chắc hẳn họ đã được thả khỏi trường mùng 7 tháng Năm nên tìm ra tôi trong nhà tù này. Tôi lúng túng đưa mắt tìm một khuôn mặt quen thuộc, tôi nhận ra Liễu “Làm sao em tìm thấy anh? Làm thế nào mà em đi khỏi làng? Em làm gì ở đây?” Tôi hỏi Liễu dồn dập với giọng khàn đặc, đầy trách móc. Mặt tái xanh, Liễu không trả lời. Tôi nhìn xung quanh. Bốn góc phòng, những người lính gác có trang bị vũ khí đứng im phăng phắc như tượng, không ai chú ý đến chúng tôi. Bất chợt, tôi nắm lấy tay Liễu, ghì chặt lấy em bằng tất cả sức mạnh của mình. “Liễu..Giọng tôi nghẹn lại. Em mỉm cười. Chúng tôi cứ đứng như vậy, tay trong tay, không cất lên được một lời. Ngửi thấy mùi hương ấm áp của Liễu, tôi cảm thấy niềm hạnh phúc thật lớn lao. Lính gác bắt đầu đuổi những người đến thăm và áp giải tù nhân quay trở về. Hết mộng mơ, tôi kêu lên: “Liễu, anh đói!” Nước mắt Liễu tràn ra. “Chúng lục soát em lúc em đến. Chúng lấy hết mọi thứ em mang vào cho anh”. “Liễu nghe anh, dọc theo nhà tù có một chỗ cỏ mọc trên bờ tường. Chỗ đó gần như không bao giờ có bọn lính gác đi tuần. Anh có thể đến đó khi đi dạo. Anh xin em, lần đầu tiên cũng là lần cuối cùng, hãy vứt qua chỗ tường đó cho anh một cái bánh bao hoặc một nắm cơm hay mì sợi, gói vào giấy báo ấy”. Liễu vừa khóc vừa gật đầu. “Đừng bao giờ đến thăm anh nữa. về làng đi. Quên anh đi!” Một lính gác đi về phía chúng tôi Liễu vội vàng đứng lên. Em nhìn tôi như thể bằng ánh mắt ấy, em muốn lôi tôi ra khỏi cái hang thú tối tăm này rồi mang tôi đi với em ra ngoài ánh sáng. Em quay đi, không nói lời nào. Phần còn lại của ngày hôm đó chìm ngập trong bóng tối. Nhiều lần nản chí, ý nghĩ về cái chết lướt qua đầu tôi. Ngày hôm sau, ngay lúc thức dậy, lập tức tôi hối tiếc đã áp đặt Liễu thoả mãn đòi hỏi của tôi. Tôi tự trách mình ích kỷ. Quãng đời trước khi tôi ngồi tù hiện lên. Nó trôi qua chậm rãi, nặng nề. Tôi lại như thấy Liễu, quần áo của em, khuôn mặt em, tôi nghe thấy giọng nói dịu dàng của em rành rọt giữa tiếng rùng mình của rừng tre. Mỗi kỷ niệm về em đối với tôi là một nguồn vui sướng và nguồn buồn khổ. Khi chiều xuống, tôi thấy ở đoạn cuối sân có một gói nhỏ. Lợi dụng lúc lính gác sơ hở, tôi tách ra khỏi đám đông những người đang đi dạo và lén lút nhặt lấy. Có hai cái bánh bao. Buổi tối, tôi chia sẻ với ba thầy giáo cùng trại. Tôi cắt phần của tôi thành nhiều miếng nhỏ. Suốt đêm tôi nhai, kéo dài sự vui thích tới tận mẫu vụn cuối cùng. Ngày hôm sau, cái đói càng hành hạ tôi khốc liệt hơn nữa. Cùng với nỗi đau đớn đó là sự tuyệt vọng bị đẩy ra ngoài lề cuộc sống và bị toàn thế giới lãng quên. Nhưng, vào đầu buổi tối, tôi lại thấy ở chân tường có gói mới với hai chiếc bánh nhân thịt. Liễu vừa biến những ngày ở tù của tôi thành địa ngục. Em đang ở đâu? Trong trí tưởng tượng của tôi, tôi thấy em lang thang suốt ngày ở thành phố Mỹ Lâm còn đêm đến thì ngủ dưới gậm cầu. Em không có tiền. Em đi xin trong các quán ăn. Em ăn cắp. Làm thế nào em trốn khỏi làng? Phải chăng em đã băng qua hàng nghìn cây số bằng đôi chân trần? Liệu em có bị những đồng chí của tôi truy lùng khi họ phát hiện ra em biến mất hay không? Liệu có bọn lưu manh trong thành phố tấn công em không? Có bọn trẻ con hỗn láo nào sỉ nhục em không? Em có lạnh không? Em có đói không? Bao nhiêu lần trong ngày em phải rơi nước mắt? Chẳng bao giờ có đau đớn nào khủng khiếp như nỗi đau của tôi. Cuối buổi chiều, khi nhận thấy gói quà em gửi, tôi cảm động và cảm thấy ruột gan quặn thắt vì đau đớn. Buổi tối, niềm vui câm lặng trào lên từ sâu thẳm trong hồn tôi. Tôi chia sẻ gói thức ăn với những người bạn tù, họ hau háu nhìn miếng ăn, cái nhìn của những kẻ chết đói. Suốt đêm, tôi nhai đi nhai lại và liếm mép, tôi sung sướng, tự hào vì được một người con gái xinh đẹp chăm sóc, một người con gái gan dạ, đặc biệt nhất trên đời. Đôi khi tôi cứ để cho mơ mộng thoải mái lang thang. Tôi thấy chúng tôi cưới nhau. Em làm bánh bao cho tôi. Đôi tay của em trắng và thon trở lại, khéo léo nhào bột, nhào niềm say mê của chúng tôi trong cuộc sống hàng ngày. Tôi thấy chúng tôi có con, cùng nhau già đi. Một trăm năm! Cuộc sống thật ngắn ngủi đối với những người không thể xa nhau! Nhưng ngày hôm sau, tôi lo lắng và cầu trời cho em đừng đến nữa, cho em quên tôi đi. Thu qua đi, đông chớm đến bên ngoài khung cửa. Buối tối buông xuống như tấm màn màu xám, nỗi lo lắng của tôi tăng lên. Thế giới ngoài kia đối với tôi dường như đầy quỷ dữ: làm thế nào Liễu sống qua ngày? Thường xuyên tôi không nhận được gì trong mấy ngày liền. Tôi điên lên vì lo lắng, muốn vượt ngục ra ngoài để kiểm tra cho chắc chắn không có điều gì xảy ra với em. Rồi buổi tối, một gói gì đó bay qua bờ tường làm tôi yên tâm rằng em vẫn còn sống. Người ta còn cho phép em vào gặp tôi thêm một lần nữa. Quần áo em có mùi hôi, đôi mắt em dường như to quá trên khuôn mặt gầy gò. Cầm tay em trong tay, tôi cầu xin em trở về Bắc Kinh, về với cha mẹ em. Em gật đầu. “Đợi anh ở Bắc Kinh”, cuối cùng tôi nói, Sợ hãi vì tuyên bố này, tôi dừng lại giữa chừng. Em cười. Cuộc sống tự lập làm em rắn rỏi lên, có vẻ vững chãi hơn. Đôi mắt em ánh lên một thứ ánh sáng tinh ranh, vui tươi Trước khi ra đi, em đặt vào lòng bàn tay tôi đoá hoa cúc. Để tránh bọn lính kiểm soát, em đã giấu nó trong tóc. Tối hôm sau, tôi đi dạo giữa những người bạn tù. Đầu cúi gằm, tôi còn đang mơ về cảnh em đặt hoa cúc trong lòng tay tôi thì bỗng nghe thấy một giọng hô lên: “Ai? Đứng im!” Tôi vội vàng quay đầu lại phía bức tường. Một vật gì đó được ném qua tường vào bên trong, bung ra trong sân đúng lúc những tiếng súng vang lên. Tôi xô người lính gác muốn giữ tôi lại, tiến lại phía bức tường. Tất cả tù nhân đều đi theo tôi. Trong tiếng hỗn loạn, tôi còn nghe thấy phía bên kia bức tường có người nói: “Nhặt xác đi. Cô ta chết rồi”. Liễu là ai? Em vụt qua đời tôi như ngôi sao đổi ngôi. Em đi đâu? Tìm em ở đâu? Tôi buông người xuống đất. Thầy giáo chung phòng giam đưa cho tôi một gói giấy bị mở tung. “Một con gà”, thầy nói, nước mắt lưng tròng. ----------- Chú thích: Vương Duy (701 - 761), một trong những nghệ sĩ lớn nhất đời Đường, nổi tiếng về hội hoạ, thi ca và âm nhạc. Bài thơ tạ từ này đã được hát khắp đất nước Trung Hoa. Dịch nghĩa: Khúc Vị Thành Tại Vị Thành, mưa sáng làm ướt lớp bụi nhẹ