gười trẻ tuổi tên là Floyd Wells, hắn ta thấp và gần như không có cằm. Hắn đã toan thử nhiều nghề, làm lính, chăn nuôi, thợ cơ khí, ăn trộm, cái nghề cuối này đã kiếm về cho hắn một bản án từ ba đến năm năm ở nhà tù Bang Kansas. Tối thứ Ba, 17 tháng Mười một năm 1959, hắn đang nằm dài trong xà lim với một cặp tai nghe rađiô quàng qua đầu. Hắn nghe bản tin, nhưng tiếng nói của phát thanh viên và sự tẻ nhạt của các sự kiện trong ngày (“Thủ tướng Konrad Adenauer đến Luân Đôn hôm nay để hội đàm với Thủ tướng Harold Macmillan… Tổng thống Eisenhower dành bảy mươi phút nói chuyện với Tiến sĩ T. Keith Glennan về những vấn đề vũ trụ và ngân sách thăm dò vũ trụ”) đang ru hắn thiu thiu. Cơn chập chờn lập tức biến tan khi hắn nghe, “Các viên chức điều tra vụ thảm sát ghê gớm bốn người của gia đình Herbert W. Clutter đã kêu gọi dân chúng cung cấp bất cứ thông tin nào có thể giúp giải quyết được vụ án không mò ra phương hướng này. Người ta phát hiện ra Clutter, vợ ông và hai đứa con dưới mười chín tuổi của họ bị giết trong trang trại gần Garden City sớm Chủ nhật vừa qua. Tất cả đều bị trói, dán miệng và bị bắn xuyên qua đầu bằng một khẩu súng ngắn nòng 12 ly. Các viên chức điều tra thừa nhận họ không tìm ra được động cơ của vụ án, vụ được Logan Sanford, Giám đốc Cục Điều tra Bang Kansas, nói là tàn ác nhất trong lịch sử của Kansas. Clutter, một nhà trồng lúa mì nổi tiếng, trước đây từng được Eisenhower đề bạt vào Sở Tín dụng Nông thôn Liên bang...” Wells bàng hoàng. Như sau này cuối cùng hắn mô tả phản ứng của mình, hắn “khó lòng tin nổi”. Nhưng hắn có đủ lý do để tin như thế, vì hắn không những biết gia đình bị giết mà còn biết rất rõ ai đã giết họ nữa. Chuyện bắt đầu từ trước đây đã lâu - mười một năm rồi, vào mùa thu năm 1948, khi Wells mười chín tuổi. Hắn “kiểu như đi lang thang khắp nơi, gặp gì làm nấy”, như hắn kể lại. “Rồi thế nào đó, tôi lại thấy mình ở đấy, miền Tây Kansas. Gần biên giới Colorado. Tôi đang săn việc làm, hỏi tứ tung thì được biết có lẽ người ta đang cần thuê nhân công ở Trại Lũng Sông ngoài kia - ông ta, ông Clutter ấy, gọi cái chỗ đó của ông ta như vậy. Quả nhiên, ông ta nhận tôi. Tôi ở đó đâu chừng một năm - đại khái là hết cả mùa đông đó - và tôi ra đi thì chỉ là vì tôi cảm thấy bị bó chân bó cẳng, kiểu như vậy thôi. Muốn xê dịch. Không phải vì cãi cọ gì với ông Clutter. Ông ta đối xử với tôi tốt, giống như với mọi người làm việc cho ông ta; chẳng hạn, nếu như mình có cạn tiền chút ít trước kỳ lương thì ông ấy cũng luôn luôn chìa ra cho mình năm mười đồng. Lương ông ấy trả hậu, và nếu mình xứng đáng, ông ấy sẽ nhanh nhảu thưởng cho mình ngay. Sự thật là tôi thích ông Clutter hơn bất cứ ai tôi đã gặp. Cả gia đình ấy nữa. Bà Clutter và bốn đứa con. Khi tôi biết họ, hai đứa trẻ nhất, hai đứa bị giết ấy - Nancy và thằng con trai đeo kính - hãy còn bé tẹo, năm sáu tuổi gì đó. Hai đứa kia - là Beverly, một đứa gái nữa tôi không nhớ tên - thì đã học cấp III. Một gia đình tốt đẹp, thật sự tốt đẹp. Tôi không bao giờ quên họ. Khi tôi rời đó đi là vào khoảng năm 1949. Tôi lấy vợ, tôi ly dị, quân đội thuê tôi, việc khác xảy đến, thời gian trôi đi, ông có thể nói vậy, và năm 1959 - tháng Sáu, 1959, mười năm từ khi tôi gặp ông Clutter lần cuối - tôi bị đưa đến Lansing. Vì phá cửa vào nhà kho thiết bị dụng cụ. Thiết bị điện. Lúc đó tôi nghĩ trong đầu, mình muốn sở hữu mấy cái máy xén cỏ bằng điện. Không phải để bán. Tôi đang định mở một dịch vụ cho thuê máy xén cỏ. Bằng cách đó, ngẫm mà xem, tôi sẽ có công việc nho nhỏ thường xuyên của riêng tôi. Dĩ nhiên chẳng đi đến đâu hết - trừ việc xơi một hạn tù ba đến năm năm. Nếu không bị vậy thì tôi đã chẳng gặp Dick bao giờ, và có lẽ ông Clutter cũng sẽ chẳng phải ở trong mồ. Nhưng tôi lại ở đó. Ở nhà tù đó đấy. Rồi thành ra gặp Dick. Hắn là đứa đầu tiên tôi ở cùng xà lim. Chúng tôi chung xà lim có đến một tháng. Tháng Sáu và một phần tháng Bảy. Hắn đang sắp hết cái án ba đến năm năm - vào tháng Tám, là nhờ có lời hứa danh dự không tái phạm. Hắn nói một lô về những cái hắn định làm khi ra. Bảo là có khi hắn đi Nevada không chừng, đến một trong những thị trấn căn cứ tên lửa ở đấy, mua lấy một bộ lính cho thành ra một sĩ quan không quân. Như vậy hắn có thể xài được trót lọt những tấm séc giả mạo nom ngoài cứ y như thật vậy. Hắn đã nói với tôi cái ý như vậy. (Nhưng bản thân tôi không nghĩ đến cái đó nhiều. Hắn thông minh, tôi không phủ nhận, nhưng hắn trông không giống. Chả giống sĩ quan không quân tí nào cả.) Nhiều lần khác, hắn nói đến Perry, người bạn kia của hắn. Một thằng cha lai da đỏ mà hắn từng chung xà lim. Và những vụ lớn hắn và Perry có chể chơi khi hai đứa lại đi với nhau. Tôi chưa bao giờ gặp cha Perry ấy. Chưa bao giờ thấy mặt. Hắn ra đã ra khỏi Lansing, được thả vì hứa đanh dự. Nhưng Dick luôn nói, nếu có dịp vào cầu lớn thật sự thì hắn có thể trông cậy Perry Smith cùng làm với hắn. Tôi không nhớ chính xác ông Clutter được nhắc đến lần đầu tiên như thế nào. Chắc là trong khi chúng tôi bàn công việc với nhau, các loại việc khác nhau mà chúng tôi đã làm. Dick, hắn là thợ cơ khí xe hơi được đào tạo, phần lớn là hắn toàn làm việc đó. Chỉ có một lần hắn nhận lái xe cứu thương của bệnh viện. Hắn phét lác dữ về việc đó lắm. Về các hộ lý, về tất cả các trò hắn đã làm với các cô ấy ở đằng sau xe. Chẳng biết sao tôi lại bảo hắn tôi làm một năm ở một đồn điền lúa mì to lắm tại miền Tây Kansas. Cho ông Clutter. Hắn muốn biết ông Clutter có giàu không. Có, tôi nói. Có, ông ta giàu. Tôi nói, thực tế là có lần ông Clutter đã bảo tôi ông ấy từng tống khứ đi mười nghìn đô la trong có một tuần. Ý là đôi khi ông phải tốn tới mười nghìn đô la một tuần để cho công việc chạy. Sau đó, Dick không ngừng hỏi han về gia đình ấy. Họ có bao nhiêu người? Bây giờ mấy đứa con bao nhiêu tuổi? Đi đến nhà ấy chính xác thì như thế nào? Nhà cửa được bố trí ra sao? Ông Clutter có cái két sắt nào không? Tói không chối việc này - tôi bảo hắn là ông ấy có két. Vì hình như tôi nhớ có một cái đại loại như cái phòng con con, hay két sắt, hay một cái gì đó ở ngay đằng sau bàn giấy trong gian ông Clutter dùng làm văn phòng. Điều sau đó tôi biết là Dick nói đến chuyện giết ông Clutter. Nói hắn và Perry sẽ đi đến đấy và ăn trộm ở chỗ đấy, và chúng sẽ giết hết mọi nhân chứng - cả gia đình nhà Clutter và bất cứ ai có mặt quanh đó. Hắn tả đến chục lần với tôi hắn sẽ làm chuyện đó như thế nào, hắn và Perry sẽ trói họ lại và bắn họ chết như thế nào. Tôi bảo hắn, ‘Dick, cậu mà làm chuyện ấy thì sẽ chẳng bao giờ thoát đâu.’ Nhưng tôi không thể trung thực mà nói rằng tôi đã cố thuyết phục hắn thôi đi. Vì tôi chẳng hề tin lấy một phút là hắn sẽ làm thật. Tôi nghĩ hắn nói mồm thế thôi. Như hàng bao nhiêu thứ như vậy mà ông có thể nghe ở Lansing. Ta toàn nghe cái thứ như vậy thôi: thằng cha nào đấy sẽ làm gì khi nó ra tù - trấn lột, trộm cắp, vân vân. Chẳng là gì cả, phần lớn chỉ là huênh hoang thôi. Không ai lấy làm thật cả. Chính vì vậy mà khi nghe qua đài tôi thật khó lòng tin được. Dù thế nào nó vẫn đã xảy ra. Đúng hệt như Dick nói sẽ làm như thế.” Đó là chuyện của Floyd Wells, tuy rằng còn phải lâu nữa hắn mới nói ra. Hắn sợ, vì nếu những tên tù khác nghe thấy hắn hớt lẻo với người gác tù thì đời hắn, như hắn nói, “sẽ không đáng giá bằng một con sói đồng cỏ chết.” Một tuần trôi qua. Hắn mở rađiô, hắn theo dõi các bài tường thuật báo chí - và trong một bài hắn đọc thấy rằng, một tờ báo ở Kansas, tờ Tin tức Hutchinson, đang treo thưởng một nghìn đô cho bất cứ tin nào đưa tới việc bắt và xử án thủ phạm hoặc các thủ phạm vụ án mạng nhà Clutter. Một món lý thú đó; nó gần như đã gợi hứng cho Wells nói. Nhưng hắn vẫn quá sợ, và cái sợ của hắn không chỉ là vì những tù nhân khác. Biết đâu các nhà chức trách lại sẽ kết tội hắn đã dính líu đến vụ án. Muốn gì thì hắn cũng là người đã dẫn Dick đến cửa nhà Clutter; chắc chắn người ta sẽ tuyên bố là hắn đã biết trước ý đồ của Dick. Dù người ta nhìn việc này như thế nào thì tình cảnh của hắn cũng là quái lạ, các lý do của hắn đều là đáng ngờ. Cho nên hắn chẳng nói gì hết, và hơn mười ngày nữa trôi đi. Tháng Chạp thay thế tháng Mười một, và những người đang điều tra vụ án, theo như những bài tường thuật báo chí ngày càng ngắn gọn đi (đài phát thanh đã thôi không nhắc đến đề tài này nữa), thì vẫn còn ngơ ngác, rốt cuộc vẫn không có đầu mối gì, giống như vào buổi sáng phát hiện ra vụ án mà thôi. Nhưng hắn biết. Hiện giờ, bị dằn vặt bởi một nhu cầu “phải nói với một ai”, hắn đã tâm sự với một người tù khác. “Một người bạn đặc biệt. Một người theo đạo Cơ đốc. Loại người rất sùng đạo. Hắn hỏi tôi, ‘Được, cậu định làm gì nào, Floyd?’ Tôi nói, ‘À, tớ chẳng rõ phải làm gì hết - cậu nghĩ tớ nên thế nào?’ Đúng, hắn hết lòng muốn tôi trở thành người tử tế. Rằng hắn không nghĩ tôi lại có thể sống với một cái chuyện như thế - trong đầu. Và hắn bảo tôi có thể nói mà không sợ ai - trong này nghĩ rằng tôi là người nói. Bảo là hắn sẽ giúp cho. Thế là hôm sau hắn báo cáo với phó quản giáo - bảo rằng tôi muốn được ‘gọi ra’. Bảo người này là nếu ông ta gọi tôi lên văn phòng ông ta vì cớ này cớ nọ, thì có thể tôi sẽ bảo với ông ta kẻ giết nhà Clutter là ai. Quả nhiên, ông phó quản giáo cho gọi tôi. Tôi hoảng, nhưng tôi liền nhớ đến ông Clutter, ông không bao giờ xử tệ với tôi, lễ Nôen ông đã cho tôi một cái ví con trong đó có với năm chục đô la. Tôi nói với ông phó quản giáo. Rồi tôi nói cả với ông quản giáo. Và trong khi tôi còn ngồi ở đấy, ngồi chính ở ngay trong văn phòng quản giáo, ông ta nhấc điện thoại lên...” Người mà văn phòng quản giáo gọi điện đến là Logan Sanford. Sanford nghe, gác máy, ra mấy cái lệnh rồi tự mình gọi điện cho Alvin Dewey. Tối đó, khi Dewey rời văn phòng ở Tòa án tại Garden City, ông mang theo về nhà một chiếc phong bì. Khi Dewey về đến nhà, Marie đang ở trong bếp chuẩn bị bữa tối. Ông vừa ló mặt, bà đã kể một thôi một hồi các chuyện gớm ghê xảy ra trong nhà. Con mèo Pete đã đánh con chó Tây Ban Nha tai quạt lông xù sống ở bên kia đường, bây giờ thì hình như một mắt của con chó bị thương nặng. Và Paul, thằng con lên chín, trèo cây bị ngã. Nó còn sống được là nhờ có phép màu. Rồi thằng mười hai tuổi, trùng tên với Dewey, đã vào sân đốt rác cháy đùng đùng khiến hàng xóm hết hồn. Một ai đó - bà không rõ tên - đã gọi sở Cứu hỏa. Trong khi bà vợ tả lại những câu chuyện không vui đó, Dewey rót hai tách cà phê. Đang nói, thình lình Marie ngừng lại nhìn ông đăm đăm. Mặt ông đỏ bừng, bà có thể nói rằng ông đang phấn khích. Bà nói, “Alvin. Ôi cưng. Có tin tốt phải không?” Không đáp, ông đưa cho bà cái phong bì. Tay bà ướt; bà lau khô, ngồi vào bàn ăn, uống cà phê, mở phong bì lấy ra những tấm ảnh chụp một người trẻ tuổi tóc vàng và một người trẻ tuổi tóc đen da ngăm - những tấm ảnh cảnh sát chụp làm “căn cước”. Đi kèm các tấm ảnh là hai bộ hồ sơ viết theo kiểu nửa mã hóa. Hồ sơ của người tóc vàng viết: HICKOCK, RICHARD EUGENE (WM) 28. KBI 97 093; FBI 859 273A. Địa chỉ: Edgerton, Kansas. Ngày sinh 6-6-31. Nơi sinh: K.C., Kans. Chiều cao: 1m78. Cân nặng: 85 kg. Tóc: vàng. Mắt: lam. Tạng người: vạm vỡ. Đồng phạm: Ruddy. Nghề: thợ sơn xe. Tội phạm: lừa đảo & chiếm đoạt tài sản, séc giả. Thả theo lời hứa danh dự: 13-8-59. Do: K.C.K Nam. Hồ sơ thứ hai viết: SMITH, PERRY EDWARD (WM) 27-59. Nơi sinh: Nevada. Chiều cao: 1m63. Cân nặng: 70 kg. Tóc: nâu sẫm. Tội phạm: Đột nhập bất hợp pháp. Bị bắt: (để trống). Bởi: (để trống). Quyết định: Gửi đến Nhà tù Bang Kansas từ Phillips Co., 13-3-56, 5-10 năm. Tiếp nhận: 14-3-56. Tha theo lời hứa danh dự: 6-7-1959. Marie xem các ảnh chụp thẳng và nghiêng của Smith: một bộ mặt ngạo nghễ, dữ dằn, nhưng không hoàn toàn, hẳn vì nó còn có một nét tế nhị đặc biệt; môi và mũi có vẻ thanh, và bà nghĩ đôi mắt, với cái vẻ mơ màng, ươn ướt của chúng, nom khá là đẹp - đúng hơn là đẹp theo lối diễn viên, truyền cảm. Truyền cảm, và một cái gì hơn thế: “hèn hạ”. Tuy không hèn hạ, không “tội ác” một cách gớm ghiếc như mắt của Hickock, Richard Eugene. Bị đôi mắt của Hickock nhìn trừng trừng, Marie chợt nhớ lại một sự cố thời bé - về một con linh miêu bà đã có lần trông thấy bị mắc bẫy, và tuy bà muốn thả nó ra nhưng đôi mắt mèo, rực lên vì đau và bởi hằn thù, đã hút mất hết tình thương của bà đi mà trút đầy kinh hoàng vào người bà như thế nào. “Họ là ai đấy?” Marie hỏi. Dewey kể lại cho bà câu chuyện Floyd Wells, và cuối chuyện ông nói, “Ngộ thật. Ba tuần qua, đây là cái góc độ chúng ta tập trung vào. Dò tìm bất cứ ai đã làm việc ở nhà Clutter. Bây giờ hóa ra thành như thế này thì đúng mình gặp may thật. Nhưng ít ngày nữa chúng ta sẽ sờ được đến cái tay Wells này. Thì ra hắn ở trong tù. Lúc đó chúng ta sẽ nắm được sự thật. Trời đất, đúng thế đấy.” “Có thể không phải là sự thật,” Marie nói. Dewey và mười tám người phụ tá đã theo đuổi hàng trăm đầu mối dẫn tới những chỗ trời ơi đất hỡi, bà muốn nhắc ông cẩn thận đừng để bị thêm một lần thất vọng nữa, vì bà lo cho sức khỏe của ông. Tình hình đầu óc ông không ổn; ông xanh xao, ông hút những sáu chục điếu thuốc một ngày. “Đúng. Có thể không,” Dewey nói. “Nhưng anh có một linh cảm.” Giọng ông làm bà chú ý; bà lại nhìn vào những bộ mặt ở trên bàn ăn. “Nghĩ đến hắn xem,” bà nói, đặt một ngón tay vào tấm ảnh chụp thẳng của người trẻ tuổi tóc vàng. Nghĩ đến đôi mắt này xem. Đang xói vào anh này.” Đoạn bà đẩy các tấm ảnh vào lại trong phong bì. “Giá anh đừng để em xem có phải tốt không.” Cũng tối hôm đó, muộn hơn, một người đàn bà khác, trong một căn bếp khác, đặt chiếc bít tất bà đang mang sang bên, gỡ cặp kính gọng dẻo ra, đưa nó lên ngang tầm người khách, nói, “Ông Nye, tôi mong ông tìm ra nó. Vì chính nó. Chúng tôi có hai đứa con trai, nó là thằng cả. Chúng tôi yêu nó. Nhưng... Ôi, tôi đã hiểu ra. Tôi đã hiểu ra là nó sẽ lại cuốn gói. Bỏ đi. Chẳng một lời với bố và em. Trừ phi nó lại mắc míu một lần nữa. Cái gì khiến nó làm như vậy? Tại sao chứ?” Bà liếc qua gian phòng nhỏ bé sưởi bằng lò than, nhìn vào một người gầy hốc hác nằm co ro trên chiếc ghế bập bềnh - Walter Hickock, chồng bà và bố của Richard Eugene. Ông có đôi mắt lờ đờ đầy vẻ thất bại và hai bàn tay thô ráp; khi ông nói, giọng ông nghe như có vẻ ít được dùng đến. “Chẳng có gì không ổn xảy ra với con trai tôi chứ, ông Nye,” ông Hickock nói. “Một vận động viên xuất sắc - luôn ở trong đội bóng của trường. Bóng rổ! Bòng chày! Bóng bầu dục! Dick luôn là cầu thủ ngôi sao. Học cũng khá giỏi nữa, luôn đạt điểm A ở nhiều môn. Sử. Vẽ kỹ thuật. Sau khi tốt nghiệp trung học - tháng Sáu 1949 - nó muốn vào cao đẳng. Học làm kỹ sư. Nhưng chúng tôi không đủ khả năng. Nói trắng ra là không có tiền. Chẳng bao giờ có nổi đồng tiền. Trại chúng tôi đây, chỉ có bốn mươi tư mẫu Anh - chúng tôi chật vật mới kiếm được cái sinh nhai. Tôi ngờ là Dick bực, không được đi học cao đẳng mà. Việc đầu tiên nó làm là tại đường sắt Santa Fe, ở Kansas City. Một tuần bảy mươi lăm đô. Nó cho thế là đã đủ để lấy vợ; vậy là nó cưới Carol. Con này chưa đủ mười sáu; bản thân nó thì chưa đủ mười chín. Tôi nghĩ chẳng bao giờ lại có được sự tốt lành trong việc cưới vợ cưới chồng như vậy. Không, cho cả hai.” Bà Hickock, một người đàn bà mập mạp, với khuôn mặt tròn, dịu dàng, không bị cảnh quần quật tối ngày làm tiều tụy đi, trách ông. “Ba thằng bé quý hóa, cháu nội ta đấy thôi - không từ cái vụ cưới nhau ấy mà có thì từ cái gì. Mà Carol là một đứa con gái đáng yêu. Nó chẳng có gì phải trách cả.” Ông Hickock nói tiếp, “Nó và con Carol thuê một căn nhà kha khá rộng, mua một cái xe khá oách - chúng suốt đời nợ. Ngay cả khi Dick kiếm được nhiều tiền hơn nhờ lái xe cứu thương. Sau đó Công ty Markl Buick, một công ty lớn ở Kansas City thuê nó. Làm thợ cơ khí và thợ sơn xe. Nhưng nó và Carol sống cao quá, cứ sắm những thứ chúng đáng lẽ chẳng kiếm đâu ra tiền sắm, thế nên Dick đâm ra làm séc giả. Tôi vẫn nghĩ lý do để nó bắt đầu làm mấy trò quái ấy là có liên quan đến vụ đâm xe. Chấn động cả đầu óc nó. Sau đó, nó không còn là thằng con trai ngày trước nữa. Cờ bạc, viết séc giả. Trước đó tôi chưa thấy nó làm những chuyện như thế bao giờ. Và cùng lúc nó bập phải đứa con gái kia. Cái đứa làm cho nó ly dị Carol để lấy làm vợ thứ hai ấy.” Bà Hickock nói, “Dick không thể không làm thế. Ông cứ nhớ lại xem con Margaret Edna làm nó mê mệt thế nào.” “Một người đàn bà thích anh thì tức là anh phải mắc câu sao?” ông Hickock nói. “Chậc, ông Nye ạ, tôi hy vọng ông hiểu nó cũng nhiều như chúng tôi. Tại sao thằng con chúng tôi lại phải vào tù. Bị giam mười bảy tháng, mà chung quy cũng chỉ vì nó mượn một khẩu súng săn. Của nhà người hàng xóm ở đây. Nó không có ý ăn cắp, cái điều mà không ai nói thì tôi chẳng coi ra gì cả. Và chuyện đó tàn hại nó. Khi ra khỏi nhà tù Lansing, nó là một người xa lạ hoàn toàn với tôi. Mình không thể trò chuyện với nó. Tất cả thế giới này đều chống lại Dick Hickock - nó hình dung vậy đó, Ngay cả đến cọn vợ thứ hai cũng bỏ nó - làm đơn ly dị lúc nó còn trong tù. Sau này, nó có vẻ đã ổn định. Làm việc cho tiệm sửa xe Bob Sands, ở mạn trên Olathe. Sống ở đây với chúng tôi, đi ngủ sớm, không làm gì vi phạm lời hứa. Ông Nye à, tôi nói ông nghe, tôi chẳng sống được bao lâu nữa đâu, với cái bệnh ung thư này, thằng Dick nó biết đấy - ít nhất, nó cũng biết là tôi bệnh - chưa đến một tháng trước đây, ngay trước khi nó bỏ đi, nó bảo tôi, ‘Bố, bố là một ông già rất tốt với con. Con sẽ chẳng làm cái gì cho bố khổ nữa đâu.’ Nó có ý như vậy thật. Thằng này có nhiều cái tốt ở trong người nó. Nếu như ông từng thấy nó ở trên sân bóng bầu dục, nếu như ông đã thấy nó đùa với đám con nó thì ông sẽ chẳng nghi tôi đâu. Trời, tôi cầu Chúa có thể bảo cho tôi hay. Vì tôi không biết chuyện gì đã xảy ra.” Bà vợ ông nói, “Tôi biết,” bà bắt đầu mạng lại bít tất và buộc phải ngừng tay vì nước mắt tràn ra. “Cái thằng bạn của nó kìa. Chuyện xảy ra là thế đấy.” Người khách, đặc vụ K.B.I. Harold Nye, bận ngoáy vội vào cuốn sổ tốc ký - một cuốn sổ tay đầy những kết quả của một ngày dài bỏ ra thăm dò những lời buộc tội của Floyd Wells. Đến nay, những sự việc xác định được đã chứng minh câu chuyện Floyd Wells kể là thuyết phục nhất. Ngày 20 tháng Mười một, nghi phạm Richard Eugene Hickock đã làm một chuyến mua bán bốc trời ở Kansas City trong đó hắn đã cho lọt được không dưới “bảy tấm séc giả”. Nye đã thẩm vấn tất cả các nạn nhân từng trình báo - nhân viên bán camera, rađiô, ti vi. Ông chủ tiệm vàng bạc, người bán hàng ở cửa hàng may mặc - và ở mỗi chỗ, khi ông đưa cho nhân chứng xem ảnh của Hickock và Perry Edward Smith, ông luôn luôn nhận dạng được Hickock là tác giả của những tấm séc giả, Perry là tên tòng phạm “im lìm” của hắn. (Một đại lý bán hàng chán nản nói, “Hắn [Hickock] hành động. Một cha nói rất ngọt, rất thuyết phục. Thằng kia - tôi nghĩ nó có thể là người nước ngoài, người Mexico - không bao giờ mở miệng.”) Sau đó, Nye lái xe đến làng ngoại ô Olathe, ở đây ông phỏng vấn người chủ cuối cùng của Hickock, ông chủ tiệm sửa xe Bod Sands. “Vâng, anh ta có dạo làm ở đây,” ông Sands nói. “Từ tháng Tám cho tới - à phải, tôi không còn thấy anh ta nữa sau ngày 19 tháng Mười một, hoặc có thể là ngày 20. Anh ta bỏ đi chẳng bảo tôi gì sất. Cứ thế chuồn thôi - tôi không biết đi đâu, bố anh ta cũng chẳng biết. Ngạc nhiên ư? À, có chứ. Có, tôi ngạc nhiên. Chúng tôi làm việc thân mật lắm. Dick là loại người có cái kiểu riêng của mình, ông biết đấy. Anh ta có thể rất đáng mến. Một dạo anh ta quen đến chơi nhà tôi. Sự thật là trước khi anh ta bỏ đi, chúng tôi có mời ít người tới, một liên hoan nho nhỏ, và Dick đã mang bạn tới, người này là một anh chàng ở Nevada đang đến thăm anh ta, tên là Perry Smith. Anh ta chơi ghi ta hay lắm. Anh ta chơi ghi ta và hát mấy bài, rồi anh ta và Dick giúp vui cho mọi người bằng một màn cử tạ. Perry Smith, người bé nhỏ, không cao hơn mét rưỡi là mấy, thế nhưng có thể nhấc nổi cả một con ngựa. Không, họ nom không có vẻ căng thẳng gì, cả hai. Tôi dám nói họ rất vui vẻ chơi đùa là đằng khác ấy chứ. Ngày giờ chính xác à? Chắc chắn tôi nhớ chứ. Ngày 13. Thứ Sáu, 13 tháng Mười một.” Từ đấy Nye cho xe lên phía Bắc, dọc những con đường nông thôn thô sơ. Khi đến gần trại của Hickock, ông đỗ lại ở nhiều trại hàng xóm, bề ngoài là hỏi đường, thực ra là thăm dò về kẻ tình nghi. Vợ một chủ trại nói, “Dick Hickock! Đừng nói với tôi về Dick Hickock! Nếu mà tôi gặp phải con quỷ ấy! Ăn cắp? Ăn cắp cả đến mắt người chết nữa đấy! Nhưng mẹ hắn ta, bà Eunice, lại là người tốt. Tốt bụng vô cùng ấy. Bố hắn ta cũng vậy. Cả hai người đều thật thà, lương thiện. Dick sẽ còn vào tù nhiều đến mức ông cũng chẳng tính ra nổi đâu, có điều quanh đây người ta không muốn tố cáo. Vì kính trọng bố mẹ đẻ ra hắn.” Bóng chiều buông xuống khi Nye gõ cửa căn nhà trại bốn buồng đã bị thời gian làm cho xám xịt của Walter Hickock. Tựa như nó đã từng chờ đợi một cuộc viếng thăm thế này. Ông Hickock mời nhà thám tử vào trong bếp và bà Hickock mời ông cà phê. Có lẽ nếu họ biết được mục đích thật sự của người khách đến đây thì sự chiêu đãi kia sẽ bớt lịch sự đi và thêm dè dặt. Nhưng họ không biết, và trong hàng mấy giờ ba người ngồi trò chuyện, cái tên Clutter lẫn chữ án mạng đều không được nhắc tới. Ông bố bà mẹ chấp nhận cái điều Nye đưa ra là ông lùng tìm con trai họ vì hắn đã vi phạm lời hứa không tái phạm và có gian lận về tài chính. “Một buổi tối Dick mang hắn [Perry] về nhà và bảo chúng tôi hắn là một người bạn vừa mới xuống chuyến xe buýt từ Las Vegas đến, nó muốn biết hắn có thể ngủ ở nhà, nán lại ít lâu được không,” bà Hickock nói. “Không, thưa ông, tôi không muốn cho hắn vào nhà. Nhìn qua tôi thấy ngay hắn là cái thứ gì. Với cái mùi nước hoa của hắn. Rồi cái loại dầu bôi tóc. Rõ như ban ngày là Dick đã gặp hắn ở đâu. Theo điều kiện tha do lời hứa không tái phạm, nó đã được bảo ban là không được kết bè với bất cứ ai nó gặp ở trên đó [ở Lansing]. Tôi có nhắc nhở Dick, nhưng nó không nghe. Nó tìm một cái buồng cho bạn nó ở khách sạn Olathe, ở Olathe, rồi sau cứ rảnh lại đến với hắn. Có lần hai đứa đi du lịch cuối tuần. Ông Nye à, chắc chắn như ông hiện đang ngồi đây đây, Perry Smith chính là kẻ đã xúi giục nó viết séc giả đấy.” Nye gập quyển sổ tay và cất bút vào túi, kể cả hai bàn tay bởi chúng đang run lên vì kích động. “Về Du lịch cuối tuần à. Họ đã đi đâu?” “Fort Scott,” ông Hickock nói, nêu tên một thị trấn ở Kansas. “Theo như tôi hiểu thì Perry Smith có một người chị sống ở Fort Scott. Nghe đâu bà ấy giữ một món tiền của hắn ta. Đâu như một nghìn rưởi đô la. Đó là lý do chính mà hắn tới Kansas, tới để lấy lại tiền gửi người chị. Thế nên Dick đánh xe chở hắn xuống dưới đó. Chỉ đi một đêm thôi, về nhà trước trưa Chủ nhật. Kịp bữa tối Chủ nhật.” “Tôi rõ rồi,” Nye nói. “Một chuyến đi suốt đêm. Có nghĩa là họ rời đây đi vào lúc nào đó ngày thứ Bảy. Có phải thứ Bảy, ngày 14 tháng Mười một không?” Ông già nói phải. “Và quay về ngày Chủ nhật, 15 tháng Mười một?” “Trưa Chủ nhật.” Nye làm tính nhẩm và phấn khởi vì cái kết luận vừa có được trong quãng thời gian hai mươi, hoăc hai mươi tư giờ, hai kẻ tình nghi đã làm một chuyến suốt ngày đêm hơn tám trăm dặm đường và, trong quá trình đó, giết bốn người. “Bây giờ thì, ông Hickock này,” Nye nói. “Hôm Chủ nhật, khi con trai ông về, anh ta có đi một mình không? Hay Perry Smith cùng về?” “Không, có một mình. Nó nói đã để Perry ở khách sạn Olathe.” Bình thường vốn có giọng mũi sắc khiến kẻ khác phải e dè, Nye cố nói cho ra một âm sắc dịu chùng, một giọng hờ hững dễ làm người ta tin cậy. “Ông bà có nhớ - anh ta có cái gì khác thường để ông bà ngạc nhiên không?” “Gì cơ?” “Con ông ba ấy.” “Khi nào chứ?” “Khi ở Fort Scort quay về.” Ông Hickock nghĩ ngợi. Rồi nói, “Xem vẻ như vẫn vậy. Ngay sau khi nó vào nhà thì chúng tôi ngồi xuống ăn cơm. Nó đói dữ. Tôi chưa đọc kinh tạ Chúa xong nó đã bắt đầu lấy thức ăn vào đầy đĩa rồi. Tôi để ý chuyện đó, bèn nói, ‘Dick, mày nuốt nhanh thế này thì cùi chỏ mày hoạt động không kịp với mày đâu. Định ăn hết phần của cả nhà đấy hả?’ Dĩ nhiên lúc nào nó cũng là đứa ăn khỏe. Rau dầm giấm. Nó có thể ăn cả một thẫu rau dầm giấm.” “Sau bữa tối anh ấy làm gì?” “Ngủ vùi,” ông Hickock nói, và có vẻ như hơi sửng sốt về câu trả lời của chính mình. “Gục ngủ ngay. Và tôi nghĩ ông có thể coi điều đó là khác thường được đấy. Chúng tôi cùng quây quần ngồi xem bóng rổ. Trên ti vi. Tôi, Dick và thằng con trai kia của chúng tôi, David. Chả mấy chốc Dick đã ngáy như cái cưa điện, tôi liền bảo thằng em nó, ‘Lạy Chúa, tao không bao giờ nghĩ tao còn sống đến ngày thấy Dick nó thà ngủ chứ không xem bóng rổ.’ Thế mà ngủ đấy. Ngủ một lèo đến hết trận đấu. Chỉ thức dậy vừa đủ để ăn ít món nguội bữa đêm rồi ngay sau đó lại lên giường luôn.” Bà Hickock xâu chỉ vào kim mạng; chồng bà dập dinh cái ghế bập bênh và mút mút một cái tẩu không châm. Con mắt được huấn luyện của người thám tử đi lướt quanh gian phòng xoàng xĩnh nhưng được quét dọn lau chùi. Trong góc nhà, một khẩu súng dựng vào tường; ông đã để ý thấy nó từ trước. Đứng dậy, với tay lấy khẩu súng, ông nói, “Ông có hay bắn không, ông Hickock?” “Súng của nó đấy. Của Dick. Nó và David một dạo hay đi bắn. Chủ yếu là săn thỏ.” Đó là khẩu súng nòng 12 ly nhãn Savage (Man dại), Model 300; cảnh đàn trĩ bay được chạm trổ tinh vi trang hoàng trên cái báng. “Dick có cái này bao lâu rồi?” Câu hỏi làm bà Hickock nổi đóa. “Khẩu súng này giá trên một trăm đô la. Dick mua trả góp đấy, giờ cửa hàng không chịu lấy lại, tuy mua chưa tới một tháng và mới chỉ dùng có một lần - đầu tháng Mười một, lúc nó với David đi Grinnell bắn trĩ. Nó lấy tên chúng tôi đứng ra mua - bố nó để chúng nó làm như vậy - cho nên chúng tôi phải chịu trách nhiệm trả, mà ông nghĩ xem, Walter ốm đau thế này, mọi cái chúng tôi đều thiếu thốn thế này, mọi cái chúng tôi phải làm mà chẳng...” Bà nín thở, tựa như gắng ghìm một cơn nấc. “Ông không dùng cà phê nữa ư, ông Nye? Không phiền gì đâu mà.” Nye dựng lại khẩu súng vào tường, rời tay ra khỏi nó, mặc dù cảm thấy chắc chắn nó là thứ vũ khí đã giết cả nhà Clutter. “Cảm ơn bà, đã muộn rồi, tôi còn phải đi Topeka,” ông nói, đoạn xem quyển sổ tay, “Giờ tôi sẽ phải đi suốt tới đó, xem liệu có đi thẳng một lèo được không đây. Perry Smith đến Kansas thứ Năm ngày 12 tháng Mười một. Con ông bà nói người ấy đến để lấy một khoản tiền gửi người chị cư ngụ tại Fort Scott. Thứ Bảy ấy, hai người lái xe đi Fort Scort, họ ở lại cả đêm ở đó - tôi đồ là họ ở nhà người chị?” Ông Hickock nói, “Không. Chúng không tìm ra bà ta. Hình như đã chuyển đi rồi.” Nye mỉm cười. “Nhưng họ cũng ở xa đây suốt đêm hôm ấy. Và trong cả tuần sau đó - tức là từ ngày 15 tới ngày 21! Dick tiếp tục gặp người bạn Perry Smith của mình, hay nếu không thì, như ông biết đấy, vẫn giữ lề thói cũ, sống ở nhà và đi làm ngày ngày. Ngày 21 thì anh ấy biến mất, cả Perry Smith. Và từ đó ông bà không nghe thấy gì về anh ấy nữa? Anh ấy không viết gì cho ông bà ư?” “Nó sợ viết,” bà Hickock nói. “Xấu hổ và sợ.” “Xấu hổ?” “Về cái việc nó làm ấy. Về việc nó lại làm khổ chúng tôi. Còn sợ thì là vì nghĩ chúng tôi sẽ không tha thứ. Như chúng tôi vẫn luôn luôn tha thứ. Và sẽ còn tha thứ. Ông có con không, ông Nye?” Nye gật. “Vậy ông biết chuyện đó nó như thế nào rồi đấy.” “Thêm một câu nữa thôi. Ông bà liệu may ra có biết con trai ông bà đi đâu không?” “Ông mở một tấm bản đồ ra,” ông Hickock nói, “trỏ ngón tay vào, có thể ở chỗ đó đấy.” Chiều một lúc lâu rồi, người lái xe, một người bán hàng rong cỡ trung tuần, tên là Bell, đã mệt. Ông muốn dừng lại ngủ một chặp. Nhưng chỉ còn cách nơi định đến - Omaha, Nebraska, trụ sở của công ty đóng gói thịt lớn mà ông làm việc - có trăm dặm nữa thôi. Công ty này cấm người bán hàng của công ty cho người lạ đi nhờ xe, nhưng ông Bell thường không tuân theo, đặc biệt là khi ông chán hoặc buồn ngủ, cho nên khi trông thấy hai người trẻ tuổi đứng bên đường, ông liền hãm ngay xe lại. Họ có vẻ như “những chàng trai O.K”. Người cao hơn, kiểu lỏng khỏng với bộ tóc húi cua màu vàng bẩn và cử chỉ lễ độ, nhoẻn một nụ cười kết thân; người cùng đi, loại “còi”, cầm một cái kèn harmonica trong tay phải, tay trái xách một va li rơm căng phồng, nom cũng “khá tử tế”, nhan nhát nhưng dễ mến. Muốn gì thì ông Bell cũng hoàn toàn không biết ý đồ của hai vị khách nhờ xe, là siết họng ông bằng thắt lưng rồi lấy xe lấy tiền, lấy mạng ông xong sẽ giấu kín ông trong một nấm mồ giữa đồng cỏ, ông đang mừng là có bạn đường, có người để trò chuyện, giữ ông tỉnh ngủ cho tới Omaha. Ông tự giới thiệu rồi hỏi tên hai người. Anh thanh niên vồn vã cùng ngồi hàng ghế đầu với ông nói mình là Dick. “Và đây là Perry,” hắn nói, liếc về phía Perry ngồi ở ngay sau. “Tôi có thể đưa hai cậu đến tận Omaha.” Dick nói, “Thưa ông. Xin cảm ơn. Omaha chính là nơi bọn tôi đang định đến. Hy vọng tìm ra được công việc gì.” Họ đang tìm công việc gì nhỉ? Ông Bell nghĩ mình có thể giúp đỡ được. Dick nói, “Tôi là thợ sơn xe hạng nhất. Cả thợ cơ khí. Tôi quen làm ra tiền thật sự. Bồ tôi đây và tôi, chúng tôi định đi xuống vùng Mexico Cổ. Ý chúng tôi là đến sống ở đó. Nhưng khốn kiếp, họ chẳng trả lương gì hết. Người da trắng không có gì để mà sống nổi.” A, Mexico! Ông Bell giải thích rằng mình đã qua tuần trăng mật ở Cuernavaca. “Chúng tôi luôn muốn quay lại đó. Nhưng khó lòng đi đâu được khi mà mình có những năm đứa trẻ.” Song như sau này kể lại, Perry đã nghĩ, năm đứa con - à, hỏng quá. Rồi nghe Dick ba hoa chích chòe khoe khoang, bắt đầu tả ra “những cuộc chinh phục trái tim” của hắn ở Mexico, Perry nghĩ sao nó “quái đản” thế, “mắc chứng duy ngã độc tôn” vậy. Tưởng tượng mà xem, nó cứ ra sức trộ cái kẻ mình sắp giết, một con người không được sống thêm mười phút nữa kể từ giờ - nếu như cái kế hoạch hắn và Dick dựng lên diễn ra êm thắm. Mà sao lại không êm thắm được? Sự bố trí thật là lý tưởng - đúng như điều chúng tìm kiếm suốt ba ngày phải bỏ ra để đi từ California tới Nevada và qua Nevada rồi Wyoming mà vào Nebraska bằng cách ké nhờ xe dọc đường. Nhưng cho tới lúc này, một nạn nhân thích hợp đã lọt khỏi tay chúng. Ông Bell là người đầu tiên coi bộ giàu có, lái xe một mình, nhận cho chúng đi nhờ xe. Các chủ xe khác đều hoặc tài xế xe tải hoặc lính tráng - và có lần, hai thằng da đen đấu quyền Anh lấy giải lái một chiếc Cadillac màu tím nhạt. Nhưng ông Bell thì hoàn hảo đây. Perry sờ vào trong túi của chiếc áo gió bằng da hắn đang mặc. Cái túi ụ lên bởi bình thuốc aspirin Bayer và một hòn đá nhọn hoắt, to bằng quả đấm bọc trong chiếc khăn tay sợi bông màu vàng của cao bồi. Hắn cởi thắt lưng, một chiếc thắt lưng Navajo, khóa bạc và có khảm các hạt ngọc lam; hắn lấy thắt lưng ra, uốn uốn thử, đặt lên ngang đầu gối. Hắn chờ. Hắn nhìn đồng cỏ Nebraska lướt qua, đùa với chiếc kèn harmonica - dạo lên một điệu rồi chơi, chờ Dick nói ra câu báo hiệu hành động đã hẹn trước với nhau: “Kìa, Perry, đưa cho mình que diêm.” Lúc đó, Dick được giả định sẽ nắm lấy tay lái, còn Perry vung chiếc mùi soa bọc hòn đá lên nện kịch vào đầu người bán hàng - “cho nó vỡ toác ra”. Sau đó, dọc một lề đường vắng lặng nào đó, chiếc thắt lưng có khảm hạt ngọc lam kia sẽ được dùng đến. Nhưng hiện giờ Dick và con người đã bị khép án vẫn đang trao đổi những câu chuyện tục tĩu với nhau. Tiếng họ cười làm Perry cáu; hắn đặc biệt không ưa tiếng cười ha há của ông Bell - những tiếng sủa nồng nhiệt nghe rất giống với tiếng cười của Tex John Smith, bố Perry. Nhớ đến tiếng cuời của bố, hắn càng căng cái đầu; đầu hắn nhức, gối hắn đau. Hắn nhai ba viên aspirin rồi nuốt chửng. Giê-su ơi! Có khi hắn nôn ra hay ngất xỉu tới nơi; hắn cảm thấy nếu như Dick cứ hoãn hoài buổi “liên hoan” thì hắn sẽ nôn là cái chắc. Ánh trăng mờ đục, đường thẳng băng, chẳng có một nóc nhà lẫn bóng người nào trước mắt - chẳng gì hết ngoài mặt đất bị mùa đông lột trơ lột trụi và sẫm màu như sắt miếng. Đến lúc rồi đây, ngay bây giờ. Hắn nhìn chằm chằm vào Dick, tựa hồ truyền đi cái ý nghĩ này, và một vài dấu hiệu nho nhỏ - một mí mắt động đậy, mấy giọt mồ hôi ở ria mép - đang bảo hắn là Dick cũng đã đi tới kết luận tương tự rồi. Nhưng khi Dick lên tiếng nữa thì gã chỉ lại tương ra một câu đùa mà thôi. “Có câu đố thế này. Giữa một chuyến vào buồng tắm với một chuyến ra nghĩa địa thì sự giống nhau là ở đâu?” Hắn cười. “Chịu thua chưa?” “Chịu.” “Khi ông đã phải đi là cứ phải đi thôi!” Ông Bell sủa. “Này, Perry, đưa cho mình que diêm.” Nhưng đúng lúc Perry giơ tay lên, và hòn đá đang trên đà sắp giáng xuống thì một cái dị thường xảy ra - cái sau này Perry gọi là “một kỳ tích con mẹ nó”. Kỳ tích đó là sự xuất hiện thình lình của người đi nhờ xe thứ ba, một người lính da đen mà ông bán hàng từ thiện đã đỗ lại cho lên. “Kìa, thật là duyên làm sao,” ông nói trong khi người cứu mạng ông chạy tới chiếc xe. “Đã đi là cứ phải đi thôi!” Ngày 16 tháng Mười hai năm 1959, Las Vegas, Nevada. Năm tháng và thời tiết đã bỏ đi mất chữ đầu tiên và chữ cuối cùng - chữ R và chữ S - do đó tạo ra một từ mới có phần nào mang điềm gở: OOM. Chữ này, lờ mờ hiện lên trên cái bảng hiệu bị cong vênh vì nắng, xem chừng phù hợp với cái nơi mà nó quảng cáo, như Harold Nye viết trong báo cáo chính thức của K.B.I, một nơi “điêu tàn xập xệ, thứ khách sạn hay nhà trọ tồi nhất trong các thứ tồi”. Biên bản viết tiếp: “Cho tới vài năm trước đây (theo như thông tin cảnh sát Las Vegas cung cấp), nó là một trong mấy ổ điếm lớn nhất ở miền Tây. Rồi hỏa hoạn đã thiêu hủy ngôi nhà chính, phần còn lại được đem làm thành một cái nhà trọ rẻ tiền”. “Tiền sảnh” không bày biện thứ gì trừ một cây xương rồng cao mét tám và một quầy tiếp tân tạm bợ; nó cũng không có người ở. Nhà thám tử vỗ tay. Cuối cùng, một tiếng người, đàn bà, song không nhiều nữ tính lắm, hét to, “Tôi đến đây,” nhưng phải đến năm phút sau mới hiện ra. Bà ta mặc một cái áo lao động trong nhà ố bẩn, đôi xăng đan da cao gót băng hàng kim nhũ. Những cái lô túm chặt lấy mái tóc thưa màu vàng nhạt. Mặt bà ta rộng, nạc thịt, đánh phấn, bôi đỏ. Tay cầm một lon bia Miller Hight Life; người sặc mùi bia và thuốc lá cùng sơn móng tay vừa mới bôi xong. Bà ta bảy mươi tư tuổi, nhưng theo ý Nye thì “nom trẻ hơn - có lẽ trẻ hơn mười phút”. Bà nhìn chằm chằm Nye, bộ áo quần màu nâu lịch sự, chiếc mũ nâu bẻ gập vành của ông. Khi ông đưa chiếc huy hiệu ra, bà thích thú; đôi môi bà hé, và Nye thấy lấp lóa hai hàng răng giả. “Ái chà, không ngờ đấy,” bà nói, “O.K. nào ta hãy nghe xem nào.” Ông đưa cho bà một tấm ảnh của Richard Hickock. “Biết hắn không?” Một tiếng làu bàu phủ định. “Hay hắn?” Bà nói, “Ái chà. Anh ta có ở đây ít ngày. Nhưng bây giờ thì thôi rồi. Trả phòng từ tháng trước rồi. Ông có muốn coi sổ đăng ký không?” Nye tì lên bàn làm việc nhìn những móng tay dài có sơn của bà ta dò tìm một trang viết tháu bằng bút chì. Las Vegas là nơi đầu tiên trong ba nơi mà cấp trên của ông muốn ông đến. Cả ba đều được chọn ra vì chúng liên quan tới chuyện Perry Smith. Hai nơi kia là Reno, nơi được cho là bố Perry sống, và San Francisco, nhà của chị Perry, ở đây được biết đến với cái tên bà Frederic Johnson. Tuy Nye có kế hoạch phỏng vấn những người họ hàng này, và một ai đó khác có thể biết được tung tích của kẻ tình nghi, song mục tiêu chính của ông vẫn là tranh thủ sự giúp đỡ của cơ quan pháp luật sở tại. Chẳng hạn, khi đến Las Vegas, ông đã thảo luận vụ Clutter với Trung úy B.J. Handlon, Trưởng ban Thám tử của sở Cảnh sát Las Vegas. Lúc đó, viên trung úy đã viết một công văn ra lệnh cho toàn bộ nhân viên cảnh sát phải duy trì tình trạng báo động đối với Hickock và Smith: “Kansas truy nã về tội vi phạm lời hứa trước tòa; nghe nói đương sự đang lái một chiếc xe Chevrolet 1949 với giấy phép của Kansas số JO - 58269. Những người này chắc chắc có vũ khí nên bị coi là nguy hiểm.” Handlon cũng cử một thám tử giúp Nye “vụ nhà cầm đồ”, như ông nói, “luôn luôn có đám người này ở bất cứ thị trấn cờ bạc nào.” Nye và người thám tử Las Vegas đã cùng nhau kiểm tra từng biên lai cầm đồ được xuất trong tháng trước. Đặc biệt, Nye hy vọng tìm ra một rađiô xách tay nhãn Zenith mà người ta tin rằng đã bị lấy cắp ở nhà Clutter đêm án mạng, nhưng ông không may mắn trong việc này. Tuy nhiên một người cầm đồ đã nhớ ra Smith (“Hắn đi đi lại lại ở đây có đến mười năm rồi”) và đưa ra tấm biên lai về một cái chăn da gấu được cầm trong vòng tuần đầu tháng Mười một. Chính nhờ biên lai này mà Nye đã nắm được địa chỉ cái nhà trọ. “Đăng ký ngày 13 tháng Mười,” bà chủ trọ nói, ‘trả ngày 11 tháng Mười một.” Nye liếc nhìn chữ ký của Smith. Sự bay bướm của nó, những uốn những móc kiểu cách làm ông ngạc nhiên - một phản ứng mà bà chủ trọ rõ ràng đoán ra, và bà nói. “Ái chà. Mà ông còn phải nghe hắn ta nói nữa cơ. Toàn những từ to tát dài dòng lọt vào tai mình bằng cái giọng thì thầm, lào thào. Tính cách có một không hai đây. Ông lùng hắn ta là vì cái gì - một thằng ma cô nhãi xinh xẻo như thế?” “Vi phạm lời hứa phóng thích.” “Ái chà. Đi ngần ấy đường từ Kansas đến vì một vụ vi phạm lời hứa. Được, tôi chỉ là một mẹ tóc vàng ú ớ thôi mà. Tôi tin ông. Nhưng tôi sẽ không kể lại chuyện này cho bất cứ con bé tóc đen nào nghe đâu.” Bà giơ lon bia lên, uống cạn, rồi từ từ lăn cái lon rỗng giữa hai bàn tay nổi gân và lấm chấm đồi mồi. “Muốn làm gì thì làm, những không thể là tay cầm đầu được. Không thể được. Tôi chưa từng gặp người nào mà tôi không ước nổi cỡ giày đâu. Thằng cha này chỉ là một gã ma cô. Đồ ma cô nhãi ranh cố dụ tôi không đòi tiền trọ tuần cuối cùng nó ở đây.” Bà chặc lưỡi, chắc là do nghĩ tới sự hoang đường của một mưu mô như thế. Nye hỏi tiền phòng của Smith là bao nhiêu. “Giá quy định. Chín đô một tuần. Thêm năm hào tiền gửi chìa. Dứt khoát trả ngay. Dứt khoát trả trước tháng.” “Trong khi ở đây, anh ta làm gì? Có bạn bè gì không?” “Ông nghĩ tôi phải để mắt tới từng đứa mạt hạng đến ở đây hay sao?” bà chủ nhà trọ vặn lại. “Bọn cầu bơ cầu bất. Bọn ma cô. Tôi không quan tâm. Tôi có một đứa con gái lấy được tay cỡ bự.” Rồi bà nói, “Không, hắn chẳng có bạn nào. Ít nhất cũng không thấy hắn ta la cà với ai đặc biệt cả. Lần cuối cùng hắn ở đây, ngày nào hắn cũng mất gần hết thì giờ lỉnh kỉnh với cái xe. Hắn đỗ xe ngoài kia. Một chiếc Ford cũ. Nom như có từ thời hắn ra đời. Hắn sơn lại. Phần mui sơn đen, phần còn lại thì sơn bạc. Rồi hắn viết “Xe bán” lên trên kính chắn gió. Một hôm tôi nghe một dân hấp dừng lại trả bốn chục đô - nghĩa là cao hơn giá trị của nó những bốn chục lần. Nhưng hắn nói hắn không thể để được dưới chín chục. Nói hắn cần tiền để mua vé xe buýt. Trước khi hắn rời đi, tôi nghe nói một người da màu nào đó đã mua phải cái xe.” “Nói cần tiền mua vé xe buýt, bà có biết anh ta định đi đâu không?” Bà ta chúm môi lại, cho một điếu thuốc lá vào mồm nhưng mắt vẫn dừng lại ở Nye. “Chơi đẹp đấy nhá. Có tiền lên bàn không? Thưởng chứ?” Bà ta chờ một câu trả lời; khi không có gì xảy ra, bà ta hình như cân nhắc thiệt hơn rồi quyết định tốt nhất là nói. “Vì tôi có cảm tưởng bất kỳ đến đâu hắn ta cũng không có ý ở lại lâu. Cảm tưởng là hắn có ý bỏ bớt lại đồ đạc ở đây. Kiểu như chờ có ngày hắn còn quay lại.” Bà hất đầu về phía trong nhà. “Vào đây, tôi sẽ cho ông thấy là tại sao.” Những bậc cầu thang. Những gian sảnh xám xịt. Nye ngửi các mùi, phân biệt chúng với nhau: cồn tẩy uế phòng vệ sinh, rượu, mẩu thuốc lá đã dụi tắt. Bên kia một cánh cửa, một tay nghiện đang rên rỉ hát, không biết vui hay sầu. “Nguội đi, Dutch! Tắt máy đi không là ông cuốn gói đấy!” người đàn bà thét. “Đây,” bà bảo Nye, đưa ông vào một nhà kho tối tăm. Bà bật đèn lên. “Đằng kia. Cái thùng đó. Hắn ta hỏi tôi có thể giữ cho đến khi hắn quay lại không.” Đó là một cái thùng các tông, không bọc nhưng buộc lại bằng dây thừng. Một lời tuyên bố, một cảnh báo phần nào có ý nghĩa một lời nguyền độc, được viết bằng bút chì ngang qua nắp thùng: “Cẩn thận! Tài sản của Perry E.Smith! Cẩn thận!” Nye cởi dây; cái nút thắt, ông không vui khi thấy nó không cùng kiểu với cái nút đơn bọn giết người đã dùng để trói nhà Clutter. Ông bật hai mép thùng. Một con gián vọt ra, bà chủ giẫm ngay lên, nghiền nát nó dưới gót chiếc dép bằng kim nhũ của bà. “Hầy!” bà nói trong khi Nye thận trọng lấy đồ đạc của Smith ra thong thả xem. “Thằng mất dạy. Đây là khăn tắm của tôi.” Cùng với cái khăn tắm, ông Nye tỉ mỉ ghi thành khoản mục vào sổ tay mình: “Một cái gối bẩn ‘kỷ niệm Honolulu’; một chăn trẻ con màu hồng; một quần kaki; một chảo nhôm với cái đánh trứng. “Nhiều thứ bà giằn khác bao gồm một cuốn dán dày đặc những tấm ảnh cắt ra từ tạp chí thể dục thể thao (hình các lực sĩ cử tạ bóng nhoáng mồ hôi) và, bên trong một hộp giày, một loạt các thứ thuốc: bàn chải và bột dùng để đỡ hôi mồm, và cả một lượng aspirin đáng kinh ngạc - ít ra tới một tá hộp, nhiều hộp đã dùng hết.” “Toàn vứt đi,” bà chủ trọ nói. “Chẳng gì ngoài giẻ rách.” Đúng thế, đây là thứ vô giá trị ngay cả với nhà thám tử đang khát đòi tung tích. Nhưng Nye vẫn thích; mỗi thứ - thuốc đau lợi, cái gối Honolulu nhẫy bóng - đều đem lại cho ông một ấn tượng rõ rệt hơn về người chủ của nó cùng cuộc sống đơn độc, khốn cùng của hắn. Ngày hôm sau ở Reno, chuẩn bị cho bản báo cáo chính thức, Nye viết: “Hồi 9 giờ sáng, người viết báo cáo đã tiếp xúc với ông Bill Driscoll trưởng phòng Điều tra Án mạng, văn phòng cảnh sát trưởng Washoe County, Reno, Nevada. Sau khi thông báo vắn tắt tình huống vụ án, đã cung cấp cho ông Drishcoll ảnh, dấu tay và lệnh bắt Hickock và Smith. Những việc của cả hai người này và chiếc xe hơi đã được điền vào hồ sơ. Hồi 10 rưỡi sáng, người viết báo cáo còn tiếp xúc với Hạ sĩ cảnh sát Abe Feroah, Phòng Thám tử, sở Cảnh sát, Reno, Nevuda. Hạ sĩ cảnh sát Feroah và người viết báo cáo đã rà soát các hồ sơ cảnh sát. Cả tên Smith lẫn tên Hickock đều không thấy trong hồ sơ ghi nhận tội phạm. Kiểm tra hồ sơ biên lai cầm đồ cũng không cho được tin tức nào về cái rađiô bị mất. Đã điền việc cái rađiô vào hồ sơ phòng trường hợp nó bị cầm ở Reno. Thám tử phụ trách các tiệm cầm đồ còn đưa ảnh của Smith và Hickock cho từng tiệm trong thị trấn và cũng đã đích thân kiểm tra từng tiệm cầm đồ về cái rađiô. Các tiệm này nhận dạng Smith là người quen thuộc nhưng không thể cung cấp thêm thông tin gì hơn.” Buổi sáng thì vậy. Chiều hôm ấy Nye lên đường đi tìm Tex John Smith. Nhưng ở chặng dừng đầu tiên, tại bưu điện, một nhân viên ở quầy Gửi phát chung bảo ông chả cần phải tìm đâu xa cả - chả cần ở Nevada - vì “cá thể kia” đã rời đó đi từ hồi tháng Tám trước và hiện đang sống ở lân cận Circle City, Alaska. Dẫu gì thì thư tín của hắn cũng đang được gửi đến đó. “Chu cha! Cha này thì mới kinh đây,” viên thư ký nói, đáp lại yêu cầu của Nye là hãy tả cho nghe về Smith bố. “Lão này y như ở trong sách ra ấy. Tự nhận là Sói Cô độc. Nhiều thư từ của lão được gửi đến với cái tên Sói Cô độc ấy. Lão không nhận nhiều thư, không, nhưng mà hàng đống ca ta lô và tờ rơi quảng cáo thì có. Ông phải lấy làm lạ về cái số lượng những kẻ cứ gửi hoài mấy thứ này đi, chỉ là để mong nhận lại dăm ba hồi âm. Lão ấy già đến đâu hả? Chắc là sáu chục. Mặc kiểu miền Tây, ủng cao bồi, một cái mũ tổ bố. Lão bảo tôi hồi xưa lão chơi trò rodeo, cưỡi bò cưỡi ngựa bất kham. Tôi nói chuyện với lão ít thôi. Ít năm gần đây hầu như ngày nào lão cũng ở đây. Thi thoảng, lão mất tăm ít lâu, đi xa đâu như một tháng hay gì đó - lúc nào cũng bảo là đi khảo sát. Tháng Tám vừa rồi một hôm có một thanh niên đến quầy đây. Nói là hắn đi tìm bố, Tex John Smith, và hỏi tôi có biết tìm ở đâu không. Hắn trông khác bố nhiều; bố thì mỏng môi và người Ái Nhĩ Lan, anh con thì xem ra gần như da đỏ hẳn, tóc đen như xi đánh ủng, mắt cũng đọ được với tóc. Nhưng sáng hôm sau Sói đi vào khẳng định, bảo đây là con tôi, nó vừa mới phục viên và hai bố con sẽ đi Alaska. Lão là một tay làm ăn ở Alaska. Đâu như có thời lão có một cái khách sạn ở đó, hay một kiểu nhà trọ cho dân đi săn. Lão nói lão tính đi chừng hai năm. Không, từ đấy không bao giờ thấy lão nữa, cả lão lẫn thằng con.” Gia đình Johnson là dân mới đến trong cái cộng đồng ở San Francisco này - một khu của tầng lớp trung lưu, dân thu nhập trung bình mới xây dựng nằm trên đồi cao phía Bắc thành phố. Chiều ngày 18 tháng Chạp năm 1959, bà Johnson trẻ tuổi đang đợi khách; ba bà hàng xóm sắp đến uống cà phê ăn bánh ngọt và có thể đánh bài. Bà chủ nhà căng thẳng; đây là lần đầu tiên bà chiêu đãi khách trong ngôi nhà mới của mình. Lúc này, trong khi chờ nghe tiếng chuông cửa, bà đang đi soát lại lần cuối cùng, dừng lại nhặt một mẩu sợi vương hay sửa lại cách bày mấy bông hoa Poisettia ngày lễ Nôen. Giống như các ngôi nhà khác trên con phố sườn dốc này, ngôi nhà này là một căn nhà trại thông dụng ở ngoại ô, dễ chịu và chẳng có gì đặc biệt. Bà Johnson yêu nó; bà mê mệt các tấm ván ốp tường bằng gỗ đỏ, các tấm thảm trải dài từ vách này qua vách nọ, những cửa sổ cả sau lẫn trước mở ra cảnh đẹp như tranh vẽ, phong cảnh mà cửa sổ sau nhà đem lại cho mắt nhìn - đồi, thung lũng, rồi thì trời và đại dương. Bà tự hào về mảnh vườn nho nhỏ sau nhà; chồng bà - nghề nghiệp là nhân viên bán bảo hiểm nhưng lại có xu hướng làm thợ mộc - đã dựng lên chung quanh nó một hàng rào bằng cọc trắng, trong vườn là một cái nhà cho gia đình chó, rồi một thùng cát và những cái đu cho trẻ con. Lúc này, cả bốn - con chó, hai đứa bé trai, một đứa bé gái - đang đùa ở trong vườn dưới một bầu trời êm đềm; bà hy vọng chúng sẽ vui vầy trong vườn cho tới khi các bà khách ra về. Khi chuông cửa reo, bà Johnson đi ra, mặc bộ váy mà bà cho là có thể tôn mình lên nhiều nhất, một hàng chun màu vàng ôm bó dáng người bà và làm nổi lên cái ánh ngăm ngăm của nước da Cherokee cũng như màu tóc đen nhánh ốp mượt của bà. Bà mở cửa, chuẩn bị đón khách vào; song thay vì vậy bà thấy hai người đàn ông lạ hoắc - họ chạm tay vào vành mũ và lật cái ví có huy hiệu cảnh sát ra. “Bà là bà Johnson?” một người nói. “Tôi là Nye. Đây là thanh tra Guthrie. Chúng tôi trực thuộc cảnh sát San Francisco, vừa nhận được yêu cầu của bang Kansas liên quan tới em trai bà, Perry Edward Smith. Hình như anh ta đã không đến trình diện với ban quản lý tù theo lời hứa danh dự, liệu bà có thể cho chúng tôi biết những việc làm gần đây của anh ấy không?” Bà Johnson không thất vọng - và dứt khoát là không ngạc nhiên - khi biết cảnh sát lại một lần nữa bận tâm đến hành tung của em trai bà. Điều làm bà lo ngại là cái viễn cảnh khách mời tới mà lại thấy bà đang bị cảnh sát phỏng vấn. Bà nói, “Không. Không có gì hết. Tôi không gặp Perry bốn năm nay rồi.” “Đây là một vấn đề nghiêm trọng, thưa bà Johnson,” Nye nói. “Tốt nhất chúng ta nên nói hết với nhau.” Sau khi chịu thua, đưa họ vào và mời cà phê (họ uống), bà Johnson nói, “Tôi không gặp Perry đã bốn năm nay. Cũng chẳng nghe tin gì từ ngày nó được tha theo lời hứa. Mùa hè vừa rồi, khi ra tù, nó có đến thăm bố tôi ở Reno. Trong thư, bố tôi kể là ông quay về Alaska và đem nó đi theo. Rồi bố tôi lại viết thư, tôi nghĩ là hồi tháng Chín, kể rằng ông rất giận. Ông với Perry đã xích mích với nhau và tách lẻ trước khi hai người đến biên giới. Perry quay lại; bố tôi đi Alaska một mình.” “Và từ đó ông cụ không viết cho bà nữa?” “Không.” “Vậy thì có thể em bà vừa mới lại đến với cụ xong. Tháng vừa rồi.” “Tôi không biết. Tôi không quan tâm.” “Quan hệ không tốt?” “Với Perry ấy hả? Vâng. Tôi sợ nó.” “Nhưng khi anh ta ở Lansing bà hay viết thư cho anh ta kia mà. Hay là các nhà chức trách ở Kansas đã nói như vậy với chúng tôi,” Nye nói. Người thứ hai, thanh tra Guthrie hình như bằng lòng đứng ở ngoài lề. “Tôi đã muốn giúp nó. Tôi hy vọng có thể thay đổi được chút nào ý nghĩ của nó. Bây giờ tôi hiểu rõ hơn. Quyền lợi của người khác chẳng có nghĩa gì với Perry cả. Nó chẳng biết kính trọng lấy một ai.” “Về bạn bè. Bà có biết người bạn nào mà anh ta có thể đến ở cùng được không?” “Joe James,” bà nói, và giải thích rằng James là một thanh niên da đỏ làm rừng và câu cá sống ở trong một khu rừng gần Bellingham, Washington. Không, bà không quen anh này nhưng bà biết rằng anh ta và gia đình rất hào hiệp, trước đây từng rất tốt với Perry. Người bạn duy nhất của Perry mà bà từng gặp là một người đàn bà trẻ xuất hiện ở bậc cửa nhà Johnson tháng Bảy năm 1955, mang theo một bức thư của Perry trong đó giới thiệu cô ta là vợ nó. “Nó nói đang gặp khó khăn, nhờ tôi trông nom vợ nó cho tới khi nó nhờ được người đến đón về. Cô gái nom chừng hai mươi tuổi, thế nào hóa ra chỉ mới mười bốn. Và dĩ nhiên cô ta chẳng phải là vợ của ai hết. Nhưng lúc đó tôi cũng thu nhận. Tôi thấy ái ngại cho cô ta, đề nghị cô ta ở với chúng tôi. Cô ta ở lại, nhưng không lâu. Chưa được một tuần. Và khi bỏ đi, cô ta mang theo cả va li quần áo của chúng tôi và mọi thứ đựng trong đó - phần lớn quần áo của tôi và của chồng tôi, bộ đồ ăn bằng bạc và cả cái đồng hồ ở trong bếp nữa.” “Khi việc đó xảy ra, bà đang sống ở đâu?” “Denver.” “Bà đã từng sống ở Fort Scott, Kansas bao giờ chưa?” “Chưa bao giờ. Tôi chưa bao giờ đến bang Kansas.” “Bà có người chị em nào ở Fort Scott không?” “Chị tôi chết rồi. Bà chị duy nhất.” Nye mỉm cười. Ông nói, “Bà Johnson, bà hiểu cho, chúng tôi đang làm viêc theo một giả định cho rằng em bà sẽ tiếp xúc với bà. Bằng cách viết thư hay gọi điện. Hay đến gặp bà.” “Tôi hy vọng là không. Vì sự thật là nó không biết chúng tôi đã đổi chỗ ở. Nó cứ nghĩ chúng tôi vẫn còn ở Denver. Nếu ông tìm ra nó, xin ông đừng cho nó địa chỉ của tôi. Tôi sợ.” “Bà nói thế có phải vì bà nghĩ anh ta có thể làm hại bà không? Làm bị thương về thân thể?” Bà ta suy nghĩ, và không thể dứt khoát, nói rằng bà không rõ. “Nhưng tôi sợ nó. Tôi luôn luôn sợ nó. Nó có thể coi bộ rất giàu tình cảm, dễ mủi lòng. Hiền lành tử tế. Nó dễ khóc lắm. Đôi khi âm nhạc làm nó hào hứng lên, lúc còn bé nó đã quen khóc vì nó nghĩ rằng mặt trời lặn là đẹp. Hay mặt trăng. Ô, nó có thể lừa được ông đấy. Nó có thể làm cho ông cảm thấy ái ngại cho nó...” Chuông cửa reo, vẻ ngập ngừng của bà Johnson trước tiếng gọi cửa đã truyền đạt tâm trạng tiến thoái lưỡng nan của bà, và Nye (sau này đã viết về bà rằng, “Suốt cuộc phỏng vấn, bà luôn luôn giữ tư thế điềm tĩnh và tao nhã. Một người có cá tính khác thường”) liền với lấy chiếc mũ nâu bẻ gập vành của mình. “Xin lỗi đã quấy quả bà, bà Johnson. Nhưng nếu bà nghe được gì về Perry thì chúng tôi mong bà có thiện chí mà gọi báo chúng tôi hay. Xin hỏi thanh tra Guthrie.” Sau khi hai thám tử đi rồi, cái tư thế đã làm cho Nye mến mộ bị rơi vỡ tan tành: một nỗi tuyệt vọng về gia đình mình treo lơ lửng. Bà vật lộn với nó, gạt đẩy đòn đánh toàn diện của nó cho tới khi bữa liên hoan đã vãn và khách khứa ra về, cho tới khi bà cho con cái ăn uống, tắm rửa và nghe chúng đọc kinh đêm xong. Rồi thì tâm trạng, như làn sương mù trên biển hiện đang che mờ những cây đèn đường, đến bủa vây lấy bà. Bà đã nói bà sợ Perry, và bà sợ thật, nhưng có phải chỉ đơn giản là sợ Perry không thôi, hay là sợ cảnh ngộ mà Perry là một phần của nó - những số phận khủng khiếp hình như đã được hứa hẹn sẵn cho bốn đứa con của Florence Buckskin và Tex John Smith? Ông anh cả, người mà bà yêu mến, đã tự bắn mình; Fern ngã hay nhảy từ trên cửa sổ xuống; và Perry thì phạm bạo hành, một tên tội phạm. Cho nên, ở một nghĩa nào đó, bà là kẻ sống sót duy nhất; và điều dằn vặt bà chính là cái ý nghĩ rằng đến lúc nào đó, bà cũng sẽ bị dập vùi, hóa điên, hay mắc phải một căn bệnh nan y, hay mất hết những gì quý nhất đời bà - nhà cửa, chồng con - trong một cơn hỏa hoạn. Chồng bà đang đi làm ăn xa, và khi chỉ có một mình, bà cũng chưa nghĩ đến rượu bao giờ. Nhưng đêm nay bà đã làm một ly mạnh, rồi nằm lên chiếc đi văng trong phòng khách, một quyển an bum ảnh đặt trên đầu gối. Tấm ảnh chụp bố bà choán hết trang nhất - một bức chân dung chụp năm 1922, năm ông lấy cô kỵ mã da đỏ, tiểu thư Florence Buckskin. Tấm ảnh đó đã cố định mãi ấn tượng của bà Johnson. Nhờ nó, bà có thể hiểu được tại sao mẹ bà lấy bố, tuy hai người thực chất không hề hợp nhau. Người thanh niên trong ảnh toát ra phong thái đường đường một đấng nam nhi. Mọi thứ - cái lọn vểnh lên của mái tóc đỏ nâu, mắt trái hơi nheo lại (tựa như đang nhắm bắn), chiếc khăn quàng con con kiểu cao bồi buộc thắt nút quanh cổ - hết sức là hấp đẫn. Nhìn chung, thái độ của bà Johnson với ông bố là mập mờ, nhưng có một phương diện ở bố mà bà luôn luôn kính trọng - sức chịu đựng kiên cường. Bà biết rõ bố có vẻ kỳ dị như thế nào trong con mắt người khác; về mặt này, hình như ông bố cũng kỳ dị với cả bà. Muốn gì thì ông bố vẫn là “một con người chân chính”. Ông cụ làm đủ việc, và làm thật dễ dàng. Ông cụ có thể quật đổ một cái cây đúng vào nơi ông cụ muốn. Ông cụ có thể lột da gấu, chữa đồng hồ, xây nhà, làm bánh, mạng bít cất, hay bắt cá hồi bằng một cái kim bẻ cong và một đoạn dây. Có lần, ông cụ đã sống sót một mình suốt cả mùa đông ở vùng đại hoang bang Alaska. Một mình: theo ý bà Johnson, đó là cách những người đàn ông như thế nên sống. Vợ con, một đời sống e dè không phải là để cho họ. Bà lật mở mấy trang ảnh chụp thời thơ ấu - những bức ảnh chụp tại các bang Utah, Nevada, Idaho, Oregon. Sự nghiệp kỵ mã trị ngựa bất kham của “Tex và Flo” đã chấm dứt, cả gia đình sống trên một xe tải cũ đi lang thang khắp cả nước săn lùng việc làm, một thứ khó tìm vào năm 1933. “Gia đình Tex John Smith hái quả ở Oregon, năm 1933” là câu chú thích dưới bức chụp bốn đứa trẻ chân đất mặc quần yếm, nhất loạt đều có vẻ mặt hốc hác mỏi mệt. Quả dại hoặc bánh mì ăn cắp giầm vào sữa đặc thường là thứ duy nhất họ ăn. Barbara Johnson nhớ lại một lần gia đình phải sống nhiều ngày bằng chuối nẫu, kết quả là Perry bị đau bụng; nó rên la suốt đêm, trong khi Bobo, tức là Barbara thì kêu khóc vì sợ em chết. Bobo hơn Perry ba tuổi và rất yêu em; nó là đồ chơi duy nhất của cô, một con búp bê mà cô tắm rửa, chải đầu, hôn hít và đôi khi đét đòn. Đây có một bức ảnh hai đứa cùng tắm truồng trong một vụng nước trong như kim cương ở Colorado, đứa em, một thằng quỷ con bụng ỏng, rám nắng đen sì, đang nắm chặt tay chị mà cười rúc rích, tựa hồ dòng suối đổ xuống tung tóe có cả những ngón tay ma quái cù người. Trong một bức khác (bà Johnson không chắc, nhưng bà nghĩ có lẽ nó được chụp ở một trại chăn nuôi hẻo lánh tại Nevada, nơi gia đình đã ở khi cuộc xung đột cuối cùng giữa bố mẹ, một cuộc xích mích kinh khủng trong đó các thứ roi ngựa, nước sôi đèn dầu đều được sử dụng làm vũ khí, đưa cuộc hôn nhân đến bờ tan vỡ), bà và Perry ngồi trên một con ngựa lùn, đầu sát đầu, má chạm má; sau lưng những quả núi khô nỏ bốc cháy. Sau khi đám trẻ con và mẹ chúng đến sống ở San Francisco, tình yêu thương em của Bobo nhạt dần rồi khi nguội hẳn. Nó không còn là bé cưng của cô mà là một đồ man rợ, một thằng ăn cắp, một thằng trấn lột. Vụ đầu tiên nó bị bắt bị ghi tên vào sổ cảnh sát là vào ngày 27 tháng Mười năm 1936 - lần sinh nhật thứ tám của nó. Cuối cùng, sau nhiều lần bị giữ tại nhà cải tạo và trung tâm giáo dưỡng trẻ vị thành niên, nhờ sự bảo lãnh của bố nó lại được trở về, và nhiều năm sau Bobo mới lại gặp lại nó, trừ trong mấy bức ảnh mà thỉnh thoảng Tex John gửi cho các đứa con kia của mình - những bức ảnh được dán lên trên các chú thích viết bằng mực trắng là một phần nội dung của quyển an bum. Có “Perry, bố và con chó Etkimô”, “Perry và bố đang đãi vàng”, “Perry săn gấu ở Alaska”, Trong bức thư cuối cùng này, Perry là một cậu trai mười lăm tuổi đội mũ lông đi giày trượt tuyết, đứng giữa hàng cây nặng trĩu tuyết, một khẩu súng quàng dưới cánh tay; mặt mũi bơ phờ, con mắt thì buồn và rất mệt, nhìn tấm ảnh đó, bà Johnson lại nhớ đến một “vụ” Perry gây ra khi hắn tới thăm bà ở Denver. Quả thực, đó là lần cuối cùng bà gặp hắn - mùa xuân năm 1955. Hai chị em đang bàn về tuổi thơ ấu của mình với Tex John thì thình lình Perry, vốn đã có quá nhiều rượu trong người rồi, liền đẩy bà sát vào tường rồi ghìm chặt bà ở đó. “Tôi là một thằng mọi,” Perry nói. “Có thể thôi. Một kẻ mà ông ta có thể sai làm mửa mật ra mà chẳng phải trả lấy một đồng xu. Không, Bobo, tôi đang nói đây. Câm ngay, không thì tôi ném bà xuống sông bây giờ. Như một lần tôi đang đi qua một cây cầu ở Nhật thì có một gã đứng trên đó, tôi chưa hề gặp gã ta trước đó bao giờ, nhưng tôi cứ nhấc gã lên mà ném xuống sông.” “Làm ơn đi. Bobo. Nghe tôi này. Chị nghĩ là tôi thích tôi ư? Ôi! Đáng ra tôi có thể là một người như thế nào ấy chứ! Nhưng cái lão chết giấp ấy lão có cho tôi cơ hội nào đâu. Lão không cho tôi đi học. O.K. O.K. Tôi là một đứa hư. Nhưng có lúc tôi đã xin đi học. Tôi là một đứa có đầu óc sáng láng cơ mà. Nói vậy để nhớ ra chị không biết. Đầu óc sáng láng mà lại có tài nữa. Nhưng không có học, vì lão không muốn tôi học bất cứ cái gì, chỉ là cốt khuân vác như thế nào cho lão thôi. Đần độn. Ngu dốt. Lão muốn tôi như vậy cơ. Để cho tôi không bao giờ thoát ra khỏi tay lão. Nhưng chị ấy, Bobo. Chị được đi học. Chị và Jimmy và Fern. Các người đứa khỉ nào cũng được học hành. Tất cả, trừ tôi. Tôi thù ghét các người, tất cả - ông già và tất cả các người.” Làm như với các anh chị hắn đời lót bằng hoa hồng không bằng! Có lẽ là thế thật, nếu đó có nghĩa là dọn các đống nôn mửa của mẹ, là chẳng được mặc cái gì là đẹp, chẳng được ăn cái gì cho no. Nhưng cũng đúng là cả ba đều được đi học tới nơi tới chốn. Thực tế là Jimmy đã đỗ đầu lớp - một vinh dự có được hoàn toàn nhờ vào nghị lực bản thân anh ấy. Chính điều ấy đã làm cho việc anh tự sát có vẻ như một điềm gở đến thế, Barbara Johnson cảm thấy vậy. Tính cách mạnh, rất dũng cảm, hay lam hay làm - hình như những cái đó không hề là yếu tố quyết định trong số phận của các đứa con nhà Tex John. Họ cùng chia sẻ một số phận bất hạnh mà đức hạnh không sao giúp họ cưỡng lại được. Không phải là Perry hay Fern có đức hạnh gì cho cam. Khi Fern mười bốn tuổi, chị đổi tên, và trong suốt những ngày còn lại của đời mình chị ấy đã có biện minh cho việc đổi tên đó là phải: Joy[10]. Chị là một cô gái thoải mái vô tư, “người tình của tất cả mọi người” - đúng hơn là của quá nhiều người, vì chị thiên vị với đàn ông, mặc dù vì lẽ gì đấy chị chẳng được may mắn lắm với họ. Vì lẽ gì đấy, loại người chị ưa chẳng biết sao cứ luôn bỏ rơi chị. Mẹ chết trong một cơn say ngất lịm, thế nên chị sợ uống rượu - nhưng chị vẫn uống. Trước tuổi hai mươi, mỗi sáng chị chào ngày mới bằng một chai bia. Rồi một đêm hè, chị ngã từ trên cửa sổ một phòng khách sạn xuống. Khi đang rơi xuống, chị đập vào mái cổng dẫn vào một nhà hát, bắn tung lên rồi lăn vào bánh một chiếc xe tắc xi. Ở trên kia, trong căn phòng trống không, cảnh sát tìm thấy đôi giày của chị, một ví tiền, một chai uýt ki rỗng. Người ta có thể thông cảm và tha thứ cho Fern, nhưng Jimmy thì khác. Bà Johnson nhìn bức ảnh trong đó anh mặc quần áo lính thủy; hồi chiến tranh anh phục vụ cho hải quân. Mảnh khảnh, một thủy thủ trẻ tuổi nước da tai tái có bộ mặt dài dài mang đôi chút thánh thiện khắc khổ, anh đứng quàng eo một cô gái sau này anh cưới và theo đánh giá của bà Johnson thì đáng lẽ không nên cưới, vì hai người này chẳng có gì hợp nhau sất - anh Jimmy nghiêm túc với cô gái San Diego mười mấy tuổi đầu quen bám các hạm tàu mà chuỗi hạt thủy tinh phản chiếu lại một vầng mặt trời nay đã ố nhạt từ lâu. Nhưng cái mà Jimmy dành cho cô gái đã vượt quá tình yêu thông thường; nó là đam mê - một đam mê có phần nào bệnh lý. Còn cô gái, cô ắt phải yêu anh, yêu anh vô cùng, bằng không thì cô đã chẳng làm như đã làm. Giá mà Jimmy tin như thế nhỉ! Hay là có khả năng tin được thế. Nhưng lòng ghen tuông đã cầm tù anh rồi. Anh bị cắn xé bởi ý nghĩ về đám đàn ông mà cô từng ngủ cùng trước khi lấy anh; hơn nữa, anh đinh ninh rằng cô vẫn còn tính ăn nằm bừa bãi - rằng mỗi khi anh đi biển hay thậm chí chỉ xa cô có một ngày thôi, cô liền phản bội anh ngay với cả lô cả lốc người tình, anh không ngừng bắt cô phải nhận là đã có những người tình như vậy. Thế rồi cô chĩa khẩu súng vào một điểm - giữa hai mắt mình và lấy ngón chân bấm cò. Khi tìm thấy cô, Jimmy không báo cảnh sát. Anh bế cô đặt lên giường rồi nằm xuống bên cạnh cô. Ngay hôm sau vào khoảng sắp rạng đông, anh lắp đạn lại vào súng và tự sát. Đối diện với bức ảnh Jimmy và vợ là một bức ảnh chụp Perry mặc binh phục. Ảnh được cắt ra từ một tờ báo, có dán kèm theo một đoạn bài báo: “Sở Chỉ huy Quân đội Hoa Kỳ, Alaska. Binh nhì Perry E. Smith, 23 tuổi, cựu chiến binh đầu tiên của quân đội từng tham chiến ở Triều Tiên quay về Anchorage, Alaska, được Đại úy Mason, Sĩ quan Truyền thông đón tiếp khi đến Căn cứ Không quân Elmendorf. Smith phục vụ 15 tháng ở sư đoàn số 24 với tư cách lính kỹ thuật. Chuyến đi của anh từ Seattle đến Anchorage là quà tặng của Hãng Hàng không Bắc Thái Bình Dương. Cô Lynn Marquis, tiếp viên hàng không, mỉm cười đón tiếp anh. (Ảnh chính thức của Quân đội Hoa Kỳ).” Đại úy Mason chìa tay ra, nhìn binh nhì Perry, nhưng binh nhì Perry lại nhìn vào máy quay. Trông vẻ mặt chú em, bà Johnson nhìn thấy, hay tưởng tượng thấy, không phải lòng biết ơn mà là sự ngạo mạn, và thay vì tự hào thì lại là hết sức vênh vang tự phụ. Thật không thể nào tin rằng khi đi qua một cây cầu hắn đã gặp một người và đã ném người đó khỏi cầu. Dĩ nhiên hắn đã làm vậy. Điều đó bà không bao giờ nghi ngờ. Bà gấp quyển an bum lại, mở ti vi, nhưng nó không làm bà khuây khỏa được. Giả dụ hắn đến thì sao? Các thám tử đã tìm bà; cớ gì Perry lại không tìm? Nó chẳng cần mong bà giúp nó, thậm chí bà còn không cho nó vào nữa kia. Cửa chính khóa, nhưng cửa ra vườn thì không. Mảnh vườn trắng xóa sương mù của biển; nó có thể là một cuộc tụ hội những hồn ma lắm. Mẹ, Jimmy và Fern. Khi bà John ra gài chốt cửa lại, trong đầu bà người chết lẫn người sống đều như đang hiển hiện. Một cơn giông đột ngột. Mưa. Trút như thác. Dick chạy. Perry cũng chạy, nhưng không nhanh bằng; chân hắn ngắn hơn, mà hắn lại vướng cái va li quần áo. Dick đến được nơi trú ẩn - một nhà kho cạnh xa lộ - trước hắn khá lâu. Trong khi rời Omaha, sau một đêm ngủ nhờ ở Nhà của Đội quân Cứu rỗi, chúng đã được một tài xế xe tải cho đi nhờ qua biên giới bang Nebraska vào bang Iowa. Nhưng nhiều giờ trước đó thì chúng cuốc bộ. Trời đổ mưa khi chúng còn cách khu định cư Tenville Junction ở Iowa mười sáu dặm về phía Bắc. Nhà kho tối om. “Dick ơi,” Perry gọi. “Lại đây!” Dick nói. Hắn đang nằm dài trên một ổ cỏ khô. Ướt sũng, run lẩy bẩy, Perry buông người xuống cạnh hắn. “Tớ rét quá,” hắn nói, và rúc vào trong cỏ khô. “Tớ rét quá, nếu cỏ này bốc lửa mà thiêu cháy tớ tớ cũng cóc cần.” Hắn cũng đói nữa. Đói lả. Đêm qua chúng đã ăn cháo bố thí của Đội quân Cứu rỗi, còn hôm nay cái duy nhất nuôi sống chúng là mấy thanh sô cô la và kẹo cao su Dick thó được ở quầy kẹo bánh của một tiệm thuốc. “Còn sô cô la Hershey nữa không?” Perry hỏi. Không, nhưng hãy còn một gói kẹo cao su. Chúng chia nhau rồi nằm xuống nhai, mỗi đứa nhai hai thanh rưỡi kẹo cao su Doublemint, cái hương vị Dick thích (Perry thì thích vị quả hơn là bạc hà). Tiền trở thành vấn đề. Sự thiếu tiền gay gắt khiến Dick đi tới quyết định rằng cú sau đây của chúng sẽ là cái mà Perry coi là “cú liều của một gã điên rồ” - quay lại Kansas City. Khi Dick giục về đó lần đầu tiên, Perry đã nói, “Cậu phải đi khám đốc tờ đi.” Bây giờ, chen chúc bên nhau trong bóng đêm lạnh lẽo, lắng nghe mưa lạnh lẽo mịt mù, chúng lại bắt đầu bàn bạc, Perry một lần nữa liệt kê ra các mối nguy hiểm của một bước đi như vậy, vì lần này chắc chắn Dick đã bị truy nã về tội vi phạm lời hứa danh dự rồi - “nếu như không có gì nghiêm trọng hơn thế nữa”. Nhưng Dick không dễ bị thuyết phục. Hắn nài một lần nữa rằng Kansas City là cái nơi duy nhất hắn tin dứt khoát mình sẽ “cho đi lọt thành công những tấm séc giả. Mẹ khỉ, tớ biết là ta phải cẩn thận. Tớ biết chúng nó đã phát trát bắt. Vì những tấm séc chúng ta tiêu trước đây. Nhưng chúng ta sẽ hành động lẹ. Một hôm thôi là xong liền. Nếu vớ được khá, chúng ta sẽ đến Florida thử xem sao. Qua Nôen ở Miami - nếu thấy hay hay thì ở hết mùa đông tại đó.” Nhưng Perry nhai kẹo cao su, run lập cập và dằn dỗi. Dick nói, “Gì thế, bồ? Cái vụ kia ấy ư? Làm quái gì cậu cứ không quên được thế nhỉ? Chúng nó đã tìm ra được mối liên hệ nào đâu. Không bao giờ.” Perry nói, “Có thể cậu sai đấy. Và nếu cậu sai thì có nghĩa là Cái Xó.” Cả hai đứa trước đây chưa bao giờ nhắc đến hình phạt nặng nhất ở bang Kansas - treo cổ, hay là chết trong Cái Xó, như dân tù trong trại giam bang Kansas gọi mấy cái lán có thiết bị cần thiết để treo cổ tử tù. Dick nói, “Anh diễn viên hài ơi. Cậu giết tớ thì có đấy.” Hắn đánh que diêm, định hút một điếu thuốc nhưng nhờ ánh lửa hắn nhìn thấy một cái gì. Hắn đứng dậy, đi qua gian nhà kho đến một cái chuồng bò. Một chiếc xe đỗ trong chuồng bò, một chiếc Chevrolet hai cửa, đời 1956, hai màu đen trắng. Chìa khóa vẫn nằm trong ổ. Dewey đã quyết định không cho “dân thường” biết tí nào về đột phá quan trọng này trong vụ Clutter - ông quyết tâm đến độ lấy vào nhóm công tác tin cậy của mình hai anh mõ rao chuyên nghiệp của Garden City: Bill Brown, biên tập viên tờ Điện tín Garden City và người điều hành đài phát thanh địa phương, KIUL. Vẽ phác qua tình hình, ông nhấn mạnh đến các lý do khiến ông coi bí mật là quan trọng hàng đầu: “Hãy nhớ là có khả năng hai người này vô tội.” Đây là một khả năng không dễ bác bỏ, Floyd Wells, người cung cấp thông tin, có thể dễ dàng đặt chuyện; không ít tù nhân hy vọng giành được ân huệ hoặc thu hút được sự chú ý của nhà chức trách nên đã bịa ra các chuyện tương tự. Song dù cho mỗi lời của Wells đều là khuôn vàng thước ngọc thì Dewey và các đồng nghiệp ông vẫn chưa tìm được một mẩu bằng chứng vững chắc - “bằng chứng pháp đình” nào. Cái gì họ phát hiện ra mà lại không thể bị diễn giải thành sự trùng hợp có thể tin được, tuy kỳ lạ? Cho dù Smith đi đến Kansas thăm Hickock bạn hắn, cho dù Hickock sở hữu một khẩu súng thuộc loại đã được dùng để gây án, và cho dù các nghi phạm đã bày ra một chứng cứ ngoại phạm giả để kể về hành tung của chúng vào cái đêm 14 tháng Mười một, song đâu phải nhất thiết vì vậy mà chúng là những kẻ sát nhân hàng loạt. “Nhưng chúng ta gần như chắc chắn là chúng. Chúng ta đều nghĩ như thế. Nếu không thì chúng ta cho báo động khắp mười bảy bang, từ Arkansas đến Oregon làm gì? Nhưng trong đầu thì hãy cứ nhớ cho rằng: có thể phải hàng năm trời chúng ta mới tóm được chúng. Chúng có thể đã rời nhau rồi. Hay bỏ vùng đất này đi. Chúng có cơ tới tận Alaska - mất tăm ở đấy thì chả khó gì. Chúng còn xổng thì vụ này còn chưa xong. Nói thẳng ra, công việc đang giẫm chân tại chỗ thế này thì muốn thế nào chúng ta cũng chẳng tiến được là bao cả. Chúng ta có thể chẹt cổ bọn chó đẻ này ngày mai mà không thể chứng minh được cái quái gì.” Dewey không cường điệu. Ngoài hai dấu gót ủng, một mang hình viên kim cương và một nhãn Móng Mèo, bọn giết người không để lại một manh mối nào. Có vẻ chúng hết sức thận trọng cho nên chắc hẳn đã quăng mấy cái ủng kia từ lâu. Cả chiếc rađiô - cho dù chúng đã ăn cắp nó - điều mà Dewey vẫn có phần ngập ngừng không muốn công nhận bởi vì theo ông việc này tỏ ra “trái ngược đến mức lố bịch” với mức độ ghê gớm của tội ác và sự xảo quyệt của bọn tội phạm, “không thể quan niệm nổi” rằng những đứa này vào một ngôi nhà với hy vọng tìm thấy một két sắt bộn tiền, thế rồi tìm không thấy thì lại cho rằng tàn sát cả một gia đình vì dăm ba đô la và một chiếc rađiô xách tay bé tẹo là chuyện thích đáng. “Không có lời thú tội, chúng ta sẽ không bao giờ kết tội được,” ông nói. “Ý kiến tôi là thế. Do đó chúng ta thận trọng mấy cũng không thừa. Chúng nghĩ là chúng đã thoát được vụ này. Được, chúng ta lại muốn chúng nghĩ thế đấy. Chúng càng cảm thấy an toàn thì chúng ta càng sớm tóm được chúng.” Nhưng bí mật là thứ hàng xa xỉ không quen thuộc ở một thị trấn cỡ Garden City. Bất cứ ai đến văn phòng cảnh sát trưởng - ba gian phòng lèo tèo đồ đạc và người quá đông ở tầng bốn của tòa án hạt - đều có thể phát hiện một không khí kỳ lạ, gần như hung hiểm. Cảnh tíu tít, tiếng rầm rì cáu kỉnh của mấy tuần gần đấy đã biến mất; một vẻ tĩnh lặng run rẩy thấm vào các ngóc ngách của chốn này. Bà Richardson, thư ký văn phòng, một con người rất thực tế, qua một đêm đã thủ đắc được một loạt những thầm thì kiểu cách, những điệu bộ rón ra rón rén, và những người mà bà phục vụ đây, cảnh sát trưởng và bộ sậu của ông, Dewey và kíp đặc vụ K.B.I nhập cảng đều lui tới khẽ khàng, chuyện trò với cái giọng kín đáo bí ẩn. Tựa như những người đi săn nấp ở trong rừng, sợ bất kỳ tiếng động hay cử chỉ bất thường nào cũng sẽ làm cho các con thú đang đến gần bỏ chạy. Dân chúng bàn tán. Phòng Lối mòn của khách sạn Warren, một tiệm cà phê mà giới doanh nhân ở Garden City coi như câu lạc bộ riêng của mình, là một cái hang cứ xì xì xào xào những lời tiên đoán và tin đồn. Một công dân có máu mặt sắp bị bắt tới nơi rồi nhá, người ta nghe nói thế. Hay nghe nói vụ án mạng này là công việc của đám sát thủ mà những kẻ thù của Hội Các Nhà Trồng Lúa mì Bang Kansas thuê làm, hội này là một tổ chức tiến bộ và ông Clutter đóng vai trò quan trọng trong đó. Trong nhiều câu chuyện được nhỏ to này, chuyện gần như chính xác nhất là do một nhà đại lý xe hơi (ông ta không cho biết chính xác nguồn gốc chuyện) đóng góp: “Hình như có một người đã làm việc cho Herb đâu như từ năm 47 hay 48. Một người làm công chăn nuôi bình thường. Hình như đã đi tù, nhà tù bang, và khi còn ở đây hắn ta đã biết ông Herb là người giàu có lắm. Cho nên độ một tháng trước, khi họ thả hắn ra, thì việc đầu tiên hắn làm là đến đây trói mấy người này lại cướp rồi giết.” Nhưng bảy dặm về phía Tây, trong một làng ở Holcomb, không thấy có một tẻo teo tin tức gây xúc động nào, một lý do là vì ở cả hai nơi cung cấp tin đồn chính của cộng đồng này - bưu điện và quán cà phê Hartman - thảm kịch Clutter một dạo đã trở thành một đề tài bị cấm. “Bản thân tôi nay chả muốn nghe một lời nào nữa,” bà Hartman nói. “Tôi đã bảo họ, chúng ta không thể tiếp tục sống thế này. Nghi ngờ ráo cả, toàn làm cho nhau sợ tưởng chết. Điều tôi nói là, nếu ông bà muốn nói chuyện đó thì xin tránh chỗ tôi đây ra.” Myrt Clare giữ một lập trường khá vững. “Dân đến đây mua con tem vài xu mà lại nghĩ có thể ở thêm ba giờ ba mươi ba phút để moi chuyện nhà Clutter. Vặt mất cánh của người khác đi. Đồ rắn đuôi chuông, rặt là thế cả thôi à. Tôi đâu có thì giờ mà nghe họ chứ. Tôi đang làm việc công - tôi là người đại diện cho chính phủ Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Muốn gì thì đó cũng là bệnh hoạn. Al Dewey và những tay cảnh sát từ Topeka và Kansas City đến đều cỡ cốp, được coi là sắc như dao cả đấy chứ. Nhưng tôi chưa biết có ma nào lại nghĩ họ có cơ may bắt cái đứa làm chuyện kia. Nên tôi cho rằng im mồm đi là khôn. Ông bà sống cho tới khi chết, còn ông bà đi ra sao thì chuyện ấy không quan trọng, chết là chết. Thế nên tại sao chỉ vì ông Clutter bị cắt cổ mà cứ lẵng nhẵng đeo lấy cả một bị đầy những trò nghe thối tai đó làm gì? Kiểu gì thì cũng là bệnh hoạn. Polly Stringer nhà ở tít trên trường học ấy hả? Sáng nay Polly Stringer ở đây mà. Bà ấy bảo chỉ bây giờ, sau hơn một tháng thì trẻ con chúng mới hoàn hồn lại được. Điều này khiến tôi nghĩ: nếu họ bắt được một người thì sao? Nếu thế thì hẳn là một ai đó mà mọi người đều biết mới phải chứ. Và thế chắc là lại quạt cho lửa bùng to lên đây, cái nồi sôi đang bắt đầu nguội đi thì lại bê nó ra. Tôi thì tôi nói là chúng ta đã quá thừa kích động rồi.” Còn sớm, chưa tới chín giờ, Perry là người khách đầu tiên của tiệm giặt Washateria, một tiệm giặt tự phục vụ lấy. Hắn mở cái va li rơm căng phồng, lôi ra một mớ quần đùi, bít tất, sơ mi (một ít là của hắn, một ít của Dick), ném vào chậu rồi giắt thanh chì - một trong những thanh mua từ ở Mexico về - vào trong một máy để cho máy chạy. Perry rất thạo cách làm ăn của những cửa tiệm thế này, hắn thường hay đến đó và lấy làm sung sướng được “thư giãn” ngồi yên lặng chờ cho quần áo sạch khô. Nhưng hôm nay thì không. Hắn quá lo sợ. Mặc dù hắn đã cảnh cáo thế nào, Dick vẫn cứ thắng. Bây giờ chúng đã ở đây, quay lại Kansas City - mệt chết đi được, cuốc bộ, thêm vào đó nữa lại lái một chiếc xe ăn cắp! Cả đêm chúng đã phóng chiếc Chevrolet Iowa trong mưa dày hạt, đỗ hai lần để hút xăng, cả hai lần đều hút từ các xe đỗ ở mấy đường phố vắng ngắt của các thị trấn nhỏ đang ngủ yên lành. (Đây là việc của Perry, một việc mà hắn tự chấm điểm mình là “cao thủ vô đối. Chỉ cần một đoạn ống cao su ngắn, thế là đi cùng khắp xứ này đâu đâu tao cũng có xăng chả phải trả tiền.”) Hừng đông chúng đến Kansas City, đầu tiên là ra sân bay, vào phòng vệ sinh nam rửa ráy, cạo râu, đánh răng; hai giờ sau, khi đã làm một giấc ở phòng chờ máy bay, chúng quay trở lại thành phố. Chính ở đây Dick đã thả Perry xuống tiệm giặt Washateria, hứa một tiếng nữa sẽ quay lại đón. Quần áo đã sạch và khô, Perry nhét vào lại va li. Đã hơn mười giờ. Cứ cho rằng đi đâu đó để “tiêu séc giả” thì Dick cũng đã quá hạn. Hắn chọn một cái ghế dài, ngồi chờ. Chỉ cách có gang tay là một cái ví phụ nữ. Cái ví đang giục bàn tay hắn bò dần tới. Nhưng vóc dáng người chủ cái ví, vạm vỡ nhất trong đám đàn bà đang sử dụng máy giặt, làm cho hắn nhụt chí. Có lần, khi hắn còn là một thằng bé ma cô ở San Francisco, hắn và một “lỏi Tàu” (Tommy Chan à? Hay Tommy Lee?) đã cùng làm ăn với nhau như một “nhóm giật ví”. Perry nhớ lại - và việc đó làm hắn vui lên, hào hứng lên. “Như một lần tụi tôi lẻn đến bên một bà cụ già, rất già, Tommy túm lấy cái ví nhưng bà lão, đúng là một con cọp cái, không chịu buông. Tommy càng giằng khỏe, bà lão càng giữ chặt. Rồi bà ta thấy tôi, bèn nói, “Cứu với! Cứu với!” thì tôi mới nói, “Này bà già, mẹ kiếp, tôi đang cứu nó thì có!” và thụi bà ta tới số. Bà ta ngã xuống đường. Hai đứa lấy được tất cả có chín mươi xu - tôi còn nhớ chính xác. Hai đứa tôi vào một quán ăn ba tàu và ăn dưới gầm bàn.” Sự đời chẳng thay đổi mấy. Perry đã già hơn hai mươi tuổi và nặng hơn lên gần nửa tạ nhưng tình cảnh vật chất của hắn thì chẳng khấm khá lên được chút nào. Hắn vẫn cứ là thằng ăn bám cầu bơ cầu bất, sống nhờ mấy đồng bạc ăn cắp của người ta (mà có tin nổi không, một đứa thông minh như hắn, tài cán như hắn!). Mắt hắn vẫn không sao rời được chiếc đồng hồ trên tường. Mười giờ rưỡi, hắn bắt đầu lo lắng. Mười một giờ chân hắn nhức giật lên thon thót, dấu hiệu của cơn hoảng loạn đang đến, bao giờ cũng vậy, “máu tôi sủi bong bóng”. Hắn nhai một viên aspirin, và cố xóa sạch đi - ít nhất là làm mờ đi - những hình ảnh khủng khiếp đang như một đám rước sáng lòa sống động trôi qua đầu hắn: Dick ở trong tay cảnh sát, có lẽ bị bắt trong khi đang viết một tấm séc giả hay mắc vào một vụ phạm luật giao thông tẹp nhẹp nào đó (rồi bị phát hiện là lái một chiếc xe “chôm”). Rất có thể chính trong lúc này Dick đang bị sa lưới giữa vòng vây những thám tử hung hăng. Mà họ chẳng phải đang bàn ba cái chuyện ba láp như séc giả hay ăn cắp xe đâu. Án mạng kìa, đó mới là vấn đề, dù muốn thế nào thì cái mối liên hệ mà Dick cầm chắc là không ai mò ra được đã bị mò ra. Và ngay bây giờ một xe đầy cảnh sát đang trên đường phóng tới Washateria đây. Nhưng không, hắn tưởng tượng quá đấy thôi, Dick chẳng bao giờ làm thế. Nghĩ mà xem hắn thường nghe Dick nói thế nào. “Chúng có đánh tớ mù đi nữa tớ cũng không bao giờ nói cho nó biết cái gì hết á.” Dĩ nhiên Dick là một “cha phét lác”, hắn chỉ dữ dằn trong những trường hợp hắn rõ ràng là ở trên cơ, Perry biết quá rõ. Thình lình, vừa hay, hắn nghĩ đến một lý do ít làm hắn nản lòng hơn cho việc Dick vắng mặt lâu. Dick đi thăm bố mẹ hắn. Một việc làm nguy hiểm nhưng Dick là thằng “dốc lòng hiếu tử”, hay là hắn tuyên bố mồm như thế, đêm qua trong chuyến đi dài dưới mưa hắn đã bảo Perry, “Tớ muốn gặp ông bà già tớ. Các cụ không nói ra đâu, tớ muốn nói là các cụ sẽ không báo cho viên giám sát tù tạm tha đâu, sẽ không làm việc gì khiến chúng ta rắc rối. Tớ chỉ xấu hổ. Tớ sợ cái điều mẹ tớ sẽ nói. Về các tờ séc. Rồi đi tuốt như chúng ta. Nhưng tớ mong có thể gọi cho các cụ, nghe xem các cụ ra sao.” Nhưng việc đó là bất khả, vì nhà Hickock không có điện thoại; nếu có thì Perry đã reng một cái để xem Dick có đó hay không. Ít phút sau, hắn lại đinh ninh Dick đã bị bắt thật. Chỗ chân đau của hắn rực nhói lên, lóe sáng khắp cơ thể hắn, và mùi nước giặt giũ, mùi hôi nồng nặc khói, tất cả lập tức làm hắn như phát ốm, kéo bật hắn dậy, đẩy hắn nhào ra cửa. Hắn đứng nơi vệ đường mà nôn như “một thằng say quắc cần câu”. Kansas City! Hắn chẳng đã biết Kansas City là vận đen và đã van Dick lánh cho xa đó sao? Bây giờ, có thể bây giờ, Dick đang hối hận là đã không nghe hắn. Và hắn nghĩ: còn ta thì sao đây, “với một hai hào lẻ và một bó những thanh chì vụn trong túi?” Đi đâu được đây? Ai giúp được hắn chứ? Bobo? Ở đó mà mong! Nhưng chồng mụ thì có thể. Theo tính của Fred Johnson thì có thể sẽ bảo đảm cho Perry một việc làm sau khi ra tù, vậy là giúp hắn giữ lời hứa. Nhưng Bobo không chịu; mụ đã nói như thế chỉ dẫn đến rắc rối, và có thể nguy hiểm nữa. Thế rồi mụ đã biên thư cho Perry nói rõ ràng ra như thế. Một ngày nào đó hắn sẽ trả đũa cho mụ biết tay, vui vẻ tí chơi, chuyện vãn với mụ - khoe khả năng của hắn, nhả ra chi tiết những trò hắn có thể làm với những người như mụ, những người đáng kính, an toàn và phè phỡn chính xác giống như Bobo. Đúng, cho mụ biết hắn có thể nguy hiểm đến thế nào, cho mụ sáng mắt ra. Đó là điều hắn đã làm - đi Denver thăm nhà Johnson. Fred Johnson sẽ đỡ đần để cho cuộc đời mới của hắn bắt đầu khởi động; ông ta cần phải làm thế nếu ông ta muốn tống khứ hắn đi cho khuất mắt. Lúc đó Dick lại gần hắn ở chỗ vệ đường. “Kìa, Perry, hắn nói, “cậu ốm à?” Âm thanh tiếng nói của Dick như một phát tiêm ma túy mạnh, một chất ma túy, xâm chiếm các tĩnh mạch của hắn, gây ra một cơn mê sảng gồm những cảm giác chống chọi nhau: căng thẳng và thư giãn, phẫn nộ và âu yếm. Hai tay nắm lại thành quả đấm, hắn tiến về phía Dick. “Mày, thằng chó,” hắn nói. Dick cười toe toét, nói, “Thôi nào. Chúng ta lại được ăn rồi đây.” Nhưng theo lệ là phải có giải thích - và cả xin lỗi nữa - thế rồi khi hai đứa ngồi xơi một bát thịt bò ớt đậu ở nhà hàng thịt băm Buýp Phê Đại Bàng mà Dick thích nhất ở Kansas City, Dick nói, “Tớ xin lỗi, bồ. Tớ biết cậu sẽ nổi cơn mà. Thử nghĩ xem, làm thế nào tớ lại đụng ngay một tên cớm. Nhưng vận tớ cũng đỏ gớm, cho nên chắc là tớ thoát được rồi.” Hắn giải thích rằng sau khi chia tay với Perry, hắn đến công ty Markl Buick, là cái hãng xe hơi đã có lần thuê hắn, hy vọng kiếm được một cặp biển số xe để thay cho cặp biển số dễ bị phát hiện của chiếc Chevrolet chúng cuỗm. “Tớ lẻn vào rồi ra mà chẳng ma nào thấy cả. Markl vốn là một nơi nổi tiếng bán xe bẹp xe nát. Quả nhiên là ở đằng sau công ty có một chiếc De Soto bẹp rúm với biển của bang Kansas.” Còn hiện thời thì chúng ở đâu nào? “Ở trên cỗ xe một ngựa của chúng ta đây, bạn ơi.” Thay biển số xong, Dick ném biển số của bang Iowa vào một bể chứa nước của thành phố. Rồi hắn đỗ lại ở một trạm xăng mà thằng bạn học cùng lớp với hắn trước kia tên là Steve đang làm việc, hắn thuyết phục Steve nhận thanh toán bằng tấm séc năm chục đô, điều trước đây hắn chưa từng làm bao giờ - “bịp một thằng bạn hữu”. Thôi được, hắn chẳng bao giờ gặp lại Steve nữa đâu mà. Đêm nay hắn sẽ “tách hộ khẩu” ra khỏi Kansas City, lần này thì là mãi mãi. Hà cớ gì mà không xiết dăm thằng bạn cũ nào? Với ý nghĩ đó, hắn đã tìm một bạn học cùng lớp khác, làm nghề bán thuốc. Ở đây hắn mua sắm đến bảy mươi đô. “Giờ thì, tối nay, chúng mình sẽ chơi cho tới hai trăm. Tớ đã lên danh sách những nơi đánh phá rồi. Sáu bảy chỗ, bắt đầu ngay từ đây,” hắn nói, ý bảo chính Buýp Phê Đại Bàng đây, nơi mà tất cả mọi người - từ tay đứng quầy cho đến các anh bồi - thảy đều biết hắn và ưa hắn, gọi hắn là Dưa Chua (để vinh danh món khoái khẩu của hắn). “Rồi thì Florida, ta sẽ đến đó. Thấy sao hở bồ? Tớ chẳng đã hứa là chúng mình sẽ ăn Nôen ở Miami đó sao? Y hệt như mọi thằng triệu phú nhá.” Dewey và đồng sự, đặc vụ K.B.I Clarence Duntz đang đứng chờ bàn trống ở Phòng Lối mòn. Nhìn quanh các bộ mặt quen thuộc vào giờ ăn trưa - đám doanh nhân da thịt mềm nhẽo và cánh chủ trại rám nắng nước da thô - Dewey nhận ra những người quen đặc biệt: bác sĩ Fenton, chuyên viên pháp y địa phương; Tom Mahar, ông giám đốc Warren; Harrison Smith, người đã tranh cử chức chưởng lý tỉnh năm ngoái nhưng thua Duane West, cả Herbert W. Clutter, chủ Trại Lũng Sông và là thành viên dự học Trường Chủ nhật của Dewey. Khoan, khoan nào! Chẳng phải là Dewey đã dự đám tang ông ta hay sao? Thế mà ông ta lại ở đây, ngồi ở góc lượn tròn của Phòng Lối mòn, đôi mắt màu nâu linh hoạt, đôi quai hàm vuông góc, vẻ tốt lành chân chất không hề bị cái chết làm khác đi chút nào. Nhưng Herb không ngồi một mình. Cùng bàn với ông có hai người trẻ tuổi và, nhận ra họ, Dewey bèn huých Duntz. “Nhìn kìa.” “Đâu cơ?” “Quỷ tha ma bắt!” Hickock và Smith đó! Nhưng hai bên lúc này đều đã nhận ra nhau. Hai thằng kia ngửi thấy nguy hiểm. Chúng quăng mình, qua cửa kính Phòng Lối mòn, chân đi trước, Dewey và Duntz nhảy bổ theo sau, hộc tốc chạy dọc Phố Chính, qua Palmer Jewelry, Norris Drugs, quán cà phê Garden, vòng góc phố xuôi xuống nhà ga rồi chui vào, thụt ra, trốn tìm ú tim giữa một lô những tòa tháp trắng cất giữ hạt ngũ cốc. Dewey rút súng, Duntz cũng vậy, nhưng khi họ nhắm bắn thì xảy ra điều kỳ dị. Thình lình, hết sức khó hiểu, (như trong giấc mơ vậy!) ai cũng đều bơi hết - kẻ đuổi, thằng chạy - đạp thòm thòm cái mặt nước rộng ghê gớm mà Phòng Thương mại Garden City rêu rao là “Bể bơi KHÔNG MẤT TIỀN lớn nhất thế giới”. Khi hai vị thám tử chạy ngang hàng với hai con mồi thì kìa, thêm lần nữa cảnh tượng đó lại nhòa mờ đi, nhòa mờ thành một cảnh tượng khác (Làm sao lại xảy ra cái trò này được nhỉ? Mình đang mê chăng?): nghĩa trang Cảnh Lũng, cái hòn đảo xám xanh của những nấm mồ, những thân cây những lối đi có trồng hoa, một ốc đảo yên bình cành lá xum xuê khe khẽ rì rào tựa như mảng bóng mây râm mát trên những bình nguyên trồng lúa mì rờ rỡ ở phía Bắc thị trấn. Nhưng bây giờ thì Duntz biến mất, còn lại Dewey với hai kẻ bị săn đuổi. Mặc dù không thấy chúng, ông biết chắc chúng đang trốn giữa những người chết, lom khom nấp sau một tấm bia mộ, có khi là bia mộ của chính cha ông: “Alvin Adams Dewey, 06/09/1879-26/01/1948”. Súng trong tay, ông bò dọc các lối mòn trang nghiêm, cho tới khi nghe tiếng cười và mò ra được hướng của nó, ông nhìn thấy Smith và Hickock nhưng chúng không hề ẩn nấp gì hết mà đang đứng xoạc cẳng trên nấm mồ chung hãy còn chưa được khắc tên của Herb, Bonnie, Nancy và Kenyon, chúng đứng dạng chân, tay chống nạnh, đầu ngật ra đằng sau, cười sằng sặc. Dewey bắn... bắn nữa... bắn nữa... Không ai ngã, tuy đứa nào cũng đã bị bắn ba phát trúng tim; chúng chỉ từ từ biến thành trong suốt, từng tí từng tí một hóa thành vô hình, bốc hơi, mặc dù tiếng cười vẫn cứ tràn ra cho tới lúc Dewey cúi xuống, chạy xa khỏi nó, lòng tràn ngập một nỗi tuyệt vọng quá mênh mông và chính nó đã đánh thức ông. Khi tỉnh lại, ông tựa như là một đứa nhỏ mười tuổi đang ốm sốt và run lật bật; tóc ông ướt đầm, sơ mi sũng mồ hôi dính bết vào người. Căn phòng ở sở cảnh sát, nơi ông đã khóa trái tự nhốt mình trước khi ngủ vùi nơi bàn giấy, thì lờ mờ trong ánh chiều hôm. Lắng tai, ông nghe thấy điện thoại của bà Richardson réo trong buồng làm việc kế bên. Nhưng bà không ở đấy để trả lời; văn phòng đã đóng cửa. Trên đường đi ra, ông đã tính cứ mặc kệ chiếc điện thoại reo, nhưng rồi ông ngập ngừng. Có thể là Marie gọi hỏi xem ông có còn làm việc không, bà có nên chờ ông về ăn tới không. “Ông A. A. Dewey, xin hỏi. Kansas City đang gọi.” “Tôi, Dewey đây.” “Kìa, nói đi, Kansas City. Người của các ông đang ở đầu dây đó.” “À? Nye đây.” “À cậu đó hả.” “Chuẩn bị mà đón mấy tin rất tuyệt đây.” “Chuẩn bị xong.” “Bọn bạn chúng mình ở đây. Ngay tại Kansas City này.” “Sao cậu biết?” “À, chúng có giữ bí mật quái gì đâu. Hickock đi từ đầu này đến đầu kia thị trấn viết các tờ séc. Lấy ngay tên nó.” “Chính tên nó. Vậy ắt có nghĩa là nó không định nán lâu ở đây - hoặc là thế hoặc là nó vững tin ở nó ghê lắm. Thế Smith vẫn cứ ở với nó à?” “Ồ, vẫn rất O.K với nhau. Nhưng lái một chiếc xe khác. Một chiếc Chevrolet 1956 - hai cửa, sơn trắng và đen.” “Biển Kansas?” “Biển Kansas. À nghe này Al, cánh ta may đấy! Chúng nó mua một cái ti vi, nghe không? Hickock đưa cho người bán một tấm séc. Vừa lúc chúng lái đi thì người này lại nảy ý ghi lại luôn biển số xe chúng nó. Phê ngay vào lưng séc. Johnson County, biển số 16212.” “Kiểm tra số đăng ký xe chưa?” “Đoán coi nào?” “Đó là xe ăn cắp.” “Chứ còn gì nữa. Nhưng biển số dứt khoát đã được thay. Các ông bạn chúng ta lấy biển số từ chiếc De Soto bẹp ở một ga ra tại Kansas City.” “Được biết lúc nào?” “Sáng qua. Ông chủ (Logan Sanford) có trình báo khẩn về số xe mới và mô tả xe rồi.” “Còn cái trại của Hickock thì sao? Nếu chúng nó còn ở trong khu này thì chắc hẳn sớm muộn gì cũng sẽ đến đó.” “Chớ lo. Bọn mình đã theo dõi ở đó rồi. Al à...” “Đây.” “Mình chỉ mong có thế. Cho lễ Nôen này. Chỉ mong có thế. Gói xong được vụ này. Gói xong là ngủ liền cho tới năm mới. Chẳng phải là một quà tặng oách đó sao?” “Mình hy vọng cậu sẽ có được quà tặng đó.” “Được, hy vọng cả hai chúng mình đều được.” Sau đó, khi đi qua quảng trường tòa án đang tối dần, tư lự kéo lê chân trong đống lá khô rụng chưa vun lại, tự hỏi tại sao mình không hề phấn khởi trước cái tin kia. Tại sao, khi lúc này ông đã biết những kẻ tình nghi không phải mất hút mãi mãi vào Alaska hay Mexico hay Timbuctoo, khi chỉ một giây nữa thôi sẽ có thể tiến hành bắt chúng - mà ông lại không cảm thấy chút kích động nào như lẽ ra phải thế nhỉ? Cái lỗi là ở giấc mơ hồi nãy, vì tâm trạng buồn thảm của nó vẫn còn lởn vởn chưa tan, làm cho ông phải nghi vấn về những lời khẳng định của Nye - ở một nghĩa nào đó là không tin. Ông không tin rằng Hickock và Smith sẽ bị bắt ở Kansas City. Chúng bất khả xâm phạm. Bờ biển Miami, 355 Ocean Drive là địa chỉ của khách sạn Somerset, một tòa nhà vuông vức, nhỏ, sơn ít nhiều màu trắng, với nhiều vết chấm quệt màu oải hương, có tấm biển hiệu màu tím nhạt đề “Có chỗ - Giá hạ nhất - Tiện nghi dùng trên bãi biển - Luôn có gió biển mát mẻ.” Đó là một trong những khách sạn xây xi măng và vữa xếp hàng dọc khu phố trắng lóa, buồn thiu. Tháng Mười hai năm 1959, “tiện nghi dùng trên bãi biển” của Somerset gồm có hai cái dù cắm vào một dải cát ở đằng sau khách sạn. Một cái dù, màu hồng, có chữ đề “Chúng tôi có bán kem Valentine.” Ngày Nôen, vào buổi trưa, một bộ bốn bà nằm lê la dưới và quanh cái dù, một chiếc rađiô bán dẫn dâng hiến mấy bà các bản tình ca. Cái dù thứ hai, màu lam, mang mệnh lệnh “Hãy làm rám nắng bằng thuốc Coppertone” thì che cho Dick và Perry, hai thằng đã sống năm ngày tại Somerset, trong một buồng đôi thuê mỗi tuần mười tám đô la. Perry nói. “Cậu chưa bao giờ chúc tớ Nôen vui vẻ.” “Nào bồ, Nôen vui vẻ. Và chúc mừng năm mới.” Dick mặc quần tắm nhưng Perry thì, như ở Acapulco, từ chối phơi chân cẳng tàn tật của mình ra - hắn sợ cái hình ảnh ấy sẽ “xúc phạm” những người tắm biển khác - vậy nên hắn ngồi đó quần áo y nguyên, cả giày và bít tất. Tuy nhiên hắn vẫn tương đối hài lòng, và khi Dick đứng lên bắt đầu biểu diễn mấy động tác thể dục - trồng cây chuối, cố ý gây ấn tượng với mấy bà bên dưới cái dù hồng - thì hắn đọc tờ Herald của Miami. Một bài ở trang trong lôi cuốn toàn bộ tâm trí hắn. Nó nói về án mạng, vụ giết một gia đình ở Florida, ông và bà Clifford Walker, đứa con trai lên bốn và đứa con gái lên hai của ông bà này. Mỗi nạn nhân, tuy không bị trói và dán miệng, đều bị bắn xuyên đầu bằng súng nòng 22 ly. Không có dấu vết và có vẻ không có động cơ gì, vụ án xảy ra đêm thứ Bảy, ngày 19 tháng Mười hai, tại nhà ông Walker, một trại chăn nuôi gia súc không xa Tallahassee là bao. Perry bảo Dick ngừng biểu diễn để đọc to bài báo lên rồi nói, “Đêm thứ Bảy trước chúng mình ở đâu nhỉ?” “Tallahassee à?” “Tớ đang hỏi cậu mà.” Dick tập trung suy nghĩ. Đêm thứ Năm, thay nhau ngồi lái, chúng đã ra khỏi Kansas, qua bang Missouri vào Arkansas và đến tận Ozarks, “tít” mãi trên bang Louisiana, ở đó, một máy phát điện bị cháy khiến chúng phải dừng lại vào sáng sớm thứ Sáu. (Ở Shreveport, chúng mua máy khác thay, đồ cũ dùng lại, giá hai mươi hai đô rưỡi.) Đêm đó chúng đỗ xe lại ngủ ở lề đường, một nơi nào đó gần biên giới hai bang Alabama và Florida. Chuyến đi ngày hôm sau, chẳng vội vàng hấp tấp gì, gồm có nhiều đoạn vòng vèo để du lịch - đến thăm một trại nuôi cá sấu châu Mỹ và một trại nuôi rắn đuôi chuông, đi tàu đáy thủy tinh trên một cái hồ ngập nước trong như bạc, một bữa trưa, thật ra là lúc đã gần về chiều, kéo dài và đắt đỏ, toàn tôm hùm nướng, ở một quán ăn hải sản bên đường. Ngày đẹp làm sao! Nhưng cả hai đều mệt phờ khi tới Tallahassee cho nên đã quyết định qua đêm ở đây. “Đúng, Taliahassee!” Dick nói. “Ngộ thật!” Perry đọc qua bài báo lần nữa. “Biết vì sao tớ không ngạc nhiên không? Cái này mà lại không phải do một thằng điên nào đó làm à. Thằng ngu nào đó đọc được về những gì xảy ra ở đằng Kansas ấy.” Vì không thiết nghe Perry “lại xoáy vào cái chuyện kia”, Dick nhún vai mỉm cười rồi nhon nhón đi ra rìa nước, phơi cho ửng hồng da thịt lên một lúc ở trên mặt cát bị sóng tấp vào đẫm nước, lom khom cúi chỗ này chỗ kia nhặt vỏ ốc. Lúc còn bé hắn ganh vô cùng với thằng con nhà hàng xóm cứ ngày lễ là đến bờ biển Gulf Coast và quay về với những cái hộp đầy ốc - sao mà hắn ghét thằng đó thế, cho nên hắn mới ăn cắp hết mớ vỏ ốc đó và lấy búa đập cho nát từng con một. Lòng đố kỵ luôn luôn tồn tại trong người hắn; kẻ thù là bất cứ ai, bất cứ kẻ nào mà hắn muốn mình trở thành hoặc là kẻ có bất cứ thứ gì đấy hắn muốn có. Chẳng hạn, người đàn ông hắn đã trông thấy ở bên bể bơi Fontainebleau. Dù xa hàng dặm, hắn vẫn có thể nhìn thấy, phủ dưới tấm màn mỏng do hơi nóng bốc lên và ánh biển mùa hè lấp lóa, những nóc tháp của các khách sạn mờ mờ xa xỉ - khách sạn Fontainebleau, khách sạn Eden Roc, khách sạn Roney Plaza. Ngày thứ hai đến Miami, hắn đã gợi ý với Perry là chúng sẽ xâm nhập vào những nhà-vòm-lạc-thú đó. “May ra lại vớ được một cặp mụ già giàu sụ thì sao,” hắn nói. Perry do dự lắm; hắn cảm thấy người ta sẽ nhìn chằm chằm vào chúng vì những cái quần kaki và áo ba lô. Thật ra, chuyến thăm viếng những gian nhà xa hoa tráng lệ của Fontainebleau đã chẳng hề bị ai để ý tới, chúng lẫn hòa trong đám người đi lại loanh quanh vận quần soóc Bermuda bằng lụa mộc kẻ sọc óng ánh, những người đàn bà mặc quần áo tắm đồng thời khoác áo choàng bằng lông chồn vidông. Hai kẻ đột nhập loanh quanh trong hành lang đại sảnh, la cà vào vườn, phất phơ bên bể bơi. Dick nhìn thấy người đàn ông ấy ở chỗ này, hắn trạc tuổi Dick - hai tám ba mươi gì đó. Hắn có thể là một “tay cờ bạc đỏ đen hay luật sư hay có lẽ là một gã găng tơ Chicago không chừng”. Dù là gì đi nữa, nom như hắn đã hiểu hết mọi vinh quang của đồng tiền và quyền lực. Một cô gái tóc vàng giống hệt Marilyn Monroe đang xoa dầu bắt nắng lên người hắn, bàn tay đầy nhẫn, lười biếng của hắn với ra lấy một cốc nước cam ướp lạnh. Tất cả cái đó thuộc về hắn, thằng Dick này, nhưng hắn sẽ không bao giờ có được. Tại sao thằng chó đẻ ấy lại có mọi thứ, trong khi mình thì không? Tại sao cái thằng cha “chó chết thối thây” ấy lại có mọi sự may như thế? Với một con dao trong tay thì hắn, Dick, hắn cũng sẽ có quyền lực thôi. Bọn chó chết thối thây này tốt hơn hết là hãy liệu hồn không thì hắn có thể “phanh cái thây chúng toang hoang ra để cho cái vận đỏ của chúng phọt lên mặt sàn nhà”. Nhưng ngày hôm nay của Dick thì lụn bại rồi. Cô gái tóc vàng xinh đẹp xoa xoa mãi dầu bắt nắng kia đã làm cho nó bị lụn bại mất rồi. Hắn bảo Perry, “Chúng mình rút mẹ nó ra khỏi đây đi.” Bây giờ một đứa con gái, chắc tầm mười hai tuổi, đang vẽ những hình thù lên cát, cầm một mảnh gỗ trôi dạt tạc những mặt người thô kệch, to đùng. Lấy cớ chiêm ngưỡng nghệ thuật của nó, Dick cho nó những con ốc nhặt được. “Làm mặt cho bọn kia được đấy,” hắn nói. Đứa bé nhận món quà và hắn nháy mắt với nó. Hắn cảm thấy ân hận khi làm như thế với đứa bé, vì thói quan tâm bậy bạ đến trẻ gái là một nhược điểm mà hắn “thật lòng lấy làm xấu hổ” - một bí mật hắn không tâm sự với ai và hy vọng không ai ngờ (tuy hắn biết Perry có để ý tới), vì người khác có thể nghĩ như thế là không “bình thường”. Mà chắc chắn là hắn tự đinh ninh về mình như vậy - “một người bình thường”. Gạ gẫm gái dậy thì, như hắn đã làm “tám chín bận” trong mấy năm vừa qua, không hề chứng tỏ điều ngược lại, bởi vì sự thật rành rành ra đấy, phần lớn đàn ông thứ thiệt đều có ham muốn giống như hắn thôi. Hắn nắm bàn tay đứa nhỏ nói, “Cháu là cháu gái cưng của chú. Bồ thân yêu bé bỏng của chú.” Nhưng đứa nhỏ phản đối. Bàn tay nó, bị hắn nắm lấy, giẫy lên như con cá mắc câu, và hắn nhận ra cái vẻ kinh ngạc trong mắt nó, nhớ những vụ xảy ra trước đây trong cái nghiệp này của hắn. Hắn thả tay ra, khe khẽ cười và nói, “Đùa thôi. Bé không thích đùa vui à?” Vẫn nằm dài dưới cái dù lam, Perry đã quan sát thấy cảnh này và lập tức hiểu ra mục đích của Dick, hắn liền lập tức khinh bỉ; hắn “không có một chút kính trọng nào với những ai không kiềm chế được bản thân về mặt tình dục”, đặc biệt là sự thiếu kiềm chế này lại dính đến cái mà hắn gọi là “sự lệch lạc bệnh hoạn” - “dụ trẻ”, “pêđê”, hiếp dâm. Và hắn nghĩ hắn đã tỏ thái độ rõ ràng với Dick rồi; đúng vậy, chẳng phải chúng đã suýt nữa thì đấm đá nhau, mới đây thôi chả phải hắn đã ngăn Dick không được hiếp một đứa con gái đang kinh hoảng đấy sao? Nhưng hắn sẽ chẳng dám nhắc lại cuộc đọ sức đặc biệt như thế nữa. Hắn nhẹ người thấy đứa nhỏ đi ra xa khỏi Dick. Những bài hát Nôen đầy ắp trong không khí; chúng ào ra từ chiếc rađiô của bốn người đàn bà và hòa trộn lạ lùng vào với ánh nắng của Miami, hòa với tiếng kêu của những con hải âu không bao giờ ngừng cãi cọ, không bao giờ im lặng hoàn toàn. “Ôi, chúng ta hãy đến thờ phụng yêu kính Người. Ôi, chúng ta hãy đến thờ phụng yêu kính Người”: một bài đồng ca nhà thờ, một điệu nhạc cao quý khiến Perry tràn nước mắt - những giọt nước không chịu ngừng tuôn dù tiếng nhạc đã tắt. Và như một điều không hiếm hoi gì vẫn xảy ra khi hắn bị xúc động đến như thế, hắn lại dấn sâu vào cái khả năng có “sức dụ dỗ ghê gớm” đối với hắn: tự sát. Lúc bé hắn thường nghĩ tới việc tự sát, nhưng đó là những mơ mộng sướt mướt đa cảm đẻ ra từ lòng mong muốn trừng phạt bố hay mẹ hay những kẻ thù khác mà thôi. Nhưng từ ngày trưởng thành làm người, cái viễn cảnh kết liễu cuộc đời hắn ngày càng mất đi chất huyền ảo của nó. Hắn chắc phải nhớ rằng đó là “giải pháp” của Jimmy, và của Fern nữa. Sau này nó đã đi tới chỗ có vẻ như không chỉ là một sự lựa chọn nữa mà chính là cái chết cụ thể đang chờ đợi hắn. Muốn gì thì hắn cũng thấy là hắn “chẳng có gì nhiều nhặn để vì nó mà sống”. Những hòn đảo nóng bức, vàng bạc châu báu chôn dưới đất sâu, lặn sâu vào những vùng biển nước màu lửa xanh để tới các kho tàng đắm - những giấc mơ như thế đã tắt ngấm cả rồi. Tắt ngấm rồi, cả “Perry O’Parsons”, cái tên đặt ra cho có chút du dương lúc hát trên sân khấu hay màn bạc, điều hắn đã nghiêm túc hy vọng là có một ngày nó sẽ thành sự thực. Chưa được sống, Perry O’Parsons đã chết ngóm. Có cái gì để nhằm tới cơ chứ? Hắn và Dick “đang chạy trên một đường đua không có đích - đó là điều làm cho hắn bàng hoàng. Và bây giờ, sau chưa đến một tuần ở Miami, cuộc xê dịch dài dằng dặc lại sắp sửa bắt đầu trở lại. Mới làm việc một ngày ở công ty dịch vụ xe hơi ABC với mức lương sáu mươi lăm xen một giờ, Dick đã bảo hắn, “Miami đếch bằng Mexico. Sáu lăm xu! Tớ thì không đâu nhé. Tớ là da trắng.” Cho nên ngày mai, với hai mươi bảy đô la gây dựng ở Kansas City còn sót lại, chúng ta hướng về phía Tây mà lên đường nữa, tới Texas, tới Nevada - “không đâu dứt khoát hết”. Dick lội vào trong sóng xong giờ quay lại. Hắn vật mình xuống bờ cát dính nhớp, úp mặt, im lìm không thở, người ướt đầm. “Nước thế nào?” “Tuyệt.” Sinh nhật của Nancy Clutter vào ngay sau Tết nên rất gần với Nôen, việc ấy gây ra bao nhiêu là sự khó cho Bobby Rupp bạn trai cô. Cậu đã căng hết óc cố nghĩ cho ra hai món quà thích hợp cho hai dịp gần nhau quá như thế. Nhưng hằng năm, với số tiền kiếm được trong dịp hè làm việc - trang trại củ cải đường của bố, cậu đã cố hết sức làm lụng, và rồi sáng Nôen hối hả đến nhà Clutter mang theo một bọc mà các chị em cậu đã giúp gói ghém cho và cậu hy vọng sẽ làm cho Nancy ngạc nhiên vui thích. Năm ngoái cậu tặng cô một trái tim nho nhỏ bằng vàng có lồng ảnh. Năm nay, cũng lo trước như mọi lần, cậu đang phân vân giữa nước hoa ngoại nhập bán ở tiệm thuốc Norris và đôi ủng cưỡi ngựa. Nhưng rồi Nancy chết. Sáng Nôen, thay vì nhào đến Trại Lũng Sông, cậu ở nhà và đến tối thì cùng gia đình chia sẻ bữa ăn linh đình mà mẹ cậu đã để cả tuần ra lo liệu. Mọi người - bố mẹ và bảy anh chị em cậu - đều dịu dàng ân cần với cậu do câu chuyện bi thảm kia. Không ai hiểu cho rằng cậu đang ốm thật, rằng bi thương đã khiến cậu như thế, bi thương đã kéo đến quanh cậu một vòng tròn mà cậu không thể thoát ra, cũng như không ai có thể bước vào - có lẽ trừ Sue. Trước khi Nancy chết cậu không đánh giá đúng Sue, không bao giờ thấy thoải mái khi ở bên cô. Cô quá khác - coi là nghiêm túc những việc mà ngay cả các cô gái cũng không cần coi nghiêm túc: vẽ, làm thơ, những bản nhạc cô chơi trên piano. Và dĩ nhiên cậu tị với cô: vị trí của cô trong thang đánh giá của Nancy ít nhất là cũng ngang với vị trí của cậu, tuy thuộc một trật tự khác. Nhưng chính vì vậy mà cô hiểu được sự mất mát của cậu. Không có Sue, không có cô gần như ở thường xuyên bên cậu thì làm sao cậu chịu nổi một loạt những chấn động đổ xuống mình như vậy - bản thân tội ác, những cuộc thẩm vấn của John Dewey, sự nực cười pha lẫn bi kịch của việc cậu đã từng một dạo là nghi phạm? Rồi, sau khoảng chừng một tháng, tình bạn lụi đi. Bobby ít đến ngồi ở gian phòng khách xinh xinh ấm cúng của nhà Kidwell hơn và nếu cậu có đến thì xem vẻ Sue cũng bớt đón mừng hơn. Rắc rối là ở chỗ cái điều họ đang muốn quên đi thì hai người lại cứ buộc nhau than khóc tưởng niệm đến nó. Đôi lúc, khi chơi bóng rổ hay lái xe tám chục dặm một giờ trên các con đường quê, hay khi, như một phần của chương trình rèn luyện tự đặt ra (tham vọng của Bobby là sẽ làm huấn luyện viên thể dục ở trường trưng học), cậu chạy bộ một cự ly dài qua các cánh đồng bằng phẳng vàng óng thì cậu có thể quên. Còn bây giờ, sau khi giúp dọn hết đĩa thìa ở bàn ăn bữa tối ngày lễ, việc cậu quyết định làm là mặc áo len vào rồi đi vơ vẩn một lát. Thời tiết khá đẹp. Ngay cả với miền Tây Kansas đây, vốn nổi tiếng bởi mùa hè da đỏ kéo dài của nó, mẫu thời tiết này cũng là không tự nhiên - không khí khô, mặt trời gắt, bầu trời xanh. Các nhà chăn nuôi lạc quan dự đoán một “mùa đông mở” - một mùa dìu dịu đến nỗi gia súc có thể gặm cỏ suốt cả mùa. Những mùa đông như thế hiếm xảy ra nhưng Bobby có thể nhớ được một - cái năm cậu bắt đầu tán tỉnh Nancy. Cả hai lúc đó đều mười hai tuổi, sau giờ học cậu hay mang cặp sách của cô đi suốt một dặm từ trường Holcomb về nông trại của bố mẹ cô. Nếu thời tiết nóng mặt trời rừng rực, hai đứa thường dừng lại trên đường, ngồi xuống bên sông, một mẩu của con sông Arkansas uốn khúc, dòng nước nâu lờ đờ chảy. Một lần Nancy bảo cậu, “Có một mùa hè, hồi nhà tớ ở Colorado, tớ đã thấy chỗ con sông Arkansas bắt đầu. Đúng chỗ ấy. Nhưng cậu sẽ không tin nó là con sông của chúng ta đâu. Nó không màu này. Mà trong như nước uống cơ. Chảy nhanh nữa. Và đầy những tảng đá. Những vực xoáy. Bố bắt được một con cá hồi.” Chuyện này, ký ức của Nancy về thượng nguồn của con sông, đã ở lại với Bobby, và từ khi Nancy chết… Chà, cậu không giải thích được, nhưng bất cứ khi nào cậu nhìn con sông Arkansas thì trong chốc lát nó liền biến đổi, cái cậu nhìn thấy không phải một dải nước pha bùn quanh co lượn qua các bình nguyên bang Kansas mà là cái Nancy đã tả - một con lũ Colorado lạnh buốt, trong như pha lê, có cá hồi và lao vút xuống thung lũng. Nancy đã từng là thế đó: như con nước trẻ trung - mãnh liệt, tươi vui. Nhưng mùa đông miền Tây Kansas thường làm đường sá tê liệt, làm băng đóng trên các cánh đồng và giờ như dao cạo khiến thời tiết trước Nôen biến đổi. Vài năm qua, tuyết luôn rơi vào đêm Nôen và vẫn tiếp tục rơi, và sáng hôm sau khi Bobby lên đường tới cơ ngơi nhà Clutter, một cuốc đi bộ ba dặm, cậu đã phải vật lộn với những vạt tuyết cao ngất. Đáng như thế, vì tuy cậu bị cứng đơ ra và cả người đỏ tía nhưng sự đón tiếp mà cậu nhận được đã làm băng tuyết trong cậu tan hoàn toàn. Nancy bàng hoàng và tự hào, mẹ cô thường ngày vốn rụt rè xa cách thì ôm choàng lấy cậu mà hôn, nài cậu quấn một tấm chăn rồi ngồi gần bên đống lửa trong phòng khách nhỏ. Trong khi cánh phụ nữ làm lụng trong bếp, cậu và Kenyon cùng ông Clutter ngồi quanh lửa tách hạt dẻ và quả hồ đào; ông Clutter bảo ông nhớ lại một Nôen khác, hồi ông bằng tuổi Kenyon, “Chúng tôi có bảy người, mẹ, bố tôi, hai cô con gái và ba cậu con trai bọn tôi. Chúng tôi ở một nông trại xa thị trấn lắm... Vì lý do đó chúng tôi thành ra có thói quen mua sắm cho Nôen tất tật cùng một lượt - làm một chuyến đi và mua hết tất cả. Cái năm mà tôi đang nhớ lại đây, buổi sáng chúng tôi toan đi thì tuyết rơi cao như hôm nay này, cao hơn ấy, và cứ rơi hoài, những bông tuyết to như cái đĩa. Coi vẻ chúng tôi đang lâm vào cảnh Nôen bị tuyết trói chân và chẳng có quà cáp gì treo dưới cây thông. Mẹ tôi và đám con buồn thiu. Rồi tôi nảy ra một ý.” Ông sẽ đóng yên cương lên con ngựa cày khỏe nhất rồi cưỡi vào trong thành phố mua mọi thứ cho cả nhà. Mọi người tán thành. Tất cả đưa chỗ tiền để dành của mình ra cho ông cùng một danh sách các thứ mình muốn mua: bốn mét vải bông, một quả bóng, một cái gối cắm kim khâu, đạn súng săn - một loạt yêu cầu mà mãi đến tối ông mới thực hiện được đầy đủ. Trên đường về nhà, các thứ đó được đựng trong một cái xắc bằng vải dầu, ông biết ơn bố đã bắt ông phải mang theo cây đèn bão, và ông lại còn vui nữa là vì yên cương ngựa có gắn chuông, vì cả tiếng chuông leng keng lẫn ánh đèn bão lắc lư đều làm cho ông dễ chịu. “Bình thường thì đi dễ, ngon ơ. Nhưng nay thì chả còn đường, kể cả bất cứ cái gì làm mốc cũng chả thấy đâu nữa.” Trời đất bốn bề tuyết trắng. Ngựa lún trong tuyết đến tận háng, trượt đổ sang bên. “Tôi đánh rơi mất đèn. Người ngựa lạc đường trong đêm. Cả hai đều ngủ mất rồi đông cứng, vấn đề chỉ là sớm hay muộn. Vâng, tôi sợ. Nhưng tôi đọc kinh. Và tôi cảm thấy Chúa hiện hữu...” Chó tru. Họ đi theo tiếng chó tru cho đến khi trông thấy các cửa sổ của một nông trại hàng xóm. “Tôi nên dừng lại ở đây. Nhưng tôi nghĩ đến gia đình - tưởng tượng là mẹ tôi đang khóc, bố và đám con trai làm thành một kíp đi tìm, thế là tôi thúc ngựa đi lên. Cho nên, cuối cùng, khi tôi về được tới nhà và thấy nhà tôi om thì lẽ tự nhiên là tôi không vui lắm. Cửa khóa. Thì ra mọi người đều đã đi ngủ cả, quên béng mất tôi Không ai trong nhà hiểu được làm sao tôi lại bí xị thế. Bố nói, “Cả nhà cứ đinh ninh là con đã nghỉ lại ở thị trấn đêm nay. Lạy Chúa, con ơi! Ai mà lại nghĩ được là con cảm thấy về nhà trong khi bão tuyết thế này là tốt hơn cơ chứ?” Mùi chua thơm thơm của táo ủng. Những cây táo, cây lê, đào và anh đào; vườn cây ăn quả của ông Clutter, nơi tập hợp các cây ăn quả quý ông trồng. Cứ bâng quơ mà chạy, Bobby đâu có ý định đến đây hay đến chỗ nào khác trong vùng Trại Lũng Sông. Không thể giải thích được, cậu đã toan bỏ đi, nhưng rồi quay lại và lang thang đến ngôi nhà - trắng xóa, bề thế, chắc chắn. Cậu luôn ngợp trước ngôi nhà này, và thấy thú vị khi nghĩ rằng bạn gái của mình sống ở đây. Nhưng nay thì nó không còn được hưởng sự chăm sóc của người chủ quá cố trước đây nữa rồi, những sợi đầu tiên của mạng lưới suy tàn đã được dệt chăng lên. Một cái cào sỏi vất lăn lóc trên đường cho xe chạy vào nhà; bãi cỏ nham nhở và cằn cỗi. Hôm Chủ nhật tang thương ấy, khi ông cảnh sát trưởng gọi xe cứu thương tới để chở gia đình bị giết đi, các xe cứu thương đã chạy ngang qua bãi cỏ tới thẳng cổng chính vào nhà, bây giờ vết bánh xe hãy còn trông thấy rõ. Căn nhà của người làm mướn cũng đã trống không; ông đã tìm được chỗ mới cho nhà mình gần Holcomb hơn; điều ấy chẳng làm mọi người ngạc nhiên, vì hôm nay tuy thời tiết lấp lánh sáng sủa, song vùng đất nhà Clutter dường như vẫn âm u, im lìm, bất động. Nhưng khi Bobby đi ngang qua một nhà kho và quá đó là bãi thả gia súc, cậu nghe thấy tiếng ngựa hất đuôi. Đó là con Babe của Nancy, con ngựa cái già ngoan ngoãn mình đốm có bờm nâu và hai con mắt màu tía sẫm giống như hai bông hoa păng xê nở đẹp vậy. Túm lấy bờm con Babe, Bobby cọ cọ má vào nó, như Nancy hay làm. Và Babe hí lên. Chủ nhật trước, lần cuối cậu đến chơi nhà Kidwell, mẹ Sue có nói tới con Babe này. Bà Kidwell, một bà tính tình đồng bóng, đang đứng bên cửa sổ nhìn hoàng hôn nhuộm tối dần quang cảnh ngoài kia, cánh đồng cỏ dài tít tắp. Và hoàn toàn không ngờ tới, bà nói, “Susan à, con biết mẹ mải nhìn cái gì đấy không? Nancy. Cưỡi con Babe. Đang đi lại đằng mình.” Perry nhận ra họ trước - một thằng nhỏ và một ông già xin đi nhờ xe, cả hai đều đeo ba lô tự làm lấy, và mặc dù trời gió, thứ gió thổi đùng đùng rét buốt của Texas, họ vẫn chỉ mặc độc bộ quần áo lao động có yếm và quần jean. “Cho họ đi nhờ một quãng,” Perry nói. Dick ngập ngừng, hắn không phản đối việc cho người ta đi nhờ xe, nhưng với điều kiện là xem ra họ có thể trả được chút tiền, ít nhất cũng là “tí xiền còm bù vào hai ga lông xăng.” Nhưng Perry, lão Perry nhỏ người mà rộng bụng, lại luôn luôn kèo nài Dick phải cho những người nom tồi tàn nhất, đau khổ nhất đi nhờ. Cuối cùng Dick bằng lòng đỗ xe lại. Thằng nhỏ - một đứa tóc hoe hoe chừng mười hai tuổi, lủn củn, mắt nhanh như chớp, liến thoắng - cứ cảm ơn tíu tít cả lên còn ông già, mặt vàng vọt và sẹo chằng sẹo chịt, thì yếu ớt bò vào hàng ghế sau ngồi phịch xuống lặng thinh. Thằng bé nói, “Thật mừng quá. Ông Johnny sắp lăn kềnh tới nơi rồi. Từ Galveston chúng tôi toàn đi bộ.” Perry và Dick đã rời thành phố cảng ấy một giờ trước, sau khi đã lang thang ở đó cả buổi sáng, đi khắp các hãng tàu xin làm một chân thủy thủ. Một hãng bảo họ có thể vào làm ngay trên một tàu chở dầu sắp đi Brazil, và quả tình hai đứa lẽ ra giờ này đã lênh đênh trên biển rồi nếu như chủ tương lai của họ không phát hiện ra là cả hai chẳng ai có thẻ công đoàn thay cho hộ chiếu. Cũng lạ, nỗi thất vọng của Dick vượt xa nỗi thất vọng của Perry: “Brazil! Ở xứ ấy người ta đang xây cả một thủ đô mới đấy. Xây từ con số không. Tưởng tượng mà coi, được đặt chân lên một chỗ mới toanh như thế! Bất cứ thằng ngu nào cũng có thể làm cả đống tiền.” “Ông cháu mày đi đâu?” Perry hỏi thằng bé. “Nước Ngọt.” “Nước Ngọt là ở đâu?” “À, ở chỗ nào đó dọc theo hướng này. Đâu như ở Texas. Ông Johnny đây là ông nội tôi. Ông cụ có người em gái sống ở Nước Ngọt. Ít ra thì tôi cũng cầu Chúa là bà ta ở đấy thật. Chúng tôi nghĩ em gái cụ sống ở Jasper, Texas cơ. Nhưng tới Jasper rồi thì người ta bảo là bà ấy với cả nhà bà ấy chuyển tới Galveston rồi. Tới Galveston lại cũng chả gặp, cái bà ở đó nói là bà cụ đi Nước Ngọt rồi. Tôi cầu Giê-su sao cho chúng tôi tìm ra được bà cụ.” “Johnny à,” thằng nhỏ nói, xoa xoa hai bàn tay ông già, như để làm cho nó khỏi cóng buốt, “Ông Johnny, nghe cháu nói không đấy? Ông cháu mình đang ngồi trên một cái xe ấm áp đẹp lắm, một cái Chevrolet đời 56 đấy.” Ông già ho, đầu ông lảo đảo, mở rồi lại nhắm ngay mắt, rồi lại ho. Dick nói. “Này. Ông già làm sao thế!” “Thời tiết thay đổi,” thằng nhỏ nói. “Đi bộ miết. Chúng tôi đi bộ từ trước Nôen còn gì. Tôi thấy có khi phải đi đến gần hết cả bang Texas ấy chứ.” Bằng cái giọng thoải mái tự nhiên như không, và trong khi tiếp tục xoa bóp tay cho ông già, thằng nhỏ kể cho chúng rằng trước khi lên đường nó và ông già sống với bà cô tại một cái trại gần Shreveport, Louisiana. Bà cô chết cách đây ít lâu. “Johnny đã ốm yếu khoảng một năm nay rồi, cô phải làm tất cả mọi thứ. Chỉ có tôi đỡ đần cho thôi. Chúng tôi bổ củi. Bổ bật một cái gốc cây lên. Thì giữa chừng cô bảo mệt quá. Đã thấy một con ngựa ngã kềnh ra rồi không bao giờ dậy được nữa chưa? Tôi thấy rồi đấy. Y như thế. Ít ngày trước Nôen, người cho ông thuê lại nông trại đã “đuổi hai ông cháu đi khỏi đó,” thằng nhỏ nói tiếp. “Hai ông cháu bắt đầu đi ra khỏi Texas như thế. Tìm bà Jackson. Tôi chưa gặp bà cụ nhưng bà cụ là em ruột của Johnny. Mà phải có ai đó nhận lấy chúng tôi chứ. Ít ra thì cũng nhận ông nội. Ông cụ không thể đi hơn được nữa rồi. Đêm qua chúng tôi còn bị mưa nữa.” Chiếc xe đỗ lại. Perry hỏi Dick sao lại đỗ. “Người này ốm lắm rồi,” Dick nói. “Thì sao? Cậu định làm gì? Cho ông ta ra à?” “Dùng cái đầu của cậu đi. Chỉ một lần thôi.” “Cậu đúng là đồ chó chết ti tiện.” “Lão mà chết thì sao?” Thằng nhỏ nói, “Ông tôi không chết đâu. Chúng tôi đã đi xa đến thế này thì ông tôi sẽ chờ được.” Dick khăng khăng, “Lão chết thì thế nào đây? Nghĩ cái gì sẽ xảy ra nào? Vặn vẹo hạch hỏi.” “Thật tình là tớ đếch quan tâm. Cậu muốn cho họ xuống xe hả? Bằng bất cứ giá nào chứ gì, được.” Perry nhìn vào ông già tàn tật vẫn đang ngủ gà ngủ vịt, ngớ ngẩn, điếc lác, rồi lại nhìn thằng nhỏ, nó nhìn lại hắn điềm đạm, không xin xỏ, không “đề nghị bất cứ cái gì”, và Perry chợt nhớ mình thuở bằng tuổi này, những cuộc lang thang của chính mình với một ông già. “Cứ làm đi. Cho họ xuống xe đi. Nhưng tớ cũng xuống luôn.” “OK, OK, OK. Chỉ cần đừng có mà quên thôi,” Dick nói. “Đây là lỗi của cậu, mẹ kiếp.” Dick sang số xe. Thình lình, khi xe bắt đầu chuyển bánh lại, thằng nhỏ hét lên, “Gượm tí!” Nhảy bổ ra ngoài xe, nó chạy vội dọc rìa đường, dừng lại, cúi xuống, nhặt lên một, hai, ba, bốn chai Coca Cola rỗng, chạy trở lại, nhảy bổ vào trong xe thích chí cười. “Mấy cái chai này khối tiền đấy,” nó nói với Dick. “Thưa ông, nếu mà ông lái xe kiểu từ từ thế này thì tôi bảo đảm chúng ta có thể nhặt lên một khoản tiền lẻ khơ khớ đấy. Tôi và Johnny có cái ăn là nhờ những của này mà. Gây lại quỹ.” Dick buồn cười, nhưng hắn cũng thấy thu thú, cho nên lần kế tiếp khi thằng nhỏ kêu đỗ, hắn lập tức tuân lời. Lệnh của thằng nhỏ ban ra thường xuyên quá đến nỗi có năm dặm đường mà mất một giờ, nhưng cũng bõ. Thằng nhỏ có cái biệt tài trong việc dò trúng chỗ những chai bia màu nâu loang loáng, lớp sơn màu ngọc thạch bôi bác đã từng có thời đựng bia 7 up và Canada Dry lăn lóc cạnh những hòn đá hay đống rác um tùm cỏ ven đường. Perry cũng mau chóng phát triển được năng khiếu riêng của hắn về việc “tia” ra những cái chai đó. Ban đầu hắn chỉ báo cho thằng nhỏ biết những chỗ mà hắn cho là có thể xuống đấy tìm; hắn thấy bản thân mình mà láo nháo chạy xuống nhặt thì trông mất thể diện quá. Làm thế là “ngớ ngẩn”, chỉ là “trò con nít”. Thế nhưng, cuôc chơi đã gây ra một niềm hưng phấn kiểu săn lùng kho báu, và chả mấy chốc, cả hắn nữa, hắn cũng không cưỡng lại được trò vui, cơn hăng tìm kiếm những thứ rỗng không mà lại có sức bù vào vốn liếng. Dick cũng thế, nhưng Dick thì hăng hái ra trò. Nom thì có vẻ dở hơi, song cách này đúng là làm ra được ít tiền - bét nhất thì cũng dăm ba đô. Ai mà biết, hắn và Perry có thể dùng đến khoản đó lắm chứ; lúc này tài chính của cả hai thằng cộng lại còn chưa tới năm đô. Bây giờ thì cả ba - Dick, thằng bé và Perry - đều tụt cả ra ngoài xe và không ngượng ngùng xấu hổ chút nào, đua nhau nhặt, tuy vẫn thân mật vui vẻ. Có lúc Dick tìm ra chỗ giấu những chai vang và uýt ki dưới một cái rãnh, hắn ỉu xìu khi biết phát hiện này chẳng có giá trị gì. “Họ không mua những chai rượu manh như thế này đâu,” thằng nhỏ bảo hắn, “Kể cả một số chai đựng bia cũng không được giá. Tôi thường không dây vào những cái chai này. Chỉ nhặt những của chắc ăn thôi. Dr. Pepper này. Pepsi này. Coca này. White Rock này. Nehi này.” Dick hỏi, “Tên mày là gì?” “Bill,” thằng nhỏ nói. “Được đấy, Bill. Mày được học hành chính quy đấy.” Đêm xuống, những nhà săn chai buộc phải thôi - trời tối và thiếu chỗ, vì họ đã nhặt được nhiều đến mức cái xe không còn chỗ chứa thêm nữa. Thân xe đầy phè chai, ghế sau trông như cả một đống ú hụ những rác rưởi lóng lánh; ông già thì đau yếu, chẳng hề được thằng cháu đoái hoài, hoàn toàn bị lấp dưới cái khoang chứa hàng lanh canh và rùng rình một cách nguy hiểm ấy. Dick nói, “Giờ mà bị đâm xe thì mới thú đời đây.” Một cụm đèn sáng quảng cáo cho New Motel, khách sạn bên đường cho xe hơi trú trọ, khi người đi đường tiến lại gần thì nó hóa ra là một tổ hợp đồ sộ gồm những nhà nghỉ riêng biệt, một gara xe hơi, một nhà hàng và một phòng uống cốc tai. Nhận lấy trách nhiệm, thằng nhỏ bảo Dick, “Rẽ vào đó đi. Có thể ta làm ăn được đấy. Nhưng để tôi thương lượng. Tôi có kinh nghiệm rồi. Đôi khi họ tìm cách lừa mình đấy.” Perry không thể tưởng tượng ra được “có ai đủ thông minh để lừa nổi thằng nhỏ này,” về sau hắn nói. “Nó chẳng lấy gì làm xấu hổ với những chai lọ lỉnh kỉnh bên người, cứ thế đi vào. Nếu là tôi thì tôi chịu, chắc tôi sẽ xấu hổ lắm. Nhưng người ở khách sạn xe hơi này cũng tử tế, họ chỉ cười ầm. Thế nào mà đống chai kia lại được những hai mươi đô sáu chục xen.” Thằng nhỏ kia đếm tiền, lấy một nửa, một nửa đưa cho hai bạn nghề và nói, “Biết gì không? Tôi sẽ ních cho tôi với Johnny một bữa no nê. Các ông bạn có đổi không?” Dick đói, như thường lệ. Và sau bao nhiêu là hoạt động vừa rồi, cả Perry cũng đói. Như sau này hắn kể lại: “Chúng tôi đem ông lão lên xe lăn đưa vào trong nhà hàng rồi rinh cụ đến một cái bàn. Cụ trông vẫn đúng như vậy - như chết rồi. Chẳng nói lấy một lời. Nhưng vẫn thấy cụ ngốn hết các thứ. Thằng nhỏ gọi bánh kếp cho ông cụ; nó bảo Johnny thích nhất món bánh kếp này. Tôi thề là cụ xơi có đến ba chục cái. Với có lẽ một ký bơ hoặc một ca xi rô. Thằng nhỏ cũng ăn không ít. Khoai tây rán và kem, nó chỉ thích mấy cái đó thôi, nhưng quả là nó ăn nhiều lắm. Không biết nó có bị làm sao không.” Trong bữa tiệc tối, Dick xem bản đồ, cho biết là Nước Ngọt cách con đường họ đang đi chừng trăm dặm hay hơn một chút về phía Tây - con đường này sẽ đưa hắn qua New Mexico và Arizona đến Nevada rồi đến Las Vegas. Tuy đúng là vậy nhưng rõ ràng Perry thấy Dick chỉ là muốn buông thằng nhỏ và ông già ra thôi. Thằng nhỏ cũng nhìn rõ ý Dick nhưng nó lịch sự nói, “Ồ, các ông đừng lo cho ông cháu tôi. Vô khối xe sẽ đỗ lại ở đây. Chúng tôi sẽ đi nhờ mà.” Thằng nhỏ đi với chúng ra xe, để mặc ông lão nhồi thêm một đống bánh kếp vừa mang đến nữa. Nó bắt tay Perry và Dick, chúc hai người năm mới vui vẻ và vẫy theo hai người cho đến khi họ khuất vào trong đêm tối. Chiều thứ tư, 30 tháng Chạp, có một chiều đáng ghi nhớ trong gia đình đặc vụ A.A. Dewey. Sau này nhớ lại, vợ ông nói, “Alvin vừa tắm vừa hát bài ‘Bông hồng vàng của Texas’. Bọn trẻ đang xem ti vi. Tôi thì đang dọn bữa tối. Một bữa buýp phê, thích ăn gì tự lấy. Tôi là người New Orleans; tôi thích làm bếp và chiêu đãi cả nhà, mà mẹ tôi lại vừa mới gửi đến cho cả nhà một giỏ mơ và đậu mắt đen, và, ồ, cả một đống những thứ ngon lành lắm. Cho nên tôi quyết định: tổ chức một bữa buýp phê ăn gì tự lấy, mời mấy người khách - nhà Murray, nhà Cliff và nhà Dodie Hope. Alvin không muốn, nhưng tôi cứ đòi làm. Trời đất! Cái vụ án này có thể còn kéo dài hoài, mà ông ấy thì không sao dứt được lấy một phút. Đấy, tôi đang dọn bàn ăn thì nghe có điện thoại, tôi mới bảo thằng Paul ra nghe. Nó nghe rồi bảo người ta gọi cho bố, tôi bảo ‘Con nói với họ là bố đang tắm,’ nhưng Paul nó nói không biết liệu có nên bảo thế không, vì đây là ông Sanford gọi bố từ Topeka. Ông này là cấp trên của Alvin mà. Alvin quấn có mỗi cái khăn tắm ra nói chuyện. Làm tôi cáu mới ghê chứ - nước rỏ tong tong thành từng vũng khắp cả nhà. Nhưng khi tôi lấy cái chổi thấm thì lại thấy điều còn tệ hại hơn - con mèo Pete lếu láo đang chễm chệ trên bàn bếp chén xà lách trộn cua bể. Món nộm quả bơ của tôi. Thế rồi thình lình Alvin ôm chầm lấy tôi, ông ấy lắc lắc tôi. Tôi hỏi, ‘Alvin, anh điên rồi đấy à?’ Hay thì có hay thật nhưng ông ấy đang ướt như ma, làm hỏng hết bộ váy của tôi, mà tôi thì đã đóng bộ tử tế để tiếp khách. Dĩ nhiên khi hiểu ra tại sao ông ôm lấy tôi mà lắc lắc thì tôi cũng ôm lấy mà lắc lại. Ông có thể tưởng tượng được với Alvin việc biết hai tên kia bị bắt có ý nghĩa như thế nào không. Bắt chúng ở ngoài Las Vegas. Ông ấy nói phải đi Las Vegas ngay tắp lự, tôi bèn hỏi trước hết ông có nên mặc ít quần áo vào cái đã hay không, nhưng Alvin, ông ấy phấn khởi quá, ông ấy nói, ‘Thôi chết, cưng à, e là anh làm cho bữa tiệc tối của em mất vui rồi.’ Tôi không nghĩ ra được cách nào làm hỏng bữa tiệc mà lại vui hơn thế này cả - làm gì còn cách nào vui hơn nếu như nó có nghĩa là chẳng bao lâu nữa rồi chúng tôi lại sẽ được quay về với cuộc sống bình thường trước đây. Alvin cười ran - ông ấy cười thế nghe hay lắm. Tôi muốn nói, hai tuần vừa qua là hai tuần tệ nhất. Bởi vì tuần ngay trước Nôen mấy tên kia đã quay trở lại Kansas City - đến rồi đi mà chẳng hề bị bắt - tôi chưa từng thấy Alvin suy sụp như thế bao giờ, trừ một lần hồi trẻ phải nằm bệnh viện vì viêm não, chúng tôi cứ nghĩ là sắp mất ông ấy rồi. Nhưng tôi chẳng muốn nói lại chuyện đó đâu. Dẫu sao thì tôi cũng pha cà phê cho ông ấy rồi đem vào phòng ngủ, đinh ninh rằng ông ấy đang mặc quần áo ở trong đó. Nhưng ông ấy nào có mặc. Ông ấy lại ngồi ở cuối giường ôm lấy đầu như đang bị nhức đầu vậy. Chưa đi được lấy một chiếc bít tất. Tôi liền nói, ‘Anh làm sao, bị viêm phổi à?’ Ông ấy nhìn tôi nói, ‘Nghe này Marie, chắc đúng là mấy tên đó, chắc phải là chúng rồi, đó là giải pháp lôgic duy nhất.’ Alvin ngộ lắm. Y như lần đầu tiên ông ấy tranh cử cảnh sát trưởng của hạt Finney vậy. Bỏ phiếu đêm, khi thực tế là người ta đã đếm hết cả phiếu bầu và đã rõ rành rành là ông ấy trúng rồi nhưng mà ông ấy vẫn cứ nói - lúc ấy tôi nghe mà chỉ muốn bóp cổ ông ấy cho chết - nói đi nói lại mãi, ‘Chà, chừng nào chưa có thông báo cuối cùng thì chưa thể biết được đâu.’ Tôi bảo ông ấy, ‘Alvin à, đừng có giở kiểu đó ra nữa đi. Dĩ nhiên là họ bắt được chúng rồi.’ Ông ấy nói, ‘Bằng chứng của chúng ta đâu? Chúng ta không thể chứng minh được là cả hai đứa đã đặt chân vào trong nhà Clutter cơ mà!’ Nhưng tôi thấy đó đúng là điều ông ấy có thể chứng minh: những dấu chân kia - chẳng phải mấy dấu chân kia chính là thứ mà lũ thú vật đó đã để lại hay sao? Alvin nói, ‘Đúng, những dấu chân đó là bằng chứng rất tốt - với điều kiện là mấy thằng đó vẫn đang còn đi những đôi ủng đã để lại mấy cái dấu ấy. Tự thân các vết chân đó không đáng giá một đồng mười xen.’ ‘Thôi cưng à, uống cà phê đi, em sắp quần áo cho mà mang đi.’ Đôi khi ông không thể lý sự được với Alvin đâu. Cứ cái kiểu ông ấy khăng khăng thế này thì ông ấy gần như thuyết phục được tôi rằng Hickock và Smith vô tội, còn nếu như chúng không vô tội thì chúng sẽ không bao giờ thú tội và nếu chúng không thú tội thì có thể chúng không bao giờ bị xét xử - vì bằng chứng quá mong manh, toàn là suy diễn mà. Tuy vậy điều ông ấy lo nhất là - ông ấy sợ rằng chuyện sẽ lộ ra, những tên kia sẽ biết được sự thật trước khi K.B.I hỏi cung chúng. Làm thế thì chúng nghĩ mình bị bắt vì vi phạm lời hứa danh dự. Tiêu séc giả. Alvin cảm thấy quan trọng là cứ để cho chúng nghĩ như thế. Ông ấy nói, ‘Cái tên Clutter rồi sẽ phải giáng vào chúng như một nhát búa, một đòn mà chúng không bao giờ biết được là sắp xảy ra.’ Paul - tôi bảo nó ra dây phơi lấy vài đôi tất cho Alvin - Paul quay vào đứng cạnh xem tôi cho quần áo vào va li. Nó muốn biết bố đi đâu. Alvin nhấc bổng nó lên. Ông ấy nói, ‘Pauly, con có giữ bí mật được không?’ Ông ấy chẳng cần phải hỏi. Cả hai đứa nhỏ đều biết chúng không được nói đến công việc của bố - những mẩu này câu nọ mà chúng nghe được trong cái nhà này. Cho nên ông ấy nói, ‘Pauly, con có nhớ hai cái tên mà chúng ta đang tìm kiếm không? Giờ thì chúng ta biết được là chúng ở đâu rồi, bố sắp áp giải chúng về Garden City đây.’ Nhưng Paul lại van nài bố, ‘Đừng, đừng bố, đừng đem chúng đến đây.’ Nó sợ, đứa trẻ lên chín nào cũng sợ cả. Alvin hôn con. Ông ấy nói. ‘Bây giờ thì OK rồi, con, chúng ta sẽ không để cho chúng làm hại ai nữa. Chúng không làm hại cho ai được nữa đâu, con’.” Năm giờ chiều hôm đó, khoảng hai chục phút sau khi chiếc Chevrolet ăn cắp lăn bánh ra khỏi sa mạc Nevada vào Las Vegas, cuộc đi dạo dài đã đến đoạn kết. Nhưng không phải là trước lúc Perry đến bưu điện Las Vegas nhận một bọc gửi cho hắn qua công ty General Delivery - cái thùng các tông to mà hắn gửi đi từ Mexico, được bảo đảm bằng một trăm đô la, một món tiền vượt xa giá trị những thứ nó đựng ở trong, gồm dầu bắt nắng, quần vải bò, sơ mi rách, quần áo lót và hai đôi ủng khóa sắt. Chờ Perry ở ngoài cửa bưu điện, Dick đang phởn lắm; hắn đã đi tới được một quyết định mà hắn tin chắc sẽ xóa bỏ được tình thế khó khăn hiện nay, sẽ mở ra trước mắt hắn một con đường mới mẻ, một chân trời mới mẻ. Quyết định này bao hàm việc phải hóa trang thành sĩ quan không quân. Đây là một dự án từ lâu đã hấp dẫn Dick, và Las Vegas là cái chỗ lý tưởng để thi thố trò này. Hắn đã chọn xong tên và cấp bậc của sĩ quan, tên thì mượn của một người quen biết trước đây, quản giáo nhà tù Bang Kansas: Tracy Hand. Với tư cách Đại úy Tracy Hand, ăn mặc lịch sự trong bộ binh phục may đo, Dick định “bò trên dải đất này”, đường phố của những sòng bạc không bao giờ đóng cửa ở Las Vegas. Lúc ăn nhỏ, lúc ăn to, hoặc mảnh vụn hoặc miếng bự - hắn đã có ý đánh vào tất cả các sòng bạc, trên đường tiến quân sẽ phân phát “hàng bồ hoa giấy”. Bằng cách viết các séc giả vô giá trị, hắn trông chờ hót được ba, và có thể bốn nghìn đô la trong vòng hai mươi tư giờ. Đó là một nửa phi vụ; nửa thứ hai là: Chào từ biệt, Perry. Dick phát ốm với hắn ta rồi - cái harmonica của hắn, những đau ốm bệnh tật, các trò mê tín dị đoan, đôi mắt ướt át giống mắt đàn bà và cái giọng thì thào, ca cẩm của hắn. Đa nghi, chủ quan, chỉ thấy mình đúng, tàn nhẫn, hắn như một mụ vợ cần phải dứt bỏ. Và chỉ còn có mỗi cách để làm thôi: chẳng nói gì hết, cứ thế chuồn. Mải mê với dự tính của mình, Dick không để ý tới một chiếc xe cảnh sát đi tuần chạy qua, chậm dần lại, vẻ như thăm thú. Perry cũng giống Dick, không để ý tới, hắn đang đi từ bậc tam cấp bưu điện xuống, cái thùng Mexico đung đưa trên vai, nhìn chiếc xe lảng vảng quanh đó và người cảnh sát ngồi ở bên trong. Hai sĩ quan cảnh sát Ocie Pigford và Francis Macauley còn mang hằn ở trong đầu những trang dữ liệu đã được ghi nhớ kỹ, bao gồm miêu tả chiếc xe Chcvroler 1956 sơn trắng đen mang biển số Kansas Jo 16212. Cả Perry lẫn Dick đều không hay rằng chiếc xe cảnh sát đã bám theo khi chúng ra khỏi bưu điện. Dick lái và Perry chỉ đường, chúng đi qua năm khối nhà ở phía bắc, quẹo trái, quẹo phải, đi thêm một phần tư dặm nữa thì dừng lại trước một cây cọ chết khô và một bảng hiệu xơ xác vì mưa nắng chữ viết đã phai mờ hết cả, chỉ còn lại cái từ “OOM”. “Đây hả,” Dick nói. Perry gật đầu trong khi chiếc xe tuần tra đi sát vào bên. Ban Thám tử của Nhà tù Thành phố Las Vegas có hai phòng hỏi cung - những cái buồng sáng ánh nê ông rộng mười mét dài mười hai mét, tường và trần bằng chất dẻo celotex. Cộng với một chiếc quạt điện, một bàn kim loại, ghế xếp kim loại, trong mỗi phòng còn có các micro ngụy trang, các máy ghi âm giấu kỹ, và trong cửa lắp một cái lỗ chỉ nhìn được một chiều. Thứ Bảy, ngày thứ hai của năm 1960, cả hai phòng đều được đặt trước cho 2 giờ chiều - giờ mà bốn thám tử Kansas chọn để bắt đầu cuộc đối mặt đầu tiên với Hickock và Smith. Trườc giờ hẹn đó ít lâu, bộ tứ đặc vụ K.B.I. - Harold Nye, Roy Church, Alvin Dewey và Clarence Sunzt - đã gặp nhau - một hành lang bên ngoài hai phòng hỏi cung. Nye đang sốt nóng. “Một phần vì cúm. Nhưng chủ yếu là vì kích động quá,” sau đó ông nói với một nhà báo như vậy. “Cho tới lúc đó tôi đã chờ ở Las Vegas hai ngày - đáp ngay chuyến máy bay sau đó khi tin về vụ bắt hai thằng đó đến sở chỉ huy ở Topeka. Những anh em còn lại trong đội, Al, Roy và Clarence thì đến bằng xe hơi - một chuyến đi cũng thật khốn khổ. Thời tiết khốn khổ. Qua giao thừa đón năm mới tuyết kẹt đường kẹt sá, nằm chết dí ở một khách sạn cho ô tô tại Albuquerque. Thế nên cuối cùng khi tới được Las Vegas là họ cần có uýt ki ngon và tin tức hay. Tôi đã sẵn sàng cho cả hai thứ. Các bạn trẻ của chúng tôi đã ký trát dẫn độ rồi. Còn tốt hơn thế nữa: chúng tôi đã có ủng rồi, cả hai đôi, đủ đế - hình cái chân mèo và hình kim cương - khớp hoàn toàn với các bức ảnh chụp cỡ thật những vết chân tìm thấy ở nhà Clutter. Các đôi ủng ở trong một cái thùng đựng đồ lặt vặt bọn chúng vừa lấy ở bưu điện ngay trước khi sân khấu hạ màn. Giống như tôi đã bảo Dewey, giả như chúng tôi chẹt chúng nó sớm hơn năm phút thì thôi đấy, đi tong. Cứ cho là thế đi nữa, vụ của chúng tôi vẫn chưa chắc ăn lắm - cái gì cũng có thể bị chỉ trích được cả. Nhưng tôi nhớ, trong khi chờ ở hành lang - tôi nhớ là đã bị sốt và hồi hộp quá trời, nhưng tự tin. Chúng tôi đều thế cả; chúng tôi cảm thấy mình đã đến được bên mép lề của sự thật. Việc của tôi, của tôi và của Church là ép cho Hickock phải nhè sự thật ra. Smith thì là phần của Al và già Duntz. Đến lúc đó tôi vẫn chưa nhìn thấy bọn nghi phạm - chỉ mới xem đồ đạc của chúng và bố trí trát dẫn độ thôi. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy Hickock cho tới khi hắn được đưa xuống phòng hỏi cung. Tôi đã hình dung hắn là một gã cao lớn hơn kia. Lực lưỡng hơn. Không phải một thằng nhỏ gầy gò như vậy. Hắn đã hai mươi tám, nhưng trông chẳng khác gì một thằng lỏi con. Đói - giơ xương ra. Hắn rám nắng, mặc áo sơ mi lam và bít tất trắng, giày đen. Chúng tôi bắt tay; tay hắn khô hơn tay tôi. Sạch sẽ, lịch sự, giọng hay hay, phát âm rõ ràng, một gã nom tử tế ưa nhìn, có nụ cười rất được lòng người khác - và lúc đầu hắn mỉm cười như thế nhiều lắm. Tôi nói, ‘Ông Hickock, tôi là Harold Nye, còn ông này là Roy Church. Chúng tôi là đặc vụ của Cục Điều tra Bang Kansas, chúng tôi đến để bàn về việc ông vi phạm lời hứa danh dự. Dĩ nhiên, ông không bắt buộc phải trả lời chúng tôi, nhưng bất cứ điều gì ông nói ra đều có thể được dùng làm bằng chứng để chống lại ông. Bất cứ lúc nào ông cũng có quyền nhờ đến luật sư. Chúng tôi sẽ không dùng bạo lực, không đe dọa, và tôi không hứa hẹn gì với ông cả.’ Hắn ta bình tĩnh lắm.” “Tôi biết thủ tục,” Dick nói. “Tôi từng bị hỏi cung trước đây rồi.” “Giờ thì, ông Hickock…” “Gọi là Dick thôi.” “Dick này, chúng tôi muốn nói về việc anh đã làm gì từ ngày anh hứa danh dự để được tha ra. Theo chúng tôi biết, ít nhất anh đã hai phen xài xả láng séc giả trong vùng Kansas City.” “À ừm. Chỉ một xíu thôi mà.” “Anh có thể cho chúng tôi danh sách những nơi anh đã tiêu séc giả chứ?” Gã tù, rõ ràng tự hào về cái năng khiếu đích thực của mình, một trí nhớ xuất chúng, bèn kể ra tên và địa chỉ của hai chục nhà hàng, quán cà phê, ga ra xe hơi và nhắc lại chính xác các khoản “mua sắm” ở mỗi chỗ đó cùng số lượng séc đã tiêu trót lọt. “Tôi thấy lạ đấy, Dick. Tại sao người ta đi nhận séc của anh được nhỉ? Tôi muốn biết bí quyết.” “Bí quyết thế này: Thiên hạ toàn là lũ lừa.” Roy Church nói, “Hay đấy, Dick. Rất ngộ. Nhưng lúc này thì chúng ta hãy quên cái chuyện séc ấy đi.” Tuy ông nói mà nghe như cổ họng bị lót một lớp lông lợn, còn hai bàn tay thì rắn lên đến nỗi ngỡ chừng ông có thể đấm đổ tường được (thực ra đó chính là trò mà ông vẫn thường ưa biểu diễn), có những kẻ từng tưởng lầm Church là một tay nhỏ nhắn hiền lành, một ông chú nhà ai đầu hói má hồng hồng. “Dick này,” Church nói, “giá như anh nói với chúng tôi đôi chút về hoàn cảnh gia đình anh.” Gã tù ôn lại. Một lần, khi hắn lên chín hay mười tuổi thì bố hắn ốm. “Sốt thỏ,” bệnh kéo dài mấy tháng, trong thời gian đó gia đình sống nhờ vào sự cứu trợ của nhà thờ và lòng từ thiện của hàng xóm - “nếu không thì chúng tôi đã chết đói rồi.” Ngoài chuyện này ra, tuổi thơ của hắn là O.K. “Chúng tôi không bao giờ có nhiều tiền, nhưng cũng không bao giờ thật sự là túng quẫn,” Hickock nói. “Chúng tôi luôn có quần áo sạch sẽ và có cái ăn. Tuy bố tôi thì nghiêm lắm. Ông chỉ vui khi nào đã bắt tôi làm đủ thứ tạp dịch. Nhưng bố con tôi vẫn O.K với nhau, không có cãi cọ nghiêm trọng. Bố mẹ tôi cũng không khi nào cãi nhau. Tôi không nhớ có trận đấu khẩu nào không. Bà cụ tuyệt vời, mẹ tôi ấy. Bố tôi cũng là người tốt. Tôi có thể nói là bố mẹ tôi đã làm hết sức mình cho tôi.” Đi học? À, hắn cảm thấy hắn có thể hơn một học sinh trung bình nếu như hắn bớt một phần thời gian “phí phạm” cho thể thao vào sách vở. “Bóng chày. Bóng đá. Tôi chơi trong mọi đội bóng. Sau trung học, tôi lẽ ra đã có thể vào cao đẳng nhờ học bổng bóng đá. Tôi muốn học kỹ sư, nhưng dù có học bổng thì học mấy thứ ấy cũng tốn kém lắm. Tôi không biết, có lẽ kiếm được việc làm thì sẽ an toàn hơn.” Trước sinh nhật lần thứ hai mươi mốt, Hickock làm người tuần đường cho bên đường sắt, lái xe cứu thương, thợ sơn xe, thợ cơ khí ở gara; hắn cũng đã cưới một cô gái mười sáu tuổi. “Carol. Bố cô ấy là mục sư. Ông ta phản đối tôi kịch liệt. Bảo tôi là đồ vô dụng toàn phần. Làm được cái gì rắc rối là ông ta làm hết. Nhưng tôi thật sự trồng cây si vì Carol. Bây giờ vẫn vậy. Một cô công chúa thật sự. Có điều, xem đấy, chúng tôi có ba đứa con. Con trai cả. Mà chúng tôi thì quá trẻ để có ba đứa con. Có thể cũng được nếu như chúng tôi đừng bị ngập sâu vào nợ nần. Giá như tôi kiếm ra thêm được tiền. Tôi đã cố.” Hắn thử đánh bạc, bắt đầu tiêu séc giả và thử nghiệm nhiều hình thức ăn cắp khác. Năm 1958, hắn bị xử ở tòa án Johnson vì tội đột nhập nhà người ta ăn cắp và bị kết án năm năm tù ở Nhà tù Bang Kansas. Nhưng vào lúc đó Carol đã ra đi và hắn lấy một cô gái khác làm vợ, mười sáu tuổi. “Đểu cáng ghê gớm. Nó và cả nhà nó. Trong khi tôi đi tù thì nó ly hôn. Tôi không phàn nàn. Tháng Tám rồi, khi tôi ra khám, tôi đã nghĩ mình có mọi cơ may để bắt đầu lại. Tôi có việc làm ở Olathe, sống với gia đình, đêm đêm ngủ ở nhà. Tôi đang làm ăn rất tốt…” “Cho tới ngày 20 tháng Mười một,” Nye nói và Hickock có vẻ như không hiểu gì. “Cái ngày anh thôi làm việc tốt mà bắt đầu tiêu séc giả. Tại sao?” Hickock thở dài nói, “Chuyện này viết thành sách được.” Rồi hút một điếu thuốc vay của Nye và được Church lịch sự châm cho, hắn nói, “Perry, thằng bạn thiết Perry Smith của tôi, được tha theo lời hứa danh dự hồi mùa xuân. Sau đó, khi tôi ra tù, hắn viết cho tôi một bức thư. Dấu bưu điện ở Idaho. Hắn nhắc tôi cái việc chúng tôi hay bàn với nhau. Về Mexico. Ý đấy là chúng tôi sẽ đi tới Acapulo, một trong những nơi như thế, mua một tàu đánh cá và tự trông nom lấy - chở khách du lịch ra câu cá ở ngoài khơi.” Nye nói. “Cái tàu đó, các anh định lấy gì trả?” “Tôi đang đến đoạn đó đây,” Hickock nói. “Thế này, Perry bảo tôi hắn có một bà chị sống ở Fort Scott. Bà ta đang cầm hộ Perry một món tiền cũng khá nặng tay. Mấy nghìn đô la. Tiền bố hắn nợ hắn từ khi bán cơ ngơi điền sản đâu như tận trên Alaska. Hắn nói hắn đến Kansas để lấy món tiền.” “Và hai anh sẽ dùng tiền đó để mua cái tàu.” “Chính xác.” “Nhưng hóa ra lại không như thế.” “Tình hình là Perry ra tù chậm phải đến một tháng. Tôi gặp hắn ở một trạm xe buýt ở Kansas City.” “Khi nào?” Church hỏi. “Thứ mấy trong tuần?” “Thứ Năm.” “Và khi nào các anh đi Fort Scott?” “Thứ Bảy.” “14 tháng Mười một.” Mắt Hickock lóe lên ngạc nhiên. Người ta có thể thấy là hắn đang thầm hỏi tại sao Church lại có thể nói ra ngày giờ chắc nịch đến như vậy; và Church - do thấy mình đã trót khuấy lên sự ngờ vực sớm quá, thế là không hay - liền vội nói, “Các anh rời đi Fort Scott lúc nào?” “Chiều hôm đó. Chúng tôi sửa cái xe của tôi một lát, ăn một chầu ớt cay ở quán cà phê West Side. Phải vào khoảng ba giờ.” “Khoảng ba giờ. Chị của Perry Smith có chờ các anh không?” “Không. Vì, ông hiểu không, Perry đánh mất địa chỉ bà ta. Mà bà ta lại không có điện thoại.” “Vậy các anh tính gặp bà ta như thế nào?” “Bằng cách hỏi bưu điện vậy.” “Có hỏi không?” “Perry hỏi. Họ nói bà ấy dọn đi chỗ khác rồi. Đến Oregon, chắc vậy. Nhưng bà ấy chẳng để lại một địa chỉ nào để tìm theo được.” “Chắc phải là một đòn choáng nhỉ. Khi mà các anh cứ trông mong vào một khoản tiền lớn đến thế.” Hickock tán thành. “Vì là... chúng tôi quyết định dứt khoát đi Mexico. Không thế thì chúng tôi sẽ chẳng bao giờ thanh toán được séc giả. Nhưng tôi hy vọng... Bây giờ xin nghe tôi; tôi nói sự thật. Tôi nghĩ một khi đã đến Mexico và bắt đầu làm ra tiền rồi, lúc đó tôi sẽ có khả năng thanh toán cho họ. Các séc ấy.” Nye xen vào, “Khoan đã, Dick.” Nye là một người thấp bé, nóng tính, ông khó kìm được cái tính hăng đốp chát cũng như cái tài nói vừa đau vừa thẳng của mình. “Tôi muốn nghe một ít về chuyến đi Fort Scott,” ông nói, cố gượng nhẹ. “Khi không gặp được chị của Smith ở đó nữa thì các anh làm gì?” “Đi bộ loanh quanh. Uống chầu bia. Lái xe về.” “Ý ông nói là về nhà?” “Không, về Kansas City. Chúng tôi dừng lại ở Zesto, tiệm ăn lẹ cho xe hơi vào ăn rồi ra ngay. Ăn bánh mì kẹp pa tê. Rồi thử chút hàng anh đào Cherry Row.” Cả Nye và Church đều không hiểu Cherry Row là gì. Hickock nói, “Các ông đùa à? Cảnh sát nào ở Kansas City mà chẳng biết.” Khi hai ông nhắc lại là mình không biết thật, Hickock giải thích rằng đó là một rẻo công viên nơi người ta gặp “phần lớn là phò chuyên nghiệp”, nhưng nói thêm rằng “có cả đám nghiệp dư nữa. Y tá, nữ thư ký. Tôi hay vớ bở với bọn họ lắm.” “Thế tối ấy có vớ bở không?” “Tệ. Cuối cùng vớ phải hai con đểu.” “Tên gì?” “Milfred. Đứa kia, con của Perry là Joan, tôi nghĩ vậy.” “Tả xem nào.” “Có lẽ là chị em. Đều tóc vàng. Bụ bẫm. Tôi không rõ lắm về chuyện đó. Xem nào, hai đứa đã mua một chai pha sẵn Orange Blossoms - tức là cam và vodka ấy mà - và tôi đã có phần xỉn. Chúng tôi cho bọn gái uống một ít rồi lái chúng nó đến Bến Nhộn. Tôi nghĩ các vị đàng hoàng lịch sự thế này chắc chưa nghe đến bao giờ nhỉ?” Họ chưa nghe thật. “Nó ở trên đường Blue Ridge. Tám dặm phía nam Kansas City. Một thứ phối hợp hộp đêm với khách sạn mini. Ông trả mười đô la để có một chìa khóa vào một ca bin.” Hickock nhe răng ra cười cợt nhả. Tiếp tục, hắn tả cái ca bin mà hắn nói cả bốn đứa đã qua đêm; giường đôi, một tấm lịch Coca Cola cũ, một cái rađiô chỉ chạy khi khách hàng bỏ vào một đồng tiền. Cung cách điềm tĩnh, sự mạch lạc và kiểu trình bày tỉ mỉ các chi tiết có thể kiểm chứng được của hắn làm Nye ngạc nhiên - tuy dĩ nhiên là cha này đang nói dối. Chậc, mà hắn có nói dối thật không đấy? Hoặc vì cơn cúm sốt hoặc vì lòng tự tin đột ngột bị nguội đi, Nye vã mồ hôi lạnh ra. “Sáng ra chúng tôi thức dậy thì thấy là mình bị hai con đó lừa, cuỗm sạch tiền rồi,” Hickock nói. “Tôi không mất nhiều. Nhưng Perry thì mất cái ví có bốn năm chục đô la.” “Các anh làm gì với chuyện đó?” “Có cái gì mà làm chứ.” “Các anh có thể báo cảnh sát.” “Á, à, thôi. Cho nghỉ. Báo cảnh sát. Một thằng được tha theo lời hứa không được phép nhậu nhẹt chơi bời mà lại đi báo tin cho các ông à. Hoặc là hợp tác với một cha cũng ở Old Grad...” “Được rồi, Dick. Hôm ấy Chủ nhật. 15 tháng Mười một. Hãy nói xem hôm đó từ lúc ra khỏi Bến Nhộn các anh làm gì.” “À, chúng tôi ăn điểm tâm ở một bến xe tải đỗ gần Happy Hill. Rồi chúng tôi đi tới Olathe, tôi thả Perry xuống đó, ở cái khách sạn hắn trọ. Chắc lúc đó khoảng mười một giờ. Sau đó, tôi về nhà ăn tối với gia đình. Chủ nhật nào cũng vậy. Xem ti vi - trận đấu bóng rổ hoặc có khi là bóng bầu dục. Tôi khá là mệt.” “Anh gặp lại Perry Smith lúc nào?” “Thứ Hai. Hắn đến chỗ tôi làm việc. Tiệm sửa xe Bob Sands.” “Và các anh nói đến chuyện gì? Mexico?” “À, chúng tôi vẫn thích cái ý ấy, ngay cả khi không có tiền để làm những chuyện chúng tôi trù tính - làm ăn kiếm tiền ở đấy. Nhưng chúng tôi muốn đi, và hình như cũng là đáng để mạo hiểm đây.” “Đáng để một lần nữa vào nằm khàn ở Lansing chứ?” “Cái đó thì không nghĩ đến đâu. Chậc, chúng tôi chẳng bao giờ có ý lại để nhà nước nuôi báo cô nữa đâu mà.” Đang ghi ghi chép chép vào sổ tay, Nye nói, “Sau ngày tiêu xả láng séc giả - hôm đó là ngày 21 - anh và bạn anh, Smith đều biến mất. Dick này, giờ hãy phác qua những sự đi sự đứng của các anh từ lúc đó cho tới lúc các anh bị bắt ở Las Vegas đây xem. Nói khái quát thôi.” Hickock huýt sáo miệng rồi trợn mắt lơ láo. “Chu cha!” hắn nói và rồi, vận hết cái thứ khả năng giống như là khả năng ôn nhớ lại toàn bộ quá khứ, hắn bắt đầu bản tường trình cả chuyến đi dài - khoảng mười nghìn dặm mà hắn và Smith đã đi trong sáu tuần qua. Hắn nói liền một giờ hai mươi lăm phút - từ hai giờ năm mươi tới bốn giờ mười lăm phút - và kể ra, trong khi Nye có ghi lại, tên các xa lộ và khách sạn, motel ven đường, sông, thị trấn, thành phố, một dàn hợp xướng những cái tên quyện lấy nhau; Apache, El Paso, Corpus Christi, Santillo, San Luis Porosí, Acapulco, San Diego, Dallas, Omaha, Sweetwater hay Nước Ngọt, Stillwater hay Nước Tĩnh, Tenville Junction, Tallahassee, Needles, Miami, khách sạn Nuevo Waaldorf, khách sạn Somerset, khách sạn Simone, khách sạn Arrowheand, khách sạn Cherokee, và nhiều, nhiều tên khác nữa. Hắn cho cả tên người ở Mexico mà hắn đã bán chiếc Chevrolet cũ đời 1949 của hắn, thú thật là đã ăn cắp một chiếc mới hơn ở Iowa. Hắn tả lại những người hắn và Perry đã gặp: một bà già người Mexico, giàu và dâm; Orco, một “triệu phú” Đức; một cặp võ sĩ quyền anh người da đen “diện ngất” lái một chiếc Cadillac màu tím nhạt “diện ngất”; ông chủ mù của một trại nuôi rắn đuôi chuông ở Florida; một lão già ngắc ngoải với thằng cháu nội; và nhiều người khác nữa. Khi kể xong hắn khoanh tay lại ngồi với một nụ cười hài lòng, tựa hồ đang chờ nghe lời bình về cái hài hước, sự rõ ràng minh bạch và vẻ hồn nhiên con nít của câu chuyện đi đường của mình. Nhưng Nye đang lia vội ngòi bút đuổi theo lời kể, và Church, uể oải, một bàn tay nắm lại gí vào lòng bàn tay mở, thì chẳng nói gì - rồi thình lình ông nói, “Tôi đoán là các anh biết tại sao chúng tôi lại ở đây chứ.” Miệng Hickcock thẳng ngay lại - dáng ngồi cũng vậy. “Tôi đoán các anh cũng đã hiểu là chúng tôi chẳng khi nào lại bỏ công đi từng ấy đường đất đến Nevada chỉ để tán chuyện với hai kẻ lừa đảo dăm ba tấm séc giả mà thôi.” Nye đã gấp sổ tay lại. Ông cũng đang nhìn chằm chằm gã tù, quan sát thấy một mạch máu đang nổi lên ở trên thái dương bên trái hắn. “Chúng tôi có làm cái việc như thế không, Dick?” “Gì cơ?” “Đi xa đến như thế để chỉ nói về có một dúm séc thôi.” “Tôi chẳng nghĩ ra được lý do nào khác cả.” Nye vẽ một con dao găm lên bìa sổ tay. Trong khi vẽ, ông nói, “Dick, nói tôi nghe nào. Anh có nghe nói đến vụ án mạng Clutter bao giờ chưa?” Việc này, sau đó ông viết trong báo cáo chính thức về cuộc hỏi cung, “Nghi phạm có một phản ứng mãnh liệt nhìn thấy rõ. Hắn trở nên xám ngoét. Mắt hắn giật lia lịa.” Hickock nói, “Chà, giờ thì thôi nhé. Dừng lại đây đi. Tôi không phải kẻ giết người chó chết nào hết á.” “Câu hỏi là,” Church nhắc hắn, “anh có nghe thấy các vụ giết người nhà Clutter không?” “Chắc là tôi có đọc được một chuyện kiểu kiểu như thế,” Hickcock nói. “Một vụ án mạng xấu xa. Xấu xa. Hèn nhát.” “Và gần như là hoàn hảo,” Nye nói. “Nhưng các anh đã phạm hai sai lầm, Dick. Một là anh đã để lại một nhân chứng. Nhân chứng sống. Sẽ làm chứng trước tòa. Sẽ đứng ở bục nhân chứng mà nói với ông chánh án rằng Richard Hickock và Perry Smith đã trói, dán miệng và tàn sát bốn người không có thứ gì tự vệ trong tay.” Mặt Hickock lấy lại màu đỏ bình thường. “Nhân chứng sống. Không thể có được!” “Vì anh tưởng các anh đã thanh toán được hết tất cả mọi người rồi chứ gì?” “Tôi nói thế bao giờ! Không ai có thể gán cho tôi vụ án mạng chó chết nào hết. Séc giả. Ăn cắp vặt tí ti thì có. Nhưng tôi không phải là quân giết người khốn nạn.” “Thế tại sao,” Nye hỏi đánh độp, “tại sao anh phải nói dối chúng tôi?” “Tôi nói sự thật mười mươi với các ông.” “Thỉnh thoảng thôi. Không phải lúc nào cũng thật. Chẳng hạn về chiều thứ Bảy, ngày 17 tháng Mười một ấy. Anh bảo là đi xe đến Fort Scott.” “Đúng.” “Và tới đó rồi thì các anh đến bưu điện.” “Đúng.” “Để lấy địa chỉ của chị Perry Smith.” “Phải.” Nye đứng dậy. Ông đi vòng ra sau lưng Hickock, đặt tay lên lưng ghế hắn ngồi, cúi xuống tựa như thì thào vào tai người tù. “Perry Smith không có bà chị nào sống ở Fort Scott,” ông nói. “Hắn không có chị ở đó bao giờ. Và chiều thứ Bảy bưu điện Fort Scott đóng cửa.” Rồi ông nói, “Dick, nghĩ kỹ đi. Hôm nay thì thế thôi. Sẽ còn nói với anh nữa.” Sau khi Dick đã được giải đi rồi, Nye và Church băng qua hành lang, nhìn vào lỗ quan sát một chiều lắp trên cánh cửa phòng hỏi cung, theo dõi cuộc thẩm vấn Perry Smith - một cảnh tượng nhìn chứ không nghe thấy được. Lần đầu tiên trông thấy Perry Smith, Nye ngạc nhiên về đôi chân hắn ta - chân hắn ngắn quá đến nỗi bàn chân bé như chân trẻ con, không thể chạm được tới sàn. Đầu Smith - mái tóc da đỏ cứng queo, nước da tối pha trộn màu Ailen với màu da đỏ cùng những nét tinh quái, ngỗ ngược - làm cho ông nhớ lại người chị xinh đẹp của nghi phạm, bà Johnson tử tế. Nhưng cái thằng trẻ con-đàn ông bất thành nhân dạng, lùn tì mập chắc này chẳng có gì đẹp; đầu lưỡi đỏ hồng nhọn hoắt của hắn thòi ra, lật phật như lưỡi con thằn lằn. Hắn đang hút thuốc, và từ những hơi khói thở ra đều đều của hắn, Nye có thể suy ra rằng hắn vẫn còn “trinh” - tức là vẫn chưa được thông báo về mục đích thật sự của cuộc thẩm vấn. Nye đúng. Vì Dewey và Duntz, những tay nhà nghề kiên trì, đã dần dần bó hẹp chuyện đời gã tù vào những sự kiện của bảy tuần vừa qua, rồi rút lại chỉ còn tập trung vào cái cuối tuần chủ chốt - trưa thứ Bảy tới trưa Chủ nhật, ngày 14 tới ngày 15 tháng Mười một. Bây giờ, sau khi đã bỏ ba giờ đồng hồ ra dọn đường cho đòn đánh, họ không còn cách thời điểm tung đòn bao xa nữa. Dewey nói, “Perry, chúng ta hãy xem lại vị trí của chúng ta. Anh được tha theo lời hứa, với điều kiện là anh không bao giờ được quay trở lại bang Kansas.” “Cái bang của Hoa hướng dương ấy mà. Tôi ngấy tận cổ với nó rồi.” “Đã cảm thấy như vậy sao anh còn quay về đó? Chắc anh có một lý do nào mạnh lắm.” “Tôi đã nói với ông rồi. Để gặp chị tôi. Để lấy tiền chị ấy đang giữ cho tôi.” “À, đúng. Bà chị mà anh và Hickock cố tìm ra ở Fort Scott, Perry, từ Fort Scott đến Kansas City bao xa?” Smith lắc đầu. Hắn không biết. “Được, anh phải mất bao nhiêu thì giờ để lái xe đến đó?” Không trả lời. “Một giờ? Hai? Ba? Bốn?” Người tù nói mình không nhớ. “Dĩ nhiên anh không thể nhớ được. Vì cả đời anh đã bao giờ đến Fort Scott đâu.” Cho đến lúc đó, chưa có nhà thám tử nào cật vấn vào bất cứ chỗ nào trong lời khai của Smith. Hắn cựa quậy trên ghế; lè đầu lưỡi ra liếm môi. “Sự thật là các anh chẳng ai nói với chúng tôi sự thật hết. Các anh không hề đặt chân đến Fort Scott. Các anh không hề gọi con điếm nào cũng chẳng đưa chúng đến một khách sạn nào.” “Chúng tôi có. Đừng đùa.” “Tên họ là gì?” “Tôi không hỏi.” “Anh và Hickock ngủ một đêm với các cô gái điếm ấy mà lại không hỏi tên ư?” “Toàn tụi điếm ấy mà.” “Nói tên cái khách sạn ra cho chúng tôi nào.” “Hỏi Dick ấy. Hắn sẽ biết. Tôi không bao giờ nhớ những cái tào lao như vậy.” Dewey bảo người đồng sự. “Clarence, tôi nghĩ đã đến lúc chúng ta chỉnh cho Perry thẳng ra rồi đấy nhỉ?” Duntz nhoài ra đằng trước. Ông là một người nặng cân với sự lanh lẹ bất thần của võ sĩ quyền Anh hạng trung, nhưng mắt ông thì không lộ và lờ đờ lững khững. Ông nói ề à; mỗi từ nói ra đều ngập ngừng và mang giọng vùng nuôi bò ngựa, kéo dài cả một hồi. “Vâng, thưa ngài,” ông nói, “Về khoản thì giờ.” “Nghe rõ này, Perry. Vì ông Duntz sắp nói thật sự ra anh ở đâu cái đêm thứ Bảy ấy đấy. Các anh ở đâu và các anh đang làm gì.” Duntz nói, “Các anh đang giết nhà Clutter.” Smith nuốt khan. Hắn bắt đầu co gập đầu gối. “Các anh ở ngoài Holcomb, bang Kansas. Ở nhà ông Herbert W. Clutter. Trước khi rời đi, các anh đã giết tất cả những người ở trong ngôi nhà đó.” “Không bao giờ. Tôi không bao giờ.” “Không bao giờ gì?” “Biết người nào tên là Clutter.” Dewey gọi hắn là đứa nói dối, thế rồi chơi lá bài mà khi hội ý trước đó cả bốn thám tử đã nhất trí là chơi úp kín, ông bảo hắn, “Chúng tôi có một nhân chứng sống, Perry. Một người mà các chú mày không nhìn thấy.” Một phút hẳn hoi trôi qua, và cái im lặng của Smith làm Dewey sướng rơn, vì một người vô tội thì sẽ hỏi ai là nhân chứng đó, nhà Clutter là những người nào và tại sao họ lại nghĩ là hắn giết - dù gì thì hắn cũng nói ra một cái gì. Nhưng Smith ngồi im, khép chặt hai đầu gối lại. “Sao nào, Perry?” “Ông có aspirin không? Họ lấy mất aspirin của tôi rồi.” “Khó chịu à?” “Chân tôi khó chịu.” Lúc đó là năm giờ rưỡi, cố ý để cho đột ngột, Dewey kết thúc cuộc hỏi cung. “Mai chúng ta bắt đầu từ chỗ này,” ông nói. “Nhân đây, anh có biết ngày mai là thế nào không? Sinh nhật của Nancy Clutter. Nếu chưa chết thì ngày mai cô ấy tròn mười bảy tuổi.” “Nếu chưa chết thì ngày mai cô ấy tròn mười bảy tuổi.” Tỉnh dậy vào lúc rạng sáng, Perry tự hỏi (về sau hắn kể lại vậy) có đúng hôm nay là sinh nhật của cô gái không, và quả quyết là không phải, đây chỉ là một cách để họ moi ruột gan hắn ra, cũng như chuyện có một nhân chứng - một “nhân chứng sống” kia đấy. Không thể có được. Hay là họ muốn nói... Giá mà hắn nói chuyện được với Dick nhỉ! Nhưng hắn và Dick đang bị giam riêng; Dick bị nhốt trong một xà lim tầng khác, “Nghe cho kỹ, Perry, vì ông Duntz đây sắp nói ra chuyện anh đã thực sự ở đâu...” Giữa chừng cuộc hỏi đáp, sau khi để ý thấy nhiều lần người ta bóng gió nói tới một dịp cuối màn đặc biệt của tháng Mười một vừa qua thì hắn đã nơm nớp sợ cái mà hắn biết là sẽ đến, nhưng khi nó đến, khi gã cao bồi to lớn có cái giọng ngái ngủ nói, “Anh đang giết gia đình Clutter” thì, ôi, hắn gần như chết đứng. Hắn chắc phải sụt mất năm ký trong vòng hai tích tắc ấy. Nhờ trời hắn đã không để cho họ thấy. Hay hy vọng là thế. Còn Dick? Họ chắc cũng lại chơi trò đe dứ này với Dick. Dick khôn ranh láu cá, một thằng cha giỏi làm bộ, nhưng cái “gan góc” của nó cũng không thể tin cậy, nó quá dễ hốt hoảng. Cứ cho là thế đi nữa, Perry vẫn tin là Dick sẽ vững dù có bị họ o ép thế nào. Trừ phi nó muốn bị treo cổ. “Và trước khi rời nhà ấy đi anh đã giết tất cả những người ở đó.” Hắn sẽ không ngạc nhiên nếu như tất cả cựu Ấp viên ở Kansas đều đã được nghe câu chuyện này. Họ đã đã thẩm vấn đến hàng trăm người và chắc chắn là đã khép tội tới cả chục mống, hắn và Dick chỉ là hai đứa thêm vào số đó mà thôi. Mặt khác, ừ, liệu Kansas có phái bốn đặc vụ đi hàng nghìn dặm chỉ để nhốt lấy một cặp tù nhép vi phạm lời hứa không cơ chứ? Có lẽ như thế nào đó họ đã tình cờ vớ phải một cái gì đó hay ai đó - một “nhân chứng sống”. Nhưng chuyện ấy là không thể có được. Trừ phi… hắn sẵn sàng cho đi cả một cánh tay hay một cẳng chân để được nói chuyện với Dick năm phút. Và lúc đó Dick thức giấc trong xà lim tầng dưới, cũng (về sau hắn nhớ lại) đầy khao khát được trò chuyện với Perry - tìm hiểu xem thằng ma cô kia đã nói gì với họ. Lạy Chúa, ta đâu thể tin tưởng rằng nó sẽ nhớ nổi dù chỉ một chút lờ mờ về cái bằng cớ ngoại phạm là chúng có mặt tại Bến Nhộn lúc xảy ra án - tuy chúng đã bàn với nhau khá nhiều lần. Và khi bọn chó chết kia lại dọa hắn về một nhân chứng nữa! Cá mười ăn một là thằng quỷ lỏi sẽ nghĩ họ có ý nói tới một người chứng kiến tận mắt đây. Trái lại hắn, Dick, thì lập tức biết ngay cái gọi là nhân chứng ấy chắc chỉ là Floyd Wells thôi, thằng bạn cũ và chung xà lim với hắn trước đây. Thời gian mấy tuần cuối hạn tù, Dick đã định đâm chết Floyd - đâm nó chết, đâm thẳng vào tim bằng một cây “dao lá liễu” tự chế - thế mà hắn lại không giết, ngu thế không biết. Ngoài Perry ra, Floyd Wells là người duy nhất có thể gắn liền tên của Hickock với Clutter. Cái thằng Floyd vai xuôi cằm lẹm ấy - Dick đã tưởng là nó sợ quá kia chứ. Thằng chó ấy chắc là trông đợi một món thưởng khớ đây - được tha theo lời hứa hoặc được tiền, hoặc cả hai. Nhưng trước khi nó được thì trời đã sụp rồi. Vì lời mách lẻo của một thằng tù đâu thể là tang chứng được. Tang chứng phải là dấu chân, dấu tay, nhân chứng, lời tự thú. Mẹ kiếp, nếu cái lũ cao bồi kia cứ phải tiếp tục vin vào chuyện Floyd Wells kể thì chẳng có gì phải lo lắng nhiều. Xét đến cùng, Floyd nguy hiểm không bằng một nửa Perry. Nếu Perry chùng gân mà nhè mọi chuyện ra thì hắn sẽ cho cả hai thằng vào Cái Xó. Và đột nhiên hắn nhìn thấy sự thật: chính Perry mới là người mà đáng lẽ hắn phải làm cho im miệng. Trên một đoạn đường núi ở Mexico. Hoặc trong lúc đi bộ qua sa mạc Mojave. Tại sao đến bây giờ cái ý đó mới đến với hắn chứ? Vì bây giờ, bây giờ thì đã quá muộn rồi. Cuối cùng, vào lúc ba giờ năm phút chiều hôm đó, Smith thú nhận chuyện đi Fort Scott là giả. “Đó chỉ là một cái cớ Dick nói với gia đình hắn. Để cho hắn có thể đi vắng cả đêm ở ngoài. Nhậu tí chút. Chẳng là bố Dick theo dõi con sát sao lắm - sợ hắn vi phạm lời hứa. Cho nên chúng tôi tìm cái cớ bà chị. Chỉ là để cho ông Hickock yên tâm.” Ngoài ra, hắn nhắc đi nhắc lại hoài câu chuyện đó, bất chấp bao nhiêu lần uốn nắn và cáo buộc hắn nói dối, Duntz cùng Dewey vẫn không thể làm cho hắn thay đổi được - có chăng chỉ khiến hắn thêm vào vài chi tiết mới mẻ. Tên của hai gái điếm, hôm nay hắn nhớ ra là Milfred và Jane (hay Joan). “Chúng lừa chúng tôi,” bây giờ hắn nhớ lại. “Chuồn đi đem theo tất tật món tiền còm của chúng tôi trong khi chúng tôi đang ngủ.” Cho dù Duntz đã làm mất cái vẻ bình tĩnh của hắn đi - đã lột bỏ, cùng với áo ngoài và cà vạt, cái dáng đường hoàng uể oải bí ẩn của hắn - Smith vẫn còn cái vẻ hài lòng và thanh thản; hắn không chịu suy suyển. Hắn chưa bao giờ nghe nói đến nhà Clutter hay Holcomb, thậm chí đến Garden City nữa. Bên kia gian sảnh, trong gian phòng sặc khói thuốc lá, nơi Hickock đang qua lần hỏi cung thứ hai, Church và Nye áp dụng một chiến lược vòng vo vu hồi. Trong cuộc thẩm vấn mà đến lúc này gần như đã kéo dài những ba tiếng đồng hồ, không ai trong hai người nhắc đến vụ án mạng dù chỉ một lần - sự bỏ lơ này làm cho gã tù luôn luôn hồi hộp và cáu kỉnh. Họ nói đến đủ thứ khác: triết học tôn giáo của Hickock (“Tôi biết địa ngục. Tôi đã từng ở đó. Có lẽ cũng có thiên đường thật. Nhiều người giàu có nghĩ như vậy.”); tiền sử tính dục của hắn (“Tôi lúc nào cũng ứng xử như người bình thường trăm phần trăm”); và một lần nữa, câu chuyện về cuộc lẩn trốn việt dã mới đây của hắn (“Tại sao chúng tôi cứ đi mãi như thế, lý do duy nhất là chúng tôi tìm việc làm. Tuy chẳng tìm được việc gì tử tế. Tôi đã đào mương một ngày trời…”) Nhưng những điều không nói ra mới là trung tâm của sự chú ý - cái nguyên nhân của việc Dick ngày càng thất vọng, các nhà thám tử đang chắc chắn như vậy. Lúc này hắn đang nhắm mắt, day mí bằng những ngón tay run rẩy. Và Church nói, “Có trục trặc gì không?” “Nhức đầu. Tôi hay bị những cái chó chết này.” Nye liền nói, “Dick, nhìn tôi đây.” Hickock nghe lời, với một cái vẻ mà nhà thám tử hiểu ra như là cầu xin hãy nói, hãy kết tội và để cho hắn trốn thoát vào trong chánh cung của sự phủ nhận trước sau như một không thay đổi. “Hôm qua khi chúng ta bàn đến chuyện này, anh có thể nhớ lại lời tôi nói rằng các vụ giết người ở nhà Clutter là một vụ án gần như hoàn hảo. Bọn giết người chỉ phạm có hai sai lầm. Thứ nhất, chúng đã để lại nhân chứng. Thứ hai, ừm, tôi sẽ cho anh xem.” Đứng dậy, ông lấy từ trong góc phòng ra một cái hộp và một cái cặp, cả hai vật này ông đã mang vào phòng hỏi cung từ đầu. Ông lấy trong cặp ra một tấm ảnh lớn. “Cái này,” ông nói, để tấm ảnh lên bàn, “là bản phóng nguyên khổ một vài vết chân tìm thấy gần xác ông Clutter. Còn đây,” ông mở cái hộp ra, “là những đôi ủng đã để lại những dấu đó. Đôi ủng của anh, Dick.” Hickock nhìn rồi quay đi. Hắn ngồi hai khuỷu tay tì lên đầu gối, mặt vùi vào hai bàn tay. “Smith,” Nye nói, “lại còn ít thận trọng hơn. Chúng tôi cũng có đôi ủng của hắn, chúng hoàn toàn khớp với một bộ dấu chân khác. Những dấu chân có dính máu.” Church đánh áp sát. “Đây là cái điều sắp xảy đến với anh, Hickock,” ông nói. “Anh sẽ bị đưa lại về Kansas. Anh sẽ bị kết án bốn vụ giết người ở cấp một. Vụ thứ nhất: vào ngày hoặc vào khoảng ngày 15 tháng Mười một năm 1959, một người tên Richard Eugene Hickock, một cách phi pháp, cố ý và cố tình, có tính toán trước, và trong khi dính vào việc gây ra tội ác, đã giết và lấy đi sinh mạng của Herbert W. Clutter. Vụ thứ hai: vào ngày hoặc vào khoảng ngày 15 tháng Mười một năm 1959, cũng Richard Eugene Hickock, một cách phi pháp...” Hickock nói, “Perry Smith giết nhà Clutter.” Hắn ngẩng đầu, từ từ ngồi thẳng trên ghế, như một người vật nhau đang loạng choạng đứng dậy. “Perry đấy. Tôi không ngăn hắn lại được. Hắn đã giết tất cả.” Đang nhâm nhi cà phê nhân giờ nghỉ ở quán cà phê Hartman, bà Clare chánh bưu điện phàn nàn âm lượng rađiô mở bé. “Cho nó to lên đi nào,” bà nói. Rađiô đang mở kênh phát thanh KIUL của Garden City. Bà nghe được mấy lời, “… sau khi nức nở đau đớn thú tội, Hickock nhô ra khỏi phòng thẩm vấn và té xỉu ở hành lang. Các nhân viên K.B.I. giữ lấy hắn khi hắn ngã xuống sàn. Các nhân viên dẫn lời Hickock nói hắn và Smith xâm nhập nhà Clutter mong tìm thấy một két sắt đựng ít nhất mười nghìn đô la. Nhưng không có két nào, cho nên chúng trói gia đình lại và lần lượt bắn từng người một. Smith không nhận cũng không chối là đã tham gia vụ án mạng. Khi nghe nói Hickock đã ký vào một bản thú tội, Smith nói, “Tôi muốn xem bản của bồ tôi khai,” nhưng đề nghị này đã bị bác. Các cảnh sát từ chối cho hay Hickock hay Smith là người thực sự đã bắn các thành viên gia đình Clutter. Họ nhấn mạnh bản khai này chỉ là của Hickock. Nhân viên K.B.I. đưa hai gã này quay về Kansas, họ rời Las Vegas bằng xe hơi. Dự kiến họ sẽ về đến Garden City vào sẩm tối thứ Tư. Trong khi đó, ông chưởng lý hạt West…” “Lần lượt từng người,” bà Hartman nói. “Cứ tưởng tượng xem. Tôi không tin là cái đồ lưu manh đó mà lại ngất được.” Những người khác trong quán - bà Clare, bà Mabel Helm và một chủ trại trẻ tuổi lực lưỡng vừa ghé lại mua một bìa thuốc lá nhai hiệu Con lừa - cứ lầm bà lầm bầm. Bà Helm đắp lên mắt một mảnh khăn ăn. “Tôi chả nghe đâu,” bà nói. “Tôi không được phép nghe, tôi chả nghe đâu.” “… tin về vụ phá án nhận được rất ít phản ứng ở thị trấn Holcomb, cách nhà Clutter chừng nửa dặm… Nói chung, dân thị trấn ở cái cộng đồng hai trăm bảy chục người này đã tỏ ra nguôi dịu…” Người chủ trại trẻ huýt gió. “Nguôi dịu! Có biết là đêm qua vợ tôi sau khi nghe tin trên ti vi đã làm sao không? Khóc ầm lên như một đứa bé vậy.” “Suỵt,” bà Clare nói. “Tôi đây này.” “… và bà chánh bưu điện ở Holcomb, bà Myrtle Clare nói dân chúng ở đây rất vui là vụ án đã được phá, nhưng một số bà con vẫn cảm thấy rằng còn có những người khác dính líu nữa. Bà nói hiện giờ nhiều người vẫn cứ khóa chặt cửa và súng ống kè kè…” Bà Hartman cười to. “Ôi Myrt ơi!” bà nói. “Bà nói với ai vậy?” “Một phòng viên của tờ Điện tín.” Những ông có quen biết bà Clare, nhiều người trong số đó xưa nay vẫn đối xử với bà như với đàn ông. Người chủ trại phát vào lưng bà một cái mà nói, “Chà Myrt, bà bạn ơi. Không phải bà vẫn nghĩ là một người trong chúng tôi - một ai đó quanh đây - có liên quan đến vụ đó chứ?” Nhưng dĩ nhiên đó là điều bà Clare nghĩ, và tuy trước nay bà thường không bị đơn độc trong ý kiến của mình song lần này không có ai ủng hộ bà, vì phần lớn dân Holcomb, đã sống suốt bảy tuần giữa những tin đồn vô bổ, trong sự mất lòng tin và nghi ngại lẫn nhau, đã tỏ ra thất vọng khi nghe nói kẻ giết người không phải là dân ở đây. Quả thế, phần lớn không chịu chấp nhận việc hai kẻ lạ mặt, hai đứa ăn cắp ở đâu đâu lại là thủ phạm duy nhất. Như bà Clare nhận xét, “Có thể mấy thằng đó có làm thật. Nhưng còn kẻ khác nữa đấy. Chờ xem. Hôm nào đấy họ sẽ khoắng tới đây, và chừng đó họ sẽ khui ra cái đứa đứng ở đằng sau. Cái đứa nào muốn gạt ông Clutter khỏi đường đi của nó. Cái đứa đầu não ấy.” Bà Hartman thở dài. Bà hy vọng bà Clare sai. Rồi bà Helm nói, “Tôi chỉ mong họ giam chặt chúng nó lại. Biết chúng nó ở gần đây là tôi cảm thấy chả yên tâm thoải mái tí nào.” “Ồ thưa bà, tôi nghĩ bà không phải lo lắng đâu,” người chủ trại trẻ tuổi nói. “Bây giờ thì mấy đứa kia chúng nó sợ ta nhiều hơn là ta sợ chúng nó ấy chứ.” Trên một xa lộ bang Arizona, một đoàn hai xe đang phóng vun vút qua vùng đất ngải đắng - các quả đồi đĩnh phẳng như mặt bàn đầy chim ó, rắn đuôi chuông và những tảng đá đỏ dựng cao chất ngất. Dewey lái xe trước, Perry Smith ngồi cạnh ông, Duntz ở ghế sau. Smith bị còng tay, còng số tám buộc vào thắt lưng an toàn bằng một đoạn xích ngắn - kiểu bố trí này hạn chế cử động của hắn quá đến mức hắn không thể hút thuốc được nếu không có người giúp. Khi hắn muốn hút thuốc, Dewey phải châm cho hắn rồi đặt vào giữa hai môi hắn, một nhiệm vụ mà ông cảm thấy “kinh tởm”, vì nó có vẻ như một hành vi thân thiết - loại hành vi mà ông từng làm khi tán tỉnh vợ ông. Nói chung, người tù không để ý đến những người canh giữ hắn cũng như ý định thường trực của họ là khiêu khích hắn bằng cách nhắc lại lời thú tội được ghi âm dài cả giờ của Hickock: “Hắn nói hắn đã muốn ngăn anh lại đấy, Perry. Nhưng không được. Nói hắn sợ anh còn bắn cả hắn nữa,” và “Vâng, thưa ông Perry. Tội vạ là ở ông hết. Chính Hickock nói, đến một con rận chó hắn còn không có khả năng làm hại nữa cơ.” Chẳng có cách nào làm cho Smith bị kích động cả - bề ngoài thì vậy. Hắn tiếp tục ngắm cảnh, đọc những bài thơ dở ẹc của Burma-Shave, đếm xác những con chồn hôi bị bắn, vắt lên hàng rào trại chăn nuôi như đồ trang điểm. Không tính trước tới bất cứ một câu trả lời nào đặc biệt, Dewey nói, “Hickock bảo chúng tôi anh là một kẻ sát nhân bẩm sinh. Bảo là giết người chẳng làm anh thấy băn khoăn gì hết. Bảo là có lần ở Las Vegas ấy, anh đã cho đi đời một người da màu bằng một dây xích xe đạp. Quật đến chết người ta. Cho vui thôi.” Dewey ngạc nhiên thấy người tù thở hổn hển. Hắn vặn vẹo trên ghế cho đến khi nhìn thấy chiếc xe thứ hai qua khung kính sau xe, nhìn thấy bên trong nó: “Cái thằng mất dạy!” Quay lại, hắn nhìn đăm đăm vào vạt đường xa lộ tối xuyên qua sa mạc. “Tôi cứ nghĩ đấy là mánh của các ông cơ. Tôi đã không tin các ông. Rằng thằng Dick đã phun ra. Thằng mất dạy! Ồ, đúng là một thằng vô liêm sỉ. Sẽ chẳng làm hại đến cả một con rận chó. Chỉ chẹt chết chó thôi.” Hắn nhổ. “Tôi chưa giết một thằng mọi nào bao giờ.” Duntz tán thành với hắn; đã nghiên cứu hồ sơ về những vụ giết người chưa được phá ở Las Vegas, ông biết Smith vô tội trong cái vụ đặc biệt này. “Tôi chưa giết thằng mọi nào bao giờ. Nhưng nó nghĩ ra như thế. Tôi vẫn biết giả sử chúng tôi bị bắt, giả sử Dick phun ra, bao nhiêu ruột gan cho rơi xuống sàn nhà hát thì tôi biết là thế nào nó cũng sẽ nói đến chuyện thằng mọi.” Hắn lại nhổ. “Vậy là thằng Dick sợ tôi hả? Buồn cười thật đấy. Buồn cười quá. Điều nó không biết là tôi suýt nữa đã bắn nó rồi!” Dewey châm hai điếu thuốc, một cho mình, một cho người tù. “Nói về chuyện đó cho chúng tôi nghe đi, Perry.” Smith nhắm mắt lại hút, và giải thích. “Tôi đang nghĩ đây. Tôi muốn nhớ lại xem đúng ra thì nó vốn dĩ thế nào.” Hắn dừng một lát. “Ừ, tất cả bắt đầu từ một bức thư tôi nhận được khi ở ngoài kia, tại Buhl, Idaho. Tháng Chín hay tháng Mười gì đó. Thư của Dick, nó nói đang có một món hời. Vào cầu lắm. Tôi không trả lời, nhưng nó lại viết nữa, giục tôi về Kansas đi cùng với nó. Nó không nói loại cầu gì. Chỉ nói là ‘một món hời ăn chắc’. Giờ chuyện đã đến thế này thì tôi nói quách, tôi có một lý do khác nữa để muốn trở lại Kansas cùng thời gian đó. Một chuyện cá nhân từ lâu một mình tôi biết - chẳng dính dáng gì đến cái khác. Nếu không như thế thì tôi đã không trở lại đấy. Nhưng tôi đã trở lại. Và Dick đã gặp tôi tại trạm xe buýt ở Kansas City. Chúng tôi lái xe tới trại bố mẹ nó ở. Nhưng họ không muốn cho tôi ở đó. Tôi rất nhạy, tôi thường biết được người ta cảm thấy thế nào.” “Giống ông,” ý hắn muốn chỉ Dewey, nhưng không nhìn vào ông. “Ông ghét phải đưa tôi thuốc lá. Đó là việc của ông. Tôi không trách ông. Tôi cũng không trách gì mẹ của Dick. Sự thật thì bà ta là người đáng mến lắm. Nhưng bà ta biết tôi là cái gì - một thằng mới ở khám ra - nên bà ta không muốn tôi ở trong nhà bà ta. Lạy Chúa, được ra ngoài khách sạn thì sướng quá. Dick đưa tôi đến một khách sạn Olathe. Chúng tôi mua ít bia đem lên buồng, và lúc đó Dick mới nói phứt ra cái nó nghĩ trong đầu. Nó nói sau khi tôi rời Lansing, nó đã ở chung xà lim với một người từng làm việc cho một nhà trồng lúa mì giàu có ở tận miền Tây Kansas, ông Clutter. Dick vẽ sơ đồ nhà Clutter cho tôi xem. Nó biết hết cái gì ở đâu - cửa, sảnh, phòng ngủ. Nó bảo một trong các phòng tầng trệt được dùng làm văn phòng và trong văn phòng có một cái két - cái két ẩn trong tường. Nó bảo ông Clutter cần két vì ông ấy luôn luôn giữ những khoản tiền mặt lớn. Không bao giờ dưới nghìn đô la. Kế hoạch là ăn cắp cái két, và nếu như chúng tôi bị phát hiện, chà, bất cứ ai phát hiện ra chúng tôi thì đều phải cho đi cả. Dick phải nói đến hàng triệu lần: ‘Không để sót nhân chứng’.” Dewey nói, “Hắn nghĩ có thể có bao nhiêu nhân chứng? Tôi muốn nói hắn tính tìm thấy bao nhiêu người ở trong nhà Clutter?” “Đó là điều lúc đó tôi muốn biết. Nhưng nó không nắm chắc. Ít nhất bốn người. Có thể sáu. Và có thể gia đình lại mời khách nữa. Nó nghĩ chúng tôi nên chuẩn bị đối phó với mười hai người.” Dewey ừ hữ, Duntz huýt sáo và Smith mỉm cười nhợt nhạt nói thêm. “Tôi cũng nghĩ thế. Hình như thế thì hơi khó chơi. Mười hai người. Nhưng Dick bảo đây là một cú ăn chắc. Nó nói, “Chúng ta sẽ vào đó và hất tung tóe tóc lên tường một phen!” Với tâm trạng tôi lúc đó, tôi cứ để cho mình buông theo. Nhưng tôi cũng - thật thà mà nói - tin cậy Dick; nó làm tôi phục nó về đầu óc rất thực tế, kiểu đàn ông cứng rắn và tôi thì cũng cần tiền như nó. Tôi muốn có tiền rồi đi Mexico. Nhưng tôi hy vọng có thể làm mà không phải dùng đến bạo lực. Tôi thấy nếu như chúng tôi đeo mặt nạ vào thì chắc là được. Chúng tôi cãi nhau về chuyện này. Trên đường tới đó, tới Holcomb, tôi đã muốn đứng lại mua ít bít tất dài bằng lụa đen để chụp lên mặt. Nhưng Dick cảm thấy đeo mặt nạ vẫn cứ có thể bị nhận ra. Vì mắt nó kém. Rốt cuộc thì chúng tôi cũng vào thương xá Emporia...” Duntz nói, “Perry, từ từ. Anh nhảy bỏ quãng rồi. Hãy lùi lại Olathe. Các anh rời đó đi lúc nào?” “Một giờ. Một rưỡi. Chúng tôi rời đi đúng ngay sau bữa trưa và lái tới thương xá Emporia. Chúng tôi mua ở đấy ít găng tay cao su và một cuộn thừng. Dao và súng, đạn - Dick đã đem tất cả từ nhà nó theo. Nhưng nó lại không muốn đi tìm bít tất dài đen. Thành ra gần như tranh cãi. Ở đâu đó cạnh thương xá Emporia, chúng tôi đi qua một bệnh viện Cơ đốc giáo, tôi thuyết phục nó đỗ lại vào trong đó thử mua của các bà nữ tu vài đôi bít tất dài đen. Tôi biết đám nữ tu sĩ đi thứ đó. Nhưng nó chỉ vào cho có thôi. Nó đi ra rồi bảo họ không bán. Tôi chắc chắc nó không hỏi và nó cũng thú thật là không hỏi; nó bảo cái ý đó thối lắm - các nữ tu sĩ có thể bảo nó điên. Thế là chúng tôi không dừng lại nữa cho tới Quẹo Lớn. Chúng tôi mua băng dính ở đó. Ăn tối ở đó, một bữa tú ụ. Khiến tôi buồn ngủ. Khi tôi thức dậy thì vừa tới Garden City. Trông y như một thị trấn chết cứng rồi ấy. Chúng tôi mua xăng ở một trạm xăng…” Dewey hỏi liệu hắn có nhớ là trạm nào không. “Chắc là một trạm Philips 66.” “Lúc đó mấy giờ?” “Khoảng nửa đêm, Dick bảo còn cách Holcomb hơn bảy dặm. Suốt đoạn đường còn lại, nó cứ nói một mình, nói chắc là ở đây, chắc là ở kia - theo những chỉ dẫn mà nó còn nhớ được. Tôi khó nhận ra khi chúng tôi đi ngang qua Holcomb, nó chỉ là một khu định cư bé tí thôi mà. Chúng tôi băng qua một đường xe lửa. Thình lình Dick nói, “Đây rồi, nhất định là đây rồi.” Đó là lối vào một con đường riêng, cây trồng hai bên. Chúng tôi giảm tốc độ và tắt hết đèn xe. Không cần đèn. Vì có trăng, trên trời chẳng có một thứ gì hết - không một sợi mây, chẳng gì cả. Chỉ trăng tròn vành vạnh. Y như giữa ban ngày, và khi chúng tôi bắt đầu đi vào con đường thì Dick nói, ‘Nhìn xem cái dinh cơ bề thế kìa! Các nhà kho! Ngôi nhà! Đừng bảo tớ là thằng cha đó không có gì chất ở trong nhà đấy nhá.’ Nhưng tôi không thích cái phi vụ này, cái không khí này, kiểu như là nó quá nguy nga vậy. Chúng tôi đỗ xe ở dưới một bóng cây. Trong khi chúng tôi đang ngồi ở đó thì một ánh đèn pin bật lên - không phải ở trong tòa nhà chính mà là một cái nhà có lẽ ở cách đó một trăm mét về tay trái. Dick nói đó là nhà của người làm thuê, nó biết nhờ các sơ đồ. Nhưng nó nói cái nhà chết tiệt này lại gần nhà Clutter hơn nó tưởng. Rồi ánh sáng ấy tắt. Ông Dewey ạ, nhân chứng mà ông nhắc đến. Có phải cái người ông muốn nói đấy không - người làm thuê ấy?” “Không. Ông ta không nghe thấy gì hết. Nhưng vợ ông ấy đang phải trông trẻ ốm. Bà ấy bảo nhà kia cứ lịch kịch cả đêm.” “Trẻ ốm. À, tôi nghĩ ra rồi. Trong khi chúng tôi còn ngồi ở đó, nó lại xảy ra lần nữa - một ánh đèn lóe lên rồi tắt. Và cái đó làm tôi thật khó chịu. Tôi bảo Dick đừng tính cả tôi nữa. Nếu nó quyết cứ làm tới thì nó làm lấy một mình. Nó mở máy xe, chúng tôi đang rời đi thì tôi nghĩ, lạy Chúa, tôi luôn luôn tin ở linh cảm của mình; nó cứu mạng tôi nhiều lần rồi. Nhưng đi ra được nửa đường Dick dừng xe lại. Nó đang đau như hoạn. Tôi có thể thấy nó đang nghĩ gì, Đây, mình đã dựng nên cú vào cầu lớn đến thế này, đây ta đã đi ngần ấy bước này, thế mà thằng ma cô này lại cáy muốn chuồn. Nó nói, “Mày nghĩ tao không có gan làm chuyện đó một mình. Nhưng thề có Chúa, tao sẽ cho mày xem thằng nào gan thằng nào không.” Có một ít rượu mạnh ở trong xe. Chúng tôi mỗi đứa uống một ngụm và tôi bảo nó, “O.K, Dick. Tớ đi với cậu.” Thế là quay lại. Đỗ xe ở chỗ lúc nãy. Dưới bóng một cái cây. Dick đi găng tay vào, tôi thì đã đi xong rồi. Nó mang con dao và cái đèn pin. Tôi cầm khẩu súng. Ngôi nhà nom có vẻ ghê gớm trong ánh trăng. Nom trống không, tôi nhớ mình đã hy vọng đừng có ai ở trong đó cả…” Dewey hỏi, “Nhưng anh có thấy một con chó?” “Không.” “Gia đình ấy có một chó già sợ súng. Chúng tôi không hiểu tại sao nó lại không sủa. Trừ phi nó trông thấy một khẩu súng mà chạy biệt.” “À, tôi không thấy một cái gì hay ai sất. Cho nên tôi mới không tin như thế. Về một người chứng kiến.” “Không phải chứng kiến. Nhân chứng. Một người mà lời khai gộp được anh và Hickock vào với vụ án này.” “Ô, u hu. U hu. Hắn ta. Thế mà Dick cứ bảo rằng nó quá sợ rồi đấy. Ha ha!” Duntz không bị đánh lạc hướng, anh nhắc lại, “Hickock có con dao. Anh thì súng. Các anh vào nhà bằng cách nào?” “Cửa không khóa. Một cái cửa bên. Nó dẫn chúng tôi vào văn phòng ông Clutter. Chúng tôi chờ trong bóng tối. Nghe ngóng. Nhưng chỉ có tiếng gió. Có cơn gió nhẹ thổi bên ngoài. Nó làm cây cối lay động, ta nghe được tiếng lá xào xạc. Cửa sổ duy nhất được che bằng cửa chớp đóng mở bằng dây kéo, nhưng ánh trăng lọt vào. Tôi hạ chớp cửa xuống, và Dick bật đèn pin lên. Chúng tôi thấy cái bàn giấy. Cái két được cho là ở trong tường ngay đằng sau bàn giấy, nhưng chúng tôi tìm không thấy. Tường thì lát ván gỗ, có những bản đồ đóng khung và sách, trên một cái giá tôi để ý thấy một cái ống nhòm rất oách. Tôi quyết định sẽ lấy nó khi chúng tôi rời khỏi đấy.” “Có lấy không?” Dewey hỏi vì không ai báo mất ống nhòm. Smith gật đầu. “Chúng tôi đã bán nó ở Mexico.” “Rồi. Nói tiếp đi.” “À, khi chúng tôi tìm không ra cái két, Dick bèn tắt đèn pin và chúng tôi đi trong tối ra khỏi văn phòng qua một phòng khách nhỏ, một phòng khách to. Dick nói thầm bảo tôi không đi khẽ hơn được à. Nhưng nó đi cũng ầm như thế. Mỗi bước đi là một bước lo. Chúng tôi đến một gian sảnh và một cái cửa rồi, nhớ lại bản sơ đồ, Dick nói đấy là phòng ngủ. Nó bấm đèn và mở cửa. Một người đàn ông nói, ‘Cưng hả?’ Ông ta đang ngái ngủ, và ông ta chớp mắt nói, ‘Em đấy phải không cưng?’ Dick hỏi, ‘Ông là ông Clutter?’ Giờ thì ông ta tỉnh hẳn rồi, bèn ngồi dậy nói. ‘Ai đấy? Anh muốn gì?’ Dick bảo, rất lịch sự, tựa như chúng tôi là hai anh đi rao hàng tận nhà. ‘Chúng tôi muốn nói chuyện với ông. Trong phòng làm việc của ông, xin mời.’ Và ông Clutter, chân không, mặc mỗi bộ pijama liền đi với chúng tôi sang phòng làm việc, chúng tôi bật đèn ở đó lên. Cho đến lúc đó, ông vẫn chưa nhìn được rõ chúng tôi lắm. Tôi nghĩ khi nhìn thấy thì ắt là ông choáng lắm. Dick nói, ‘Bây giờ, thưa ngài, chúng tôi chỉ muốn ngài chỉ cho chúng tôi cái két ngài giữ ở đâu.’ Nhưng ông Clutter nói, ‘Két nào?’ Ông ta nói không có két nào sất. Ông ta có cái kiểu bộ mặt như thế. Tôi biết ngay bất cứ cái gì ông ta nói đều là sự thật mười mươi cả. Nhưng Dick quát ông ta, ‘Đừng nói dối, đồ chó đẻ! Tôi biết tỏng là ông có một cái két.’ Cảm tưởng của tôi là chưa ai nói với ông Clutter như thế bao giờ. Nhưng ông nhìn thẳng vào mặt Dick và bảo nó, rất nhẹ nhàng - nói, chà, ông ta rất tiếc nhưng thật tình là ông không có két nào cả. Dick đập đập con dao vào ngực ông ta nói. ‘Chỉ cho bọn tôi chỗ cái két không thì sẽ bị rầu hơn đấy.’ Nhưng ông Clutter... ồ, ông có thể thấy ông ta sợ như thế nào, nhưng giọng ông vẫn nhỏ nhẹ ôn tồn, ông vẫn cứ chối là không có két. Vào trong đấy được đâu chừng một lát thì tôi thấy cái điện thoại. Cái ở trong văn phòng. Tôi giật đứt dây đi. Và tôi hỏi ông Clutter có còn cái điện thoại nào trong nhà không. Ông ta bảo có một cái ở trong bếp. Thế là tôi cầm đèn pin vào trong bếp - từ văn phòng đến đó cũng xa đấy. Khi tìm thấy điện thoại, tôi nhấc ống nghe ra và cắt dây bằng một cái kìm. Rồi quay lại, tôi nghe thấy một tiếng động. Một tiếng kẹt ở trên đầu. Tôi dừng lại ở chân cầu thang lên tầng hai. Tối om, mà tôi lại không dám dùng đèn pin. Nhưng tôi biết là có người ở đó. Trên cầu thang, bóng hiện lên nền cửa sổ. Một hình người. Rồi nó đi khuất.” Dewey nghĩ đó chắc là Nancy. Trên cơ sở chiếc đồng hồ vàng nhét vào trong mũi giày để trong tủ con của cô, ông vẫn lập luận rằng Nancy đã thức giấc, nghe thấy có người ở trong nhà, nghĩ có thể là kẻ trộm, bèn giấu chiếc đồng hồ, món tài sản quý giá nhất của cô đi. “Tôi đoán có thể đây là một người nào đó có súng. Nhưng Dick chẳng thiết nghe tôi. Nó đang bận đóng vai thằng lưu manh dữ dằn. Đẩy ông ta đi khắp. Bây giờ nó đã điệu ông ta về phòng ngủ. Nó đếm tiền trong ví ông ta. Có khoảng ba chục đô la. Nó vất cái ví lên giường rồi bảo ông Clutter, ‘Ông phải có nhiều tiền hơn thế này ở trong nhà chứ. Giàu như ông cơ mà. Sống trong dinh cơ rộng như thế này cơ mà.’ Ông Clutter nói đó là tất cả tiền mặt ông có, giải thích rằng ông luôn luôn chỉ dùng séc thanh toán các món. Ông bảo sẽ viết một khoản tiền vào séc cho chúng tôi. Dick nổi cáu lên ngay - ‘Ông nghĩ chúng tôi là những thằng ngu hay sao hả?’ - và tôi nghĩ chắc Dick sẵn sàng đập ông ta rồi nên tôi bèn nói, ‘Dick, nghe tớ. Có ai đó thức ở trên gác đấy.’ Ông Clutter bảo chúng tôi người ở trên gác chỉ có vợ ông ta, cậu con trai và cô con gái. Dick muốn biết liệu vợ ông ta có tiền không và ông ta nói nếu có thì cũng ít lắm, vài đô la, rồi ông ta đề nghị chúng tôi - đúng là kiểu như suy sụp - xin đừng làm phiền bà ta vì bà ta là người tàn phế bị ốm nặng lâu nay rồi. Nhưng Dick cứ đòi lên gác. Nó bắt ông Clutter dẫn đi. Đến chân cầu thang ông Clutter bật đèn thắp sáng gian sảnh bên trên và trong khi chúng tôi lên gác ông ta nói, ‘Tôi không hiểu tại sao các anh lại muốn làm như thế. Tôi chưa bao giờ làm hại gì các anh. Tôi chưa bao giờ biết các anh.’ Dick bèn bảo ông, ‘Câm! Khi chúng tao cần mày nói, chúng tao sẽ bảo.’ Không có ai ở trong gian sảnh trên gác, tất cả các cửa đều đóng. Ông Clutter chỉ hai phòng mà ông nghĩ là con trai với con gái ông ngủ rồi mở cửa buồng vợ ra. Ông bật đèn bên cạnh giường lên và bảo bà, ‘Không sao cả, cưng. Đừng sợ. Những người này, họ muốn ít tiền.’ Bà vợ là một phụ nữ yếu ớt, mảnh khảnh mặc bộ váy ngủ dài màu trắng. Ngay khi mở mắt, bà liền khóc. Bà ta bảo chồng. ‘Anh, em chẳng có tiền đâu.’ Ông ta nắm bàn tay vợ, khe khẽ vỗ. ‘Thôi nào, đừng khóc, cưng. Chẳng có gì phải sợ mà. Anh đã đưa những người này tất cả số tiền anh có. Nhưng họ muốn nhiều hơn thế. Họ tin là chúng ta có cái két sắt ở trong nhà. Anh bảo họ là không có.’ Dick giơ tay lên, tựa như sắp đánh ngang miệng ông ta. Nó nói, ‘Tao chẳng bảo là câm à?’ Bà Clutter nói, ‘Nhưng chồng tôi nói với các ông sự thật của Chúa đấy. Không có cái két nào đâu.’ Và Dick trả lời, ‘Tao biết chắc chắn chúng mày có cái két. Tao sẽ tìm ra nó trước khi đi khỏi đây. Đừng có lo là tao sẽ không tìm thấy.’ Rồi nó hỏi bà ta giữ ví tiền ở đâu. Cái ví tiền ở trong ngăn kéo bàn giấy. Dick lật ngược cái ví ra. Chỉ tìm thấy ít tiền lẻ và một hai đô la. Tôi ra hiệu bảo nó đi vào hành lang. Tôi muốn thảo luận về tình hình này. Cho nên chúng tôi ra ngoài và tôi nói...” Duntz ngắt lời hắn để hỏi ông bà Clutter liệu có nghe được chúng không. “Không. Chúng tôi ở ngay bên ngoài cửa cho nên vẫn trông chừng được họ. Nhưng chúng tôi nói thầm. Tôi bảo Dick, ‘Họ nói thật đấy. Người nói dối là thằng Floyd Wells bạn cậu. Không có cái két nào đâu. Thôi, phới mẹ nó khỏi đây cho rồi.’ Nhưng Dick xấu hổ quá không dám đối mặt với sự thật này. Nó bảo không thể tin được họ chừng nào chưa lục khám cả nhà. Nó bảo việc cần làm bây giờ là trói họ lại rồi bỏ thì giờ đi tìm. Không cãi nhau được với nó đâu, nó đang hăng lắm. Cái vinh quang được định đoạt số phận mọi người, chính cái đó đã kích động nó. Ừ, có một cái buồng tắm ở gần cửa buồng bà Clutter. Ý chúng tôi lúc đó là khóa nhốt họ lại ở trong đó rồi đánh thức bọn con dậy cho vào đó, xong thì đưa lần lượt từng người ra trói ở những nơi khác nhau trong nhà. Và khi ấy, Dick nói, khi nào tìm ra cái két rồi thì chúng ta sẽ cắt cổ họ. Không bắn được đâu, nó nói - bắn thì ầm lắm.” Perry nhăn mặt, xoa xoa đầu gối bằng hai bàn tay bị còng. “Cho tôi nghỉ một tí. Vì sự việc đến đây trở nên hơi rắc rối chút. Tôi nhớ. Phải, phải. Tôi lấy một cái ghế tựa ra khỏi gian sảnh đem nhét vào trong buồng tắm. Để cho bà Clutter có thể ngồi được. Vì thấy bà ta là người tàn phế mà. Khi chúng tôi nhốt họ lại, bà Clutter khóc bảo chúng tôi. ‘Xin đừng làm cho ai bị làm sao cả. Xin đừng làm gì bọn trẻ.’ Chồng bà quàng tay vào bà, nói đại khái như là, ‘Em ơi, những anh bạn này không làm ai bị làm sao cả đâu. Họ chỉ cần lấy tiền thôi mà.’ Chúng tôi vào phòng thằng con trai. Nó đã dậy. Nằm đờ như sợ quá không động đậy nổi. Dick bảo nó dậy nhưng nó không dậy, hoặc là dậy không đủ nhanh, thế là Dick đấm nó một cái, lôi nó ra khỏi giường, tôi liền nói, ‘Dick, không cần phải đánh nó.’ Rồi tôi bảo thằng nhỏ - nó mặc có mỗi cái áo ba lỗ - mặc quần vào. Nó mặc một quần jeans màu xanh vào, và chúng tôi vừa nhốt nó vào buồng tắm thì đứa con gái ló ra - đi ra khỏi buồng nó. Nó đã mặc quần áo đâu ra đó, như đã dậy được một lúc rồi. Nó mang tất đi dép, mặc kimono, lại còn đeo băng đô trên tóc. Nó cố mỉm cười. Nói, ‘Trời đất, cái gì thế này? Đùa gì thế?’ Tuy nhiên tôi cho rằng nó chẳng nghĩ đây là đùa đâu. Đâu có nghĩ thế được sau khi Dick đã mở cửa buồng tắm xô nó vào...” Dewey hình dung ra gia đình Clutter lúc đó: cả nhà bị nhốt giữ, dễ bảo và sợ hãi nhưng chưa hề có linh cảm gì về số phận của mình. Herb không thể ngờ, vì nếu ngờ thì ông đã chống lại. Ông hiền nhưng khỏe và không hèn. Người bạn Alvin Dewey của ông tin chắc chắn rằng ông sẽ chiến đấu đến chết để bảo vệ mạng sống của Bonnie và hai đứa con mình. “Dick đứng canh ở ngoài buồng tắm trong khi tôi lục lọi. Tôi lần mò trong phòng của đứa con gái, tìm thấy một ví tiền - giống như cái ví của búp bê. Bên trong có một đồng đô la bạc. Không biết sao nó lại rơi ra và lăn qua sàn. Lăn xuống gầm một cái ghế. Tôi phải bò bằng đầu gối. Và chính lúc đó tôi đã không còn bình tĩnh nữa. Như là nhìn thấy mình trong một bộ phim ngu xuẩn nào. Tôi thấy tởm. Thằng Dick toàn nói chuyện cái két sắt của một nhà giàu sụ trong khi tôi đây hiện đang bò ẹp bụng để lấy cắp một đồng đô la của một đứa nhãi. Một đô la. Mà tôi đang bò sát bụng xuống để lấy cho được.” Perry ôm hai đầu gối, hỏi xin aspirin, cảm ơn Duntz đã cho hắn một viên, nhai viên thuốc và lại bắt đầu nói. “Nhưng tại mình thôi. Lực mình thế nào thì mình được thế ấy. Tôi cũng lần cả buồng thằng con trai. Không một xen. Nhưng có một cái rađiô xách tay ở đó, tôi quyết định lấy nó. Rồi tôi nhớ đến cái ống nhòm đã nhìn thấy trong phòng làm việc của ông Clutter. Tôi xuống gác để lấy. Tôi mang ống nhòm và cái rađiô ra ngoài xe. Trời lạnh, khí lạnh cùng với gió rất dễ chịu. Trăng sáng đến mức có thể nhìn xa tới hàng dặm được. Và tôi nghĩ: Tại sao mình lại không phới đi nhỉ? Đi bộ lên xa lộ, nhờ một chuyến xe. Tôi thề có Giê-su là không còn muốn quay về cái nhà đó nữa. Thế nhưng - giải thích làm sao được nhỉ? Cứ như tôi không dính gì đến cái chuyện này. Như là tôi đang đọc một quyển sách vậy. Tôi phải biết cái gì sắp xảy tới. Cái kết thúc. Cho nên tôi quay lên gác. Và bây giờ, ừm, đấy là lúc chúng tôi trói họ lại. Ông Clutter trước, chúng tôi gọi ông ấy ra ngoài buồng tắm và tôi trói tay ông lại. Rồi tôi áp giải ông đi xuống dưới tầng hầm...” Dewey nói, “Một mình và không vũ khí?” “Tôi có con dao.” Dewey nói, “Nhưng Dick ở lại trên gác để canh à?” “Để giữ cho họ yên. Muốn gì tôi cũng chẳng cần giúp. Tôi cả đời làm việc với dây thừng rồi.” Dewey nói, “Anh có dùng đèn pin không hay là bật đèn ở tầng hầm lên?” “Bật đèn. Tầng hầm chia ra làm hai phần. Một phần hình như là phòng chơi. Tôi mang ông ấy sang phần kia, phòng sưởi. Tôi thấy có cái thùng các tông to dựa vào tường. Thùng đựng đệm giường. Ừm, tôi thấy không cần phải bảo ông ấy nằm trên sàn nhà lạnh làm gì cho nên tôi kéo cái thùng đựng đệm lại, trải ra cho phẳng và bảo ông ấy nằm lên.” Người lái xe, qua kính chiếu hậu, liếc đồng nghiệp, bắt được mắt ông và mắt Duntz liền khẽ gật, tựa như góp chuyện. Từ trước tới nay Dewey vẫn lập luận rằng cái thùng đựng đệm được đặt trên sàn để cho ông Clutter thoải mái dễ chịu, và, để ý tới những cái lặt vặt tương tự, các mẩu vụn vặt của những gì cho thấy có một tình thương nực cười và bất thường, Dewey đã suy đoán rằng ít nhất trong những tên sát nhân đã có một đứa không phải là hoàn toàn táng tận lương tâm. “Tôi trói chân ông ấy rồi buộc vào với tay. Tôi hỏi thít quá không, ông ấy bảo không, nhưng nói xin chúng tôi để bà vợ yên. Không cần phải trói bà ấy - bà ấy chẳng còn kêu la hay cố chạy ra khỏi nhà đâu. Ông ấy nói bà ấy ốm đã hàng năm nay, vừa mới khá lên được tí chút, nhưng một cái vụ như thế này sẽ làm cho bà ấy ốm lại mất. Tôi biết đây chẳng phải chuyện đáng buồn cười gì nhưng tôi không thể nhịn được. Ông ta nói ‘ốm lại’, thế cơ chứ. Sau đó, tôi đưa thằng con trai xuống. Thoạt đầu tôi để nó ở cùng với bố. Trói tay nó vào cái ống dẫn hơi nước nóng trên đầu. Rồi tôi thấy như thế không được chắc lắm. Biết đâu nó gỡ ra được và cởi trói cho ông già, hoặc ngược lại. Cho nên tôi cắt dây hạ nó xuống, đưa nó sang phòng chơi, có một cái đi văng nom chắc chắn. Tôi trói chân nó vào chân đi văng, trói tay nó lại rồi vòng thừng lên làm một cái nút thòng lọng quanh gáy nó, để nếu nó giằng thì nó sẽ bị thắt lại. Một lần, trong khi tôi đang trói, tôi để con dao lên cái - ừm, một cái tủ bằng gỗ sồi mới đánh véc ni xong; cả gian hầm sặc mùi véc ni - thì nó bảo tôi đừng để dao ở đó. Cái tủ là món quà cưới nó tự làm lấy cho một người nào đó. Một người chị, tôi nhớ là nó nói thế. Ngay lúc tôi đi ra, nó bị ho nên tôi nhét luôn một cái gối xuống dưới đầu nó. Rồi tôi tắt đèn...” Dewey nói, “Anh không dán băng miệng ư?” “Không. Dán sau, sau khi tôi đã trói cả hai người đàn bà ở trong buồng ngủ của họ. Bà Clutter vẫn cứ khóc, đồng thời lại hỏi tôi về Dick. Bà ấy không tin nó, nhưng lại nói cảm thấy tôi là một thanh niên tử tế. ‘Tôi tin chắc anh là người tử tế,’ bà ấy nói. Tôi nghĩ điều bà ấy thật sự lo trong đầu là con gái bà ấy. Bản thân tôi cũng lo chuyện đó. Tôi ngờ Dick đang mưu một cái gì, một cái gì mà tôi không ủng hộ được. Khi tôi trói bà Clutter xong, khá là chắc chắn, tôi thấy nó đã đưa đứa con gái về buồng ngủ con bé. Con bé nằm trên giường, còn nó thì ngồi ở bên giường nói chuyện. Tôi ngăn ngay; tôi bảo nó đi tìm cái két trong khi tôi trói đứa con gái. Khi nó đi rồi, tôi trói hai chân con bé lại và quặt hai tay ra đằng sau. Rồi tôi kéo chăn lên, đắp chăn kín cả người con bé chỉ chừa cái đầu ra thôi. Có một cái ghế nhỏ gần giường, tôi nghĩ hay mình nghỉ một chút đã; hai cẳng chân tôi như có lửa đốt, nãy giờ toàn leo gác rồi quỳ gối nhiều mà. Tôi hỏi Nancy có bạn trai chưa. Nó nói rồi. Nó cố tỏ thái độ tự nhiên và thân mật. Tôi quả thực mến nó. Nó thật sự là hay. Một con bé rất xinh, lại không hư đốn hay gì gì. Nó nói nhiều về bản thân, về nhà trường, về chuyện nó sắp sửa vào đại học để học âm nhạc và nghệ thuật. Nói đến ngựa. Nói là sau khiêu vũ thì cái nó thích nhất là phi ngựa, thế là tôi kể mẹ tôi từng là một nhà vô địch trị ngựa bất kham. Và chúng tôi nói về Dick; tôi tò mò muốn xem thằng cha này đã nói gì với nó. Hình như con bé hỏi tại sao thằng này lại làm như vậy. Ăn cướp của người ta. Và, hừ, giỏi, thằng ấy còn quẳng ra cho con bé một câu chuyện lâm ly ướt át - rằng nó bị nuôi trong viện mồ côi, rằng chẳng có ai yêu thương nó, họ hàng duy nhất là bà chị sống với nhiều người mà chẳng cưới chẳng lấy ai. Trong suốt thời gian nói chuyện, chúng tôi nghe thấy tiếng dò dẫm mê mụ tìm cái két - khắp quanh quẩn bên dưới. Xem sau các bức tranh. Gõ tường. Cạch cạch cạch. Chẳng khác gì một con chim gõ kiến ngu ngốc nào. Khi Dick quay lại, tôi hỏi nó như một thằng rồ thật - là nó có tìm thấy không. Dĩ nhiên không, nhưng nó nói đã đi ngang qua một cái ví nữa ở trong bếp. Với bảy đô la.” Duntz nói, “Đến lúc đấy các anh đã ở trong ngôi nhà bao lâu rồi?” “Có lẽ một giờ.” Duntz nói, “Và khi nào thì anh dán băng miệng?” “Ngay khi đó. Bắt đầu từ bà Clutter. Tôi nhờ Dick giúp - vì tôi không muốn để nó ở lại một mình với cô gái. Tôi cắt băng dính ra thành nhiều mảnh dài, và Dick quấn chung quanh đầu bà Clutter như là quấn cái xác ướp ấy. Nó hỏi bà ấy, ‘Sao bà cứ khóc hoài vậy? Có ai làm gì bà đâu.’ Rồi nó tắt đèn giường và nói, ‘Chúc ngủ ngon, bà Clutter. Ngủ đi.’ Rồi nó bảo tôi, trong khi chúng tôi đi theo gian sảnh đến buồng Nancy. ‘Tớ sắp xơi con bé này.’ Tôi liền nói, ‘Ờ. Thế thì cậu phải giết tớ trước.’ Nó nhìn vẻ như không tin là đã nghe thấy đúng như thế. Nó nói, ‘Cậu ngại cái gì? Mẹ kiếp, cậu cũng có thể xơi nó kia mà.’ Đó là một thứ tôi khinh bỉ. Bất cứ ai không kiềm chế được ham muốn xác thịt của mình. Lạy Chúa, tôi ghét mấy cái trò đó. Tôi bảo nó thẳng thừng, ‘Để cho nó yên. Không thì cậu phải đánh nhau với một cái cưa điện đấy.’ Nó cáu thật, nhưng nó hiểu ra là không phải lúc thả dàn làm cái việc kia được. Cho nên nó nói, ‘OK, bồ. Nếu cậu thấy nên như thế.’ Kết quả là chúng tôi đã không dán băng miệng cô gái. Chúng tôi tắt đèn gian sảnh và đi xuống tầng hầm.” Perry ngập ngừng. Hắn có một câu muốn hỏi nhưng lại nói ra thành một lời xác nhận: “Tôi đánh cuộc là nó không bao giờ nói một tí gì về việc muốn hiếp cô gái.” Dewey thừa nhận, nhưng ông nói thêm rằng ngoài một lời khai rõ là đã bị cắt bỏ đi phần nào có liên quan đến hạnh kiểm của bản thân hắn, còn thì câu chuyện Hickock kể cũng hỗ trợ câu chuyện của Smith. Chi tiết có khác, lời thoại không giống nhau, nhưng thực chất thì - ít nhất cho đến giờ - hai lời thuật ăn khớp với nhau. “Có thể. Nhưng tôi biết nó không nói tới cô gái. Tôi cược cái sơ mi đây.” Duntz nói, “Perry, tôi đang để ý tới vấn đề ánh đèn. Theo cách tôi tính thì khi các anh tắt đèn trên gác đi, dưới nhà hoàn toàn tối chứ.” “Tối. Và chúng tôi không bật lại đèn nữa. Trừ đèn pin. Dick cầm theo cái đèn pin khi chúng tôi đi dán băng miệng miệng ông Clutter và thằng con trai. Ngay trước chúng tôi khi dán ông ấy, ông ấy hỏi tôi - và đấy là những lời ông ấy nói cuối cùng - muốn biết vợ ông ra sao, bà ấy có ổn không, tôi nói bà ấy ổn, bà ấy sắp ngủ, tôi bảo ông ấy sắp sáng rồi, sẽ có người tìm thấy họ thế là rồi tất cả vụ này, tôi và Dick và tất cả, đều sẽ cứ như là họ nằm mơ thấy mà thôi. Tôi không trêu ông ấy. Tôi không muốn hại ông ấy. Tôi nghĩ ông ấy là người rất hiền lành tử tế. Nói năng nhẹ nhàng. Tôi nghĩ như thế cho tới lúc tôi cắt cổ ông ấy.” “Khoan. Tôi đang nói sai thứ tự.” Perry cau mày. Hắn xoa xoa chân, còng kêu lách cách. “Sau đó, xem nào, sau khi dán băng miệng họ rồi, tôi và Dick đi lại một góc nhà. Nói về chuyện ấy. Bây giờ nhớ lại thì giữa hai chúng tôi có những cảm giác khó chịu. Ngay lúc đó cái làm tôi muốn lộn mửa lên là chuyện tôi đã từng hâm mộ nó, tin hết lời cái thằng khoác lác ấy. Tôi nói, ‘Này Dick. Có day dứt không?’ Nó không trả lời tôi. Tôi nói, ‘Để họ sống đi, thế thì sẽ chẳng ai kết tội nặng cho chúng mình. Quá lắm là mười năm.’ Nó vẫn không nói năng gì. Nó đang cầm con dao. Tôi đòi, nó cho tôi, và tôi nói, ‘Được lắm, Dick. Nào đi.’ Nhưng tôi không có ý ấy. Tôi muốn chọc nó, làm cho nó cãi với tôi, làm cho nó phải nhận nó là một thằng nói khoác và một thằng hèn. Đó, có chuyện giữa tôi và Dick như vậy đó. Tôi quỳ xuống cạnh ông Clutter, và cái đau khi quỳ khiến tôi nghĩ đến đồng đô la khốn khiếp kia. Đồng đô la bạc. Nhục. Tởm. Mà họ lại bảo tôi đừng có bao giờ quay lại Kansas. Nhưng tôi không nhận ra việc mình làm cho tới khi nghe thấy tiếng kêu. Như ai đó chết đuối. Đang kêu thét dưới nước vậy. Tôi đưa dao cho Dick. Tôi nói, ‘Kết liễu lão đi. Cậu sẽ cảm thấy khá hơn.’ Dick cố - hay làm bộ thế. Nhưng ông ấy khỏe bằng mười người - đã giật ra được một nửa rồi, tay đã tuột trói. Dick hoảng. Dick muốn ù té chạy ra ngoài. Nhưng tôi không cho nó đi. Ông ấy đằng nào cũng chết, tôi biết thế, nhưng tôi không thể để ông ấy như thế này. Tôi bảo Dick cầm đèn pin, chiếu cho tôi. Rồi tôi nhắm. Gian phòng nổ vang lên. Xanh lè cả. Lòe lửa thế này. Giê-su ơi, tôi không bao giờ hiểu được tại sao trong vòng hai mươi dặm mà họ không nghe được cơ chứ.” Tai Dewey đúng lúc này kêu lên o o - tiếng o o gần như che lấp đi tiếng nói nhè nhẹ thì thào của Smith. Nhưng tiếng nói cứ đâm sâu mãi, làm bật tóe ra một loạt nổ vang như loạt súng những âm thanh và hình ảnh: Hickock lùng nhặt vỏ đạn; hối hả, hối hả và đầu của Kenyon ở trong một vòng tròn sáng, tiếng van xin thì thầm, nghèn nghẹn, rồi khi một viên đạn nữa được dùng, Hickock lại lập cập bò theo tìm vỏ đạn; phòng của Nancy, Nancy nghe tiếng ủng trên những bậc thang bằng gỗ cứng, tiếng bậc thang cót két khi chúng leo lên chỗ cô, đôi mắt của Nancy, Nancy nhìn cái ánh đèn pin chiếu tìm mục tiêu (“Cô nói, ‘Ôi, không! Ôi, xin đừng! Không! Không! Không! Không! Đừng! Ôi, xin đừng! Làm ơn!’ Tôi đưa súng cho Dick. Tôi bảo nó tôi đã làm hết sức rồi. Nó nhắm, cô bé quay mặt vào tường”); gian sảnh tối, bọn giết người vội vàng đi đến cái cửa cuối cùng. Có lẽ Bonnie đã nghe thấy tất cả rồi, bà đang mong chúng đến mau mau. “Vỏ đạn cuối cùng khó tìm thấy như ma. Dick rúc vào gầm giường để lấy nó. Rồi chúng tôi đóng cửa buồng bà Clutter lại và đi xuống phòng làm việc. Chúng tôi chờ ở đó, như khi chúng tôi mới đến. Nhìn qua cửa chớp xem người làm thuê có thăm dò gì quanh đấy không, hoặc liệu có ai nghe thấy tiếng súng không. Nhưng vẫn như cũ - không một tiếng động. Chỉ có gió - và Dick thì hổn ha hổn hển như có cả một đàn sói đuổi sau nó. Ngay ở đó, trong vài tích tắc trước khi chúng tôi chạy ra xe phóng đi, chính lúc đó tôi đã quyết định tốt hơn cả là bắn Dick. Nó cứ nói đi nói lại mãi, nói như đánh trống vào tai tôi: Không để lại nhân chứng. Và tôi nghĩ, Nó chính là nhân chứng đây. Tôi không hiểu cái gì đã ngăn tôi. Chúa biết lẽ ra tôi đã làm thế. Bắn chết nó. Lên xe và cứ thế đi cho tới khi mất tăm ở Mexico.” Im lặng. Suốt hơn mười dặm đường, ba người đi không nói một lời. Buồn và mệt mỏi ghê gớm là cốt lõi sự lặng thinh của Dewey. Biết “chính xác cái gì xảy ra đêm hôm đó trong ngôi nhà ấy” là tham vọng của ông. Bây giờ ông đã nghe kể những hai lần, hai lần kể đều giống nhau, điều không thống nhất quan trọng duy nhất là Hickock gán tất cả bốn lần giết cho mình Perry, trong khi Smith khẳng định Hickock đã giết hai người đàn bà. Nhưng những lời thú tội, tuy đã trả lời được câu hỏi về chuyện tại sao và như thế nào rồi, vẫn không thỏa mãn được cảm quan của ông về một ý đồ có ý nghĩa. Vụ án là một sự cố tâm lý, gần như một hành vi bâng quơ vô cảm; cũng bằng như các nạn nhân đã bị sét đánh chết. Trừ một điều: họ đã phải trải qua nỗi kinh hoàng kéo dài, họ đã đau khổ. Và Dewey không thể nào tha thứ được cho những đau khổ như thế của họ. Tuy vậy ông lại có thể nhìn vào cái con người ngồi cạnh mình đây mà không giận dữ - đúng hơn với một chút thiện cảm nào đấy - vì cuộc đời của Perry Smith cũng chẳng phải là cái giường trải đầy hoa hồng mà là sự đáng thương, một sự tiến lên cô độc và xấu xí, hết ảo ảnh này sang ảo ảnh khác. Nhưng cảm tình của Dewey không đủ sâu sắc để chấp nhận tha thứ hay tình thương. Ông hy vọng thấy Perry và Dick bị treo cổ - hai đứa treo lưng áp vào lưng. Duntz hỏi Smith, “Cộng hết lại, các anh lấy được bao nhiêu tiền ở nhà Clutter?” “Khoảng bốn năm chục đô la.” Trong các con vật ở Garden City có hai con mèo đực màu xám luôn bên nhau - những con mèo hoang bẩn thỉu, gầy gò với những thói quen kỳ quặc và thông minh. Lễ hội chính trong ngày của chúng được tiến hành vào lúc tranh tối tranh sáng. Trước tiên chúng chạy suốt dọc Phố Chính, dừng lại xem xét những tấm lưới mắt cáo che động cơ của các xe hơi đang đỗ, đặc biệt là những xe dừng ở trước hai khách sạn Windsor và Warren, vì các xe này thường là của những khách du lịch phương xa, thường mang lại món mà các con vật xương xẩu và theo nề nếp này vẫn săn lùng: chim chóc bị giết hại - lũ quạ, chích chòe và chim sẻ đủ điên rồ để bay vào luồng xe đang đi tới. Dùng móng của mình như dụng cụ giải phẫu, lũ mèo moi ra từ các tấm lưới mắt cáo từng mảnh vụn có lông đó. Đi hết Phố Chính, thể nào chúng cũng rẽ ở góc giữa Phố Chính và Phố Grant, đoạn nhẩn nha xuống tới Quảng trường Tòa án, một vùng đất săn mồi khác nữa của chúng - và là một vùng đất săn mồi nhiều hứa hẹn vào cái buổi chiều thứ Tư ngày mồng 6 tháng Giêng này, vì ở đây chen chúc bên nhau những chiếc xe của hạt Finney đưa đến thị trấn một phần cái đám đông đang đầy chật tại quảng trường. Đám đông bắt đầu hình thành vào lúc bốn giờ, lúc mà ông chưởng lý hạt cho hay là có thể giải Smith và Hickock đến. Từ lúc công bố lời thú tội của Hickock vào tối Chủ nhật, nhà báo đủ loại đã tụ tập ở Garden City: đại diện của các hãng tin lớn, nhiếp ảnh viên, nhà quay phim thời sự và truyền hình, phóng viên ở Missouri, Nebraska, Oklahoma, Texas và dĩ nhiên tất cả các tờ báo chính của bang Kansas - xấp xỉ hai mươi hăm lăm người. Nhiều người đã phải chờ ba ngày ở đây chẳng có gì để mà làm, trừ phỏng vấn người trợ lý của trạm xăng, James Spor, anh này, sau khi xem ảnh hai sát nhân bị buộc tội đăng trên báo, đã nhận ra chúng là những người anh đã bán cho ba đô la sáu xu xăng vào cái đêm xảy ra tấn thảm kịch ở Holcomb. Những khán giả chuyên nghiệp này đang xăn tay sửa soạn tường thuật chính cái việc Hickock và Smith trở lại đây, và Đại úy Gerald Murray của Đội Tuần tra Xa lộ, đã dành cho họ khoảng không gian rộng rãi ở trên hè đường đối diện các bậc tam cấp của tòa án - những bậc mà hai gã tù phải leo lên trên con đường tới nhà tù hạt, một cơ quan chiếm hết tầng trên cùng của tòa kiến trúc năm tầng bằng đá vôi. Một phóng viên, Richard Parr của tờ Ngôi sao thuộc Kansas City, đã có một tờ Mặt trời của Las Vegas ra ngày thứ Hai. Đầu đề bài báo làm dậy lên những tràng cười phá: E ĐÁM ĐÔNG MUỐN HÀNH HÌNH KIỂU LYNCH ĐANG CHỜ NGHI PHẠM SÁT NHÂN QUAY VỀ. Đại úy Murray nhận xét, “Xem ra không có vẻ là một cuộc hành hình kiểu lynch cho lắm đâu.” Đúng vậy, đám đông trên quảng trường cũng có thể là đang chờ đón một cuộc duyệt binh hay dự một cuộc mít tinh chính trị. Học sinh cấp III, trong đó có những bạn cùng lớp của Nancy và Kenyon Clutter, đều giọng hát những bài ca cổ vũ, thổi bong bóng kẹo cao su, nốc xúc xích luộc và xô đa chai. Các bà mẹ dỗ trẻ còn ẵm ngửa. Các ông hiên ngang đi tới đi lui với trẻ con vắt vẻo trên vai. Hướng đạo sinh có mặt - cả một đội. Và các thành viên trung niên của câu lạc bộ chơi bài bridge phụ nữ kéo đến hàng đoàn. Ông J. P. (Jap) Adams, phụ trách Văn phòng Ủy ban Cựu chiến binh Địa phương xuất hiện, đóng một bộ bằng hàng tuýt may rất kỳ cục đến nỗi mỗi người bạn phải gọi to lên, “Ê, Jap! Sao lại mặc quần áo các bà thế?” - là vì, trong lúc vội ra hiện trường, ông Adams đã vô tình mặc phải áo của cô thư ký. Một phóng viên đài phát thanh lưu động phỏng vấn vặt những người thị trấn khác, hỏi theo ý họ thì án xử thích hợp đối với “những kẻ gây ra cái vụ đê hèn đó” nên là thế nào, và trong khi phần lớn những người được hỏi nói ồ nói à thì một học sinh đáp, “Tôi nghĩ chúng nên bị nhốt hết đời trong cùng một xà lim với nhau. Không cho ai thăm nuôi gì hết. Cứ ngồi đấy nhìn nhau cho tới ngày chúng chết.” Và một người nhỏ nhắn, cứng rắn, dáng đi khệnh khạng thì nói, “Tôi tin ở án tử hình. Cái đó giống như trong Kinh Thánh đã nói đấy - mắt trả mắt. Và dù có vậy thì chúng ta vẫn còn thiếu một cặp không cách nào trả được!” Chừng nào còn mặt trời, ngày còn khô và nóng, thời tiết tháng Mười giữa lúc đương tháng Giêng. Nhưng khi mặt trời lặn, khi những bóng cây khổng lồ của quảng trường đã gặp và hòa lẫn vào nhau thì cái lạnh cũng như bóng tối làm cho đám đông tê cứng lại. Tê cứng và tỉa bớt họ đi; vào khoảng sáu giờ còn lại chưa tới ba trăm người. Các nhà báo giậm giậm chân, vỗ vỗ những cái tai lạnh cứng bằng những bàn tay không đi găng buốt dại. Thình lình, ở phía Nam quảng trường một tiếng rì rầm nổi lên. Xe đã tới. Tuy không có nhà báo nào dự đoán xảy ra bạo lực, nhiều người cũng đã báo trước sẽ có những lời hò hét chửi rủa. Nhưng khi đám đông nhìn thấy mặt những kẻ giết người, với cảnh sát tuần tra xa lộ mặc áo lam đi kèm bên, thì chợt lặng ngắt hết, tựa như kinh ngạc thấy chúng lại mang hình dáng con người. Những người bị còng tay, mặt trắng nhợt, mắt nhấp nháy mù mờ, loang loáng lên trong ánh flash máy ảnh và ánh đèn pha. Các nhà quay phim đuổi theo hai người tù và cảnh sát vào trong tòa án rồi lên ba tầng bậc thang, chụp ảnh cánh cửa nhà tù hạt đóng lại đánh sầm. Không ai nấn ná lại, cả nhà báo lẫn người thị trấn. Những gian phòng ấm cúng, những bữa tối nóng sốt vẫy gọi họ, và trong khi họ hấp tấp ra đi, nhường quảng trường giá lạnh lại cho hai con mèo xám thì cái mùa thu kỳ lạ cũng ra đi nốt; đợt tuyết đầu mùa trong năm bắt đầu rơi. Chú thích
[10] Có nghĩa là vui.
[10] Có nghĩa là vui.