gười thiếu nữ thùy mị đón Winter Hall vào nhà chỉ vài phút sau khi ông bác đi khỏi. Rita vô cùng dịu dàng khi rót trà và trò chuyện với anh về đủ loại đề tài, từ cuốn tiểu thuyết mới nhất của Gorki đến tin gần đây nhất về cuộc Cách mạng Nga, rồi đến khu Hull House, và cuộc đình công của giới thợ máy. Winter Hall kịch liệt phản đối những kế hoạch cải thiện, kiến thiết của cô. - Em hãy trông gương khu Hull House - Anh nói - Đó là một điểm sáng trong cái rừng nhà ổ chuột tối tăn Chicago. Cho tới nay nó cũng chỉ là một điểm sáng không hơn không kém. Nhưng khu rừng nhà ổ chuột đã lan rộng khủng khiếp. So với thời gian khu Hull House được thành lập, tổng số những vụ tệ nạn xã hội và tội phạm hiện nay ở Chicago đã tăng gấp bao nhiêu lần. Khu kiểu mẫu Hull House cũng đã thất bại như tất cả các biện pháp cải thiện khác. Em không thể cứu vãn một con thuyền thủng đáy với một chậu nước muc ra chẳng được bao nhiêu so với lượng tràn vào. - Em biết, em biết - Rita buồn bã khẽ nói. - Nói về vấn đề nhà ổ chuột - Hall tiếp tục - sau cuộc nội chiến, ở New York có sáu chục ngàn nhà ổ chuột. Từ khi đó, người ta đã liên tục thi hành những chiến dịch dẹp quang khu ổ chuột. Rất nhiều người đã cống hiến đời họ cho công việc đó. Hàng ngàn, hàng chục ngàn công dân có tinh thần phục vụ nhân sinh đã không ngừng đóng góp cả công lẫn của. Từng dãy, từng dãy nhà ổ chuột bị kéo sập xuống và thay vào đó là những công viên và những khu vui chơi. Cuộc đấu tranh thật là kinh khủng và gay go. Và kết quả là gì? Hiện nay, năm 1911, trong thành phố New York có đến hơn ba trăm ngàn nhà ổ chuột. Anh nhún vai và nhấp một ngụm trà. - Anh làm em càng lúc càng nhận thấy rõ hơn hai vấn đề - Rita thú nhận - Thứ nhất sự tự do không bị giới hạn bởi luật pháp do con người làm ra chỉ có thể đạt được bằng cuộc cách mạng dẫn đến giai đoạn xã hội chủ nghĩa (XHCN). Giai đoạn XHCN chắc chắn phải đến. Em biết như vậy, vì em đã nhận thức rõ vấn đề thứ hai - sự thất bại của những biện pháp nhằm cải tạo xã hội. Cô bất ngờ dừng lại, tặng cho anh một nụ cười xinh tươi rạng rỡ và nói - nhưng chúng mình đang tranh luận về những vấn đề khô khan giữa thời tiết nóng nực này làm gì cơ chứ! Sao anh không đi xa để đổi gió? - Sao em không đi? - Anh hỏi ngược lai. - Bận quá. - Anh cũng thế - Anh ngừng lại, và gương mặt anh dường như chợt trở nên nghiêm nghị, như thể bộc lộ một tư tưởng trọng đại - Thực ra suốt đời anh chưa bao giờ bận rộn như lúc này, và chưa bao giờ anh thấy mình gần đạt đến một điều gì đó lớn lao như vậy. - Nhưng anh sẽ đến gặp em cuối tuần này chứ? - Cô buộc miệng ra lệnh - Bác vừa mới rời khỏi đây có vài phút. Bác muốn đề nghị có một buổi họp mặt gia đình trong tuần, chỉ có bác, em và anh thôi. Anh miễn cưỡng lắc đầu. - Anh rất hân hạn, và anh sẽ đến, nhưng anh không thể lưu lại một tuần được. Công việc anh đang làm hiện nay là tối quan trọng. Chỉ nội ngày hôm nay thôi, anh đã biết được những gì anh đã tìm kiếm hàng mấy tháng trời. Và trong khi anh nói, cô quan sát gương mặt anh với một vẻ đặc biệt của những người phụ nữ đang yêu quan sát gương mặt đối tượng của mình. Cô biết rõ từng chi tiết nhỏ trên gương mặt Winter Hall, từ vòm trán giữa đôi mày giao đến hai khóe môi thanh như vẽ, từ cái cằm đầy cương nghị đến tận nếp xếp cuối cùng trên vành tai. Nhưng là đàn ông, dù đang rất yêu cô, Hall cũng không biết gương mặt Rita tường tận như thế. Anh yêu cô, nhưng tình yêu không mở mắt cho anh soi thấy những chi tiết tỉ mỉ. Nếu có ai đó đột nhiên yêu cầu anh mô tả cô bằng những ấn tượng lý trí anh đã ghi nhận được, anh cũng chỉ có thể miêu tả những từ rất chung chung, chẳng hạn như cô rất hoạt bát, mềm mỏng, cô có gương mặt thanh tao, vầng trán thấp, mái tóc luôn luôn hợp với khuôn mặt, đôi mắt biết cười và bừng sáng lên khi đôi má ửng hồng, miệng cô tình cảm và rất đáng yêu, và giọng nói cô ngân vang thật tuyệt vời khó tả. Cô cũng tạo cho anh những ấn tượng về một mẫu người khỏe mạnh, ưa sự sạch sẽ, tính điềm đạm cao quý, nhanh trí và có trình đọ trí thức độc đáo. Còn trước mắt Rita là một người đàn ông cân đối, ba mươi hai tuổi. Anh có vầng trán của nhà tư tưởng, còn tất cả nét mặt là của một nhà hành động. Anh cũng mắt xanh, da màu vàng ánh có sắc đồng đỏ của những người Mỹ thường phơi mình dưới nắng. Anh hay mỉm cười, còn khi cười to thì cười rất thỏa mái. Nhưng những khi đăm chiêu, mặt anh thường lộ một vẻ nghiêm nghị đến mức hầu như dữ tợn. Rita, người ngưỡng mộ sức mạnh nhưng kinh sợ sự hung tợn, đôi khi cảm thấy lo ngại trước những biểu hiện trong mặt trái tính cách của anh. Winter Hall là một sản phẩm khá bất thường của thời đại. Không màng đến những nhung lụa đã bao bọc anh suốt thời thơ ấu và một gia sản đáng kể thừa kế từ cha và hai bà cô độc thân, anh đã sớm cống hiến đời mình cho công cuộc phục vụ nhân loại. Tại đại học, anh chuyên khoa về Kinh tế và Xã hội học, và thường bị bọn sinh viên xem là kẻ hơi lập dị. Sau khi tốt nghiệp đại học, anh đóng góp tiền bạc và cả công sức ủng hộ Riis trong chiến dịch cải tạo New York. Quá nhiều công của đổ vào việc cải thiện xã hội đã làm anh đâm ra bất mãn. Anh luôn tìm kiếm cái sự vật nằm đằng sau những sự vật, cái chính nghĩa thực sự là chính nghĩa. Do đó, anh lao vào nghiên cứu chính trị và sau đó theo dõi một đường dây ăn hối lộ từ New York đến Albany và ngược trở lại, anh cũng xem xét đường dây này hoạt động ngay chính tại thủ đô nước anh. Sau nhiều năm hoạt động hầu như vô hiệu quả, anh bỏ mấy tháng về học lại đại học, giờ thực sự đã trở thành một điểm nóng của chủ nghĩa cấp tiến, và quyết tâm bắt đầu việc nghiên cứu lại từ đầu. Anh bỏ một năm lang thang khắp đất nước như một người lao động thời vụ, rồi thêm một năm nữa lê la như một kẻ du thử du thực, làm bạn với các hạng ăn xin, đầu trộm đuôi cướp. Trong hai năm ở Chicago, anh là một công nhân từ thiện chuyên nghiệp, làm quần quật suốt ngày để lãnh đồng lương năm mươi đô-la một tháng. Và bắt nguồn từ đó, anh trưởng thành và trở thành một nhà xã hội - “nhà xã hội triệu phú” như cái tên mà báo chí đã gán cho anh. Anh đi rất nhiều nơi, đến đâu cũng hỏi thăm điều tra, và luôn tiên phong nghiên cứu vấn đề. Không có một cuộc đình công quan trọng nào lại không thấy anh xuất hiện đầu tiên tại hiện trường. Anh tham dự tất cả các cuộc Hội nghị Công đoàn quốc tế và quốc nội, và sống ở Nga một năm trong thời gian tiền khởi nghĩa trước Cách mạng 1905. Anh viết nhiều bài đăng trên các tạp chí, là tác giả của vài cuốn sách. Anh viết rất hay, sau sắc, thâm thuý và đối với một nhà xã hội, còn khá bảo thủ. Và đó là người đàn ông mà Rita Barosi đang ngồi hàn huyên, uống trà trên chiếc xa-lông cạnh cửa sổ trong căn hộ ở khu Đông của cô. - Nhưng anh chẳng việc gì phải giam cầm mình mãi trong cái thành phố khốn khổ, ngột ngạt này - Cô nói - xét địa vị anh, em không thể tưởng tượng nổi điều gì đã thúc đẩy anh... Nhưng cô bỏ lửng câu hỏi, vì ngay khi ấy cô phát giác ra rằng Hall đã không còn để tai lắng nghe cô nữa. Mắt anh đang chăm chú nhìn tờ báo buổi chiều nằm trên ghế. Hoàn toàn quên mất sự hiện diện của cô, anh nhặt tờ báo lên và bắt đầu đọc. Mặt Rita nũng nịu dịu xuống, nhưng anh không để tâm gì đến cô. - Anh quả là lịch sự, em... em nói thật đấy - Cô không nhịn được nữa và cuối cùng mới làm anh chú ý - Ai lại đi đọc báo khi em đang nói chuyện với anh kia chứ! Anh giở tờ báo cho cô xem dòng tít lớn về vụ ám sát McDuffy. Cô nhìn anh ngơ ngác không hiểu. - Anh xin lỗi em, Rita à, nhưng khi anh trông thấy bài báo này, anh quên đi tất cả - Anh gõ gõ ngón tay trỏ lên tít bài báo - Đó là lý do tại sao anh bận rộn như vậy. Đó là lý do tại sao anh lưu lại New York. Đó là lý do tại sao anh chỉ có thể ở chơi với em vào cuối tuần, và em hiểu anh tha thiết muốn được ở bên em suốt tuần như thế nào. - Nhưng em không hiểu - Cô lắp bắp - Bởi vì nhóm vô chính phủ đã làm nổ tung một tên Trưởng nha cảnh sát ở một thành phố khác... Em.... Em không hiểu được. - Anh sẽ nói cho em biết. Anh đã bẵng nghi ngờ trong suốt hai năm, rồi mối nghi ngờ đó trở thành chắc chắn và mấy tháng nay anh đã không ngừng bỏ công sức thu thập sự kiện để khẳng định niềm tin của anh rằng có một tổ chức ám sát nguy hiểm đang phát triển ở Mỹ, hay ở một nơi bất kỳ nào khác. Thực ra, anh hâu như chắc chắn rằng đó là một tổ chức quốc tế. Em có nhớ vụ John Mossman tự tử bằng cách nhảy từ tầng bảy của tòa cao ốc Fidelity xuống đất không? Ông ta là bạn anh, và trước đây là bạn với cha anh. Chẳng có lý do gì thúc đẩy ông ta phải tự tử cả. Công ty liên hợp Fidelity đang rất thịnh vượng. Và những hoạt động kinh doanh khác của ông ta cũng thế. Gia đình ông ta vô cùng hạnh phúc. Sức khỏe ông ta đang khang kiện. Đầu óc ông ta đâu có bệnh hoạn gì. Vậy mà bọn cảnh sát ngu ngốc gọi đó là một vụ tự tử. Người ta bàn tán rừng đó là vụ tự tử gây ra do bệnh đau dây thần kinh với ba đặc trưng - không chữa được, không giả thoát được và không chịu đựng được. Khi con người mắc bệnh đó, họ sẽ tự tử. Nhưng ông ta không mắc bệnh đó. Anh với ông ta còn ăn trưa chung với nhau cái ngày ông ta chết. Anh biết ông ta không mắc bệnh đó, và anh quyết định kiểm nghiệm lại sự kiện bằng cách nói chuyện với bác sĩ riêng của ông ta. Đó chỉ là giả thuyết, và giả thuyết đó là điều vớ vẩn. Ông ta không bao giờ tự tử, không bao giờ nhảy từ tầng bày của cao ốc Fidelily xuống đất cả. Vậy thì ai giết ông ta? Và tại sao? Một người nào đó đã ném ông ta từ tầng bảy xuống đất? Ai? Tại sao? Vụ giết người đó có lẽ đã được anh xua ra khỏi đầu óc như một điều bí ẩn không giả thích nổi, nếu như nghị sĩ tỉnh Northampton đã không bị giết bằng súng hãm thanh chỉ ba ngày sau đó. Em có nhớ không? Ngay trên đường phố, từ một cửa sổ bất kỳ nào trong số hàng ngàn cửa sổ. Cảnh sát chẳng tìm ra một chứng cớ nào. Anh bất giác nghĩ ngợi về hai vụ giết người này, và từ đó trở đi, anh đặc biệt qua tâm đến bất kỳ một hiện tượng khác thường nào xảy ra, trong danh sách những vụ giết người hàng ngày trên cả nước. Ồ, anh không liệt kê cả danh sách ra đâu, chỉ một vài trường hợp mà thôi. Trường hợp của Borff, tên chuyên môn ăn hối lộ trong công đoàn ở Sannington. Hắn đã chế ngự thành phố đó hàng bao nhiêu năm. Hết vụ tố cáo này đến vụ tố cáo khác cũng chẳng làm gì được hắn. Khi người ta kiểm tra tài sản của hắn, người ta mới biết được rằng hắn có đến sáu triệu đô-la. Vụ kiểm tra xảy ra ngay sau khi hắn mưu toan nhúng tay vào bộ máy chính trị của tiểu bang. Chính khi hắn đạt tới tột đỉnh của quyền lực và tội ác thì hắn bị đánh gục. Và còn những trường hợp khác nữa: Little - Trưởng nha cảnh sát, Welchorst - nhà đại doanh nghiệp, Blankhurst - Vua bông vải,... vân vân và vân vân. Không ai tìm ra được thủ phạm. Lại còn những vụ giết người trong giới thượng lưu: Charley Atwater bị giết trong lần đi săn cuối cùng, phu nhân Hastings Reynolds, ngài Van Austoon... quả là một danh sách rất dài. Tất cả những vụ ám sát đó làm anh tin tưởng rằng một tổ chức với quy mô nào đó đang hoạt động. Anh đoán chắc rằng đây không chỉ đơn thuần là một dịch vụ của nhóm Bàn Tay Đen. Những vụ giết người trên không giới hạn về mặt quốc tịch hay giai cấp xã hội. Đầu tiên anh nghĩ chắc bọn vô chính phủ là thủ phạm. Xin lỗi em, Rita ạ... - Tay anh vội nắm lấy tay cô - Anh đã nghe nói nhiều về em, và người ta bảo em có quan hệ mật thiết với những nhóm bạo động. Anh biết em tiêu rất nhiều tiền, và anh đâm nghi ngờ. Dù sao đi nữa, em có thể khiến anh đến gần nhóm vô chính phủ hoen. Anh nghi ngờ em, nhưng anh vẫn yêu em. Đối với anh, em là một kẻ vô chính phủ dịu dàng nhất, một kẻ vô chính phủ mềm mỏng. Và em cũng đã bắt đầu công cuộc cải tạo dân sinh ở đây. - Và anh cũng định làm em thoái chí về việc này nữa - Cô cười, đồng thời nhấc bàn tay anh ra khỏi tay cô và áp má mình vào đó - Nhưng anh cứ nói tiếp đi. Em háo hức muốn nghe lắm. - Anh đã liên lạc với nhóm vô chính phủ, và anh càng tìm hiểu họ kỹ hơn thì anh lại càng tin rằng họ không đủ khả năng giết người. Họ chẳng thực tế chút nào. Họ mơ mộng, vẽ vời thêu dệt giả thuyết này, lý thuyết kia và nổi loạn chống lại sự đàn áp của cảnh sát. Nhưng chỉ có thế thôi. Họ chẳng bao giờ tiến xa hơn cả. Họ động vào cái gì là hỏng việc cái đó - đương nhiên anh muốn nói đến những nhóm bạo động. Còn đối với những nhóm như Martha Brown hay Kropotkinian, họ chẳng qua chỉ là những triết gia đạo mạo hiền hành. Họ chẳng thể xuống tay giết một con kiến, và nhóm bạo động bạn bè với họ cũng thế thôi. Em thấy không, những vụ giết người đó thuộc đủ mọi loại. Nếu chúng chỉ đơn thuần là những vụ ám sát chính trị, hoặc xã hội, chúng có lẽ là do một tổ chức cao cấp tuyệt đối bí mật. Nhưng tổ chức này vừa cao cấp, lại vừa thương mại. Như thế, anh kết luận rằng, hẳn phải có một cách nào đó cho những người bình thường liên lạc được với tổ chức ấy. Nhưng làm cách nào bây giờ? Anh đặt giả thuyết rằng anh muốn giết một người nào đó. Và thế là anh bí. Anh không biết địa chỉ của cái công ty có thể giúp anh làm cái công việc đó. Đây chính là chỗ yếu trong lập luận của anh, hay nói đúng hơn, trong chính bản thân giả thuyết anh nêu ra. Anh thực sự chẳng muốn giết ai cả. Nhưng sau đó, chỗ yếu này đã được sáng tỏ, khi Coburn kể cho tụi anh nghe tại Hội Liên Hiệp về một chuyện li kỳ hắn mới gặp vào buổi chiều. Hắn chỉ xem đó như một sự kiện kỳ cục, nhưng anh nắm được ý nghĩa và nội dung việc đó ngay. Hắn đang đi bộ băng ngang Đại lộ số 5 ở khu dưới thì có một người đàn ông ăn vận như thợ máy leo khỏi xe môtô và đi kè kè hắn. Gã đàn ông trình bày vắn tắt rằng nếu hắn muốn giết một ai đó, sẽ có người lo vụ đó một cách rất nhanh gọn và an toàn. Khi Coburn đe dọa sẽ đấm vào mặt tên kia, hắn nhảy phắt lên xe và chạy mất. Vẫn đề là thế này, Coburn đang lâm vào thế kẹt. Hắn vừa mới bị tên Mattison, một tên hùn hạp với hắn, lừa gạt lấy mất một món tiền lớn. Thêm vào đó, Mattison đã quyến rũ luôn vợ Coburn sang Châu Âu. Em thấy không? Thứ nhất, Coburn phải có ý định, hoặc ắt hẳn phải có định trả thù tên Mattison. Và thứ hai là, cũng do báo chí mà công chúng đều biết rất rõ về cái chuyện rủi của hắn. - Em hiểu rồi - mắt Rita sáng lên - Trong giả thuyết của anh có một chỗ yếu. Vì anh không thể làm cho công chúng biết rằng anh giả dụ đang muốn giết một ai đó, do đó tổ chức ám sát đương nhiên không thể đề nghị với anh về chuyện đó được. - Đúng như thế. Nhưng anh không phải là kẻ tiên phong. À không, trên một phương diện nào đó, có thể anh là một người như vậy. Bây giờ thì anh đã biết làm cách nào người ta có thể liên lạc với tổ chức ấy. Từ đó trở đi anh nghiên cứu những vụ giết người nổi tiếng và bí ẩn nhằm mục đích đó. Anh nhận xét rằng những vụ giết người trong giới thượng lưu hầu như luôn luôn theo sau những vụ scandal giật gân gây náo động dư luận. Còn những vụ án thương mại thì theo sau những vụ làm ăn mờ ám hay chia chác không đều trong một số lớn những tên đại doanh nghiệp, chuyện bê bối như vậy cũng thường bị tiết lộ luôn, mặc dù không đến nỗi bị đăng tải lên báo chí. Khi tên Hawthorn chết một cách bí ẩn trên chiếc du thuyền của hắn, thì những lời đồn đại về các vụ làm ăn mánh khóe trong cuộc đấu tranh với Công ty Liên hợp Combine đã được truyền miệng trong các Câu lạc bộ mấy tuần liền. Có lẽ em quên rồi, vào thời đó những vụ scandal về Atwater và Jones, vè Langthorne Haywards đã được báo chí thổi phồng lên bằng những tình tiết hết sức giật gân. Do đó anh đoán chắc rằng tổ chức giết người ấy phải móc nối với những nhân vật giữ địa vị quan trọng trong chính trường, thương trường và xã hội. Và anh cũng chắc chắn rằng không phải ai cũng từ chối thẳng thừng những đề nghị của họ như trường hợp của anh chàng Coburn. Anh đảo mắt xung quanh anh và tự hỏi không biết ai trong số các nhân vật anh vẫn gặp gỡ tại các câu lạc bộ, tại các hội nghị giám đốc, lại có thể là thân chủ của tổ chức giết người ấy? Chắc hẳn anh có quen biết những kẻ đó, nhưng họ là ai mới được chứ? Và em thử tưởng tượng xem, nếu anh hỏi thăm họ về địa chỉ của tổ chức họ đã thuê để trừ khử kẻ thù của họ. Nhưng cuối cùng, và chỉ mới đây thôi, anh tìm ra một phương án trực tiếp. Anh quan tâm theo dõi tất cả những người bạn của anh hiện đang có địa vị cao trong xã hội. Khi bất kỳ ai trong số họ lâm vào tình cảnh khó khăn quẫn bách, anh bắt liên hệ mật thiết với họ. Trong một thời gian, việc làm này chẳng được tích sự gì, mặc dù có một người ắt hẳn đã nhờ cậy đến dịch vụ của tổ chức đó vì chỉ trong vòng sáu tháng, cái gã đầu mối gây phiền muộn rắc rối cho hắn đã chết. Cảnh sát cũng nói do tự tử. Và rồi cơ hội đến. Em hẳn biết sự phẫn nộ của dư luận cách đây vài năm về cuộc hôn nhân giữa Gladys Van Martin với nam tước Portos de Moigne. Đó là một trong những vụ hôn nhân quốc tế bất hạnh nhất. Gã Nam tước đó là đồ súc sinh. Hắn cướp đoạt tài sản của người vợ rồi ly dị cô ta. Các chi tiết về cách cư xử của hắn chỉ vừa mới được tiết lộ ra, và thật gớm ghiếc không thể tin nổi. Hắn đã đánh đập người vợ vô cùng tàn nhẫn đến nỗi có lúc bác sĩ tưởng hết hy vọng cứu chữa, và sau này họ kết luận rằng cô mất khả năng hoạt động về trí tuệ. Và theo luật nước Pháp, hắn được phép nuôi hai đứa con trai. Anh cô ta, Percy Van Martin, là bạn học của anh ở Đại học. Anh quyết định liên lạc mật thiết với anh ta. Tụi anh gặp nhau rất thường xuyên trong nhiều tuần gần đây. Chỉ mới hôm kia thôi, cái sự kiện anh hằng trông đợi đã xảy ra, và anh ta kể lại cho anh nghe. Tổ chức đó đã moc nối với anh ta. Khác với Coburn, Percy đã không đuổi cổ người liên lạc đi mà chịu nghe tên này trình bày cho đến hết. Nếu Van Martin đồng ý đi sâu vào vấn đề, hắn sẽ phải cho đăng một chữ mật mã MESOPOTAMIA trong mục nhắn tin của tuần báo Herald. Anh vội vàng thuyết phục Martin để anh nắm lấy vụ này. Anh cho đăng mật mã MESOPOTAMIA như đã dặn với tư cách người đại diện cho Martin, anh đã gặp và nói chuyện với một trong những nhân vật của tổ chức đó. Họ rất thận trọng và đa nghi. Nhưng tối hôm nay anh sẽ được gặp tên đầu não. Tất cả đã được sắp xếp, và khi đó... - Thế..., thế - Rita cuống quít hẳn lên - thế khi đó thì sao? - Anh không biết. Anh chưa có kế hoạch gì cả. - Nhưng sẽ nguy hiểm lắm! Hall mỉm cười trấn an, - Anh nghĩ sẽ không có gì liều lĩnh lắm đâu. Anh sẽ đến đó, và đơn thuần nhằm mục đích giao dịch làm ăn với văn phòng về vụ ám sát tên em rể của Percy Van Martin. Văn phòng đó đâu có giết khách hàng của họ. - Nhưng khi họ biết anh không phải là một khách hàng thì sao? - Cô phản đối. - Lúc ấy thì anh đâu còn ở đấy nữa. Và nếu họ có biết được thì cũng đã quá muộn để gây nguy hiểm cho anh. - Hãy cẩn thận, rất cẩn thận anh nhé - Rita khẩn cầu anh khi họ chia tay tại cổng nửa giờ sau đó - Và cuối tuần anh nhớ đến nhé. - Chắc chắn em ạ. - Em sẽ đến đón anh tại sân ga. - Và vài phút sau đó, anh sẽ tiếp kiến ông bác đáng gờm của em chứ? - Anh giả vờ run rẩy - Hy vọng rằng bác em không phải là ông kẹ. - Anh sẽ yêu bác ấy - Cô tự hào tuyên bố - Bác ấy tử tế hơn, tốt bụng hơn hàng chục ông bố cộng lại. Bác không hề từ chối em bất cứ một thứ gì, ngay cả... - Anh? - Hall ngắt lời. Rita cũng muốn làm gì đó để đáp lại thái độ táo tợn của anh, nhưng cô đỏ bừng mặt lên vì xấu hổ và cúi đầu xuống, để yên cho anh âu yếm ôn cô vào lòng.