au khi rửa tội cho Klavđia Ivanovna hấp hối, vị cha cố đạo của nhà thờ Flor và Lavr, cha Fêđor Vostrikov, bước ra khỏi nhà Ippolit Matveevich trong tâm trạng phấn chấn cực độ và suốt từ đó về nhà mình, cha cứ vừa đi vừa lơ đễnh nhìn tứ phía, miệng thì mỉm cười bẽn lẽn. Sắp tới nhà, sự lơ đễnh của cha lên đến mức suýt nữa cha đâm đầu vào chiếc ô tô Gos No1 của ủy ban hành chính thị trấn. Sau khi thoát khỏi lớp khói màu tím do chiếc xe ghê gớm phụt ra, cha Fêđor rơi vào trạng thái cực kỳ bối rối, và mặc dù cha đã đứng tuổi và có địa vị đáng kính, song đoạn đường còn lại cha vẫn vượt nốt bằng lối chạy nửa nước kiệu.Vợ của cha, bà Katerina Aleksanđrovna đã dọn bữa ăn. Những ngày không phải làm lễ vào buổi tối, cha Fêđor thích ăn sớm bữa tối. Nhưng bây giờ, sau khi cởi mũ và chiếc áo thụng vải mềm ấm áp, cha vội vàng vọt ngay sang buồng ngủ, và điều khiến bà Katerina ngạc nhiên là cha khóa trái cửa lại và khe khẽ hát bài “Xứng đáng được ăn” ở trong ấy.Vợ của cha ngồi xuống mép ghế và sợ hãi lẩm bẩm:– Lại nghĩ ra trò gì mới rồi đây...Linh hồn hăng hái của cha Fêđor không biết, không bao giờ biết đến sự yên tĩnh. Kể cả hồi cha còn học ở trường dòng lẫn khi cha lớn lên ở chủng viện. Sau khi từ chủng viện chuyển sang học ba năm ở khoa luật trường đại học tổng hợp, năm 1915 cha Fêđor Vostrikov sợ bị động viên vào lính nên quay trở về chủng viện. Cha được phong chức linh mục và được cử về thị trấn N. Và suốt các giai đoạn chạy theo công danh trong giới tu hành và dân sự, cha Fêđor luôn luôn là người mê mải làm giàu.Cha Fêđor mơ ước có một nhà máy làm nến riêng của mình. Say sưa và luôn bị dằn vặt về những cái máy làm nến, cha đã sáng chế nhiều dự án khác nhau, mà nếu thực hiện chúng, cha sẽ có một số tư bản cố định và lưu động để mua đứt một cái nhà máy ở Xamara đã lọt vào mắt cha từ lâu.Các tư tưởng lớn của cha Fêđor nảy sinh đột ngột, và cha bắt tay ngay vào việc. Cha Fêđor bắt đầu bằng việc nấu xà phòng giặt, cha nấu hàng mấy chục ký, nhưng xà phòng – mặc dù có hàm lượng mỡ rất cao, vẫn không có bọt, đã thế lại đắt hơn loại xà phòng “búa và cày” những ba lần. Bị xếp xó lâu ở góc nhà, xà phòng nhũn toẹt ra và bốc mùi thối đến mức mỗi lần bà Katerina Aleksanđrovna đi ngang qua, bà đều phải bưng mặt sụt sùi. Ít lâu sau đành hốt đi đổ xuống hố chôn.Đọc trong một tạp chí chăn nuôi nào đó, nó nói rằng thịt thỏ mềm như thịt gà, rằng thỏ đẻ ra đẻ và nuôi thỏ sẽ đem lại cho người chủ tằn tiện những khoản lời không nhỏ, cha Fêđor lập tức nuôi nữa tá thỏ, và chỉ hai tháng sau con chó Nerka vì sợ bầy sinh vật tai to đầy lông nhung nhúc ngoài sân, đã bỏ nhà đi mất. Dân chúng đáng nguyền rủa ở thị trấn N tỏ ra cực kỳ bảo thủ và họ hoàn toàn nhất trí với nhau (một điều hiếm thấy) không chịu mua thỏ của cha Fêđor. Khi ấy, cha Fêđor sau khi bàn bạc với vợ bèn quyết định tô điểm cho thực đơn của mình những con thỏ mà thịt chúng tươi ngon hơn cả thịt gà tơ. Từ thỏ, người ta làm món thỏ quay, thịt viên rán, cốt-lét, nấu súp và được đưa ra bữa tối thành món thỏ nguội hoặc nóng. Món này chẳng có gì có hại cả. Cha Fêđor tính rằng nếu chuyển sang chế độ hoàn toàn ăn bằng thịt thỏ, thì mỗi tháng cả gia đình ăn không hết quá bốn chục con trong khi mỗi tháng bầy thỏ đẻ thêm chín mươi con, và con số ấy sẽ tăng theo cấp số nhân.Vợ chồng cha Fêđor bèn quyết định nấu các xuất ăn trưa đem bán. Suốt buổi tối cha Fêđor dùng bút chì hóa học, viết trên những tờ giấy kẻ ô được cắt xén cẩn thận, mấy câu thông báo về việc bán các xuất ăn trưa ngon tuyệt, nấu bằng loại bơ lấy từ sữa bò tươi hảo hạng. Tờ thông báo bắt đầu bằng ba chữ thật to “Rẻ và ngon”. Bà Katerina nấu một đĩa hồ đầy, và khuya hôm ấy cha Fêđor đem dán các tờ thông báo lên tất cả các cột điện thoại và các bức tường ở gần trụ sở xô viết.Ý đồ mới đã đem lại thành công rực rỡ. Ngay hôm đầu tiên đã có bảy người mua, trong đó có Bendin làm ở văn phòng thị đội và Kozlov là trưởng ban tiện nghi của thị trấn (nhờ nỗ lực to lớn của Kozlov, cách đây ít lâu một di tích cổ duy nhất ở thị trấn là cổng vòm chiến thắng dựng từ thời Elizaveta đã được phá bỏ, vì theo lời ông ta, nó cản trở giao thông đường phố). Cả bảy người đều khoái món ăn trưa ấy. Ngày thứ hai khách hàng tăng lên mười bốn người. Người nhà của cha lột da thỏ không kịp. Suốt một tuần lễ công việc làm ăn hết sức phát đạt, khiến cha Fêđor đã tính chuyện khai trương một xưởng thuộc đồ lông bằng phương pháp thủ công, thì xảy ra một sự cố hoàn toàn ngoài dự kiến.Hợp tác xã “Cày và Búa” nghỉ bán hàng ba tuần lễ nhân dịp kiểm kê, đã mở cửa trở lại, và nhân viên cửa hàng ì ạch lăn một thùng bắp cải thối ra chiếc sân sau, chung với sân sau của cha Fêđor để chôn. Ngửi thấy mùi bắp cải độc đáo, bầy thỏ chen nhau chạy ra hố, và sáng hôm sau thì những con vật gặm nhấm đáng yêu ấy lăn ra chết. Chỉ sau ba giờ đồng hồ, hai trăm bốn mươi con thỏ bố mẹ và bầy con đông không đếm xuể đã chết sạch.Cha Fêđor điếng người, suốt hai tháng không muốn làm ăn gì cả, và mãi đến bây giờ cha mới được lên giây cót tinh thần, sau khi từ nhà Ippolit Matveevich trở về và đóng cửa buồng ngủ lại, ngồi lì trong đó khiến bà vợ kinh ngạc. Tất cả chứng tỏ rằng cha Fêđor mới nảy ra một tư tưởng lớn xâm chiếm toàn bộ tâm trí của cha.– Này, bà nó đưa cái kéo cho tôi, nhanh lên nào – cha Fêđor giục.– Ông không ăn tối hay sao?– Được rồi, lát nữa.Cha Fêđor chộp lấy chiếc kéo, lại đóng cửa vào và bước tới chỗ chiếc gương treo lồng khung đen hơi bị xây xát.Cạnh chiếc gương treo một bức tranh dân gian cổ nhan đề “Tấm gương của kẻ tội đồ” in từ một phiến đồng và được tô màu khéo léo bằng tay. “Tấm gương của kẻ tội đồ” đặc biệt có tác dụng an ủi cha Fêđor sau đợt nuôi thỏ thất bại. Bức tranh dân gian mô tả rõ ràng tính trần tục của mọi thứ dưới trần gian. Phần trên cùng là bốn bức vẽ, với bốn phụ đề bằng chữ Sla-vơ rắm rối đa nghĩa để an ủi lòng người: “Xin cầu nguyện, Kham gieo hạt, Iafet nắm quyền, tử thần làm chủ vạn vật”. Tử thần được miêu tả với lưỡi hái và chiếc đồng hồ cát có cánh. Trông thần chết như được lắp từ các bộ phận giả, dùng để chỉnh hình, nó đứng dạng chân trên một quả đồi trơ trụi. Dáng dấp của nó chứng tỏ rõ rệt rằng vụ thỏ chết chỉ là chuyện vặt vãnh.Lúc này cha Fêđor thấy thích cái hình “Iafet nắm quyền” hơn: một người to béo, giàu có, râu dài ngồi oai vệ trên ngai vàng.Cha Fêđor mỉm cười, chăm chú ngắm mình trong gương, bắt đầu xén tỉa bộ râu tử tế của mình. Râu rơi lả tả xuống sàn, chiếc kéo kêu tanh tách. Năm phút sau thì cha Fêđor hiểu rằng cha hoàn toàn không biết xén râu. Bộ râu của cha bị lệch sang một bên trông thiếu đứng đắn, thậm chí đáng ngờ là đằng khác.Loay hoay trước gương một lát nữa, cha Fêđor nổi giận, gọi bà vợ vào, chìa chiếc kéo, nói:– Bà nó hãy giúp tôi một tay. Tôi không sao giải quyết nổi cái mớ râu này.Bà Katerina sửng sốt tới mức giấu cả hai tay sau lưng.– Ông làm gì thế này hở ông? – Cuối cùng bà thốt lên.– Không làm gì cả. Tôi xén râu đây. Bà hãy giúp tôi. Chỗ này hình như không được cân thì phải...– Lạy chúa, – bà Katerina chạm vào râu tóc chồng. – Ông ơi, ông định bắt chước bọn cách tân hay sao đấy?Cha Fêđor thích thú thấy câu chuyện xoay sang hướng mới.– Tại sao tôi không bắt chước bọn cách tân hở bà? Bọn cách tân không phải là người ư?– Dĩ nhiên cũng là người, – bà Katerina khổ sở tán thành, – họ cũng ăn cũng mặc...– Thì tôi cũng sẽ ăn mặc như họ.– Và cũng nhún nhẩy nữa chứ?– Và cũng nhún nhẩy.– Ông còn sức lắm đấy mà chả nhún với nhẩy. Ông thử soi gương xem nào.Quả vậy, từ trong gương nhìn ra là một bộ mặt xăng xái, với cặp mắt đen, bộ râu lởm chởm và hàng ria dài một cách vô lý.Hai vợ chồng cha Fêđor cắt xén ria, đưa nó về một tỷ lệ cân đối với râu.Tiếp đó, bà Katerina càng ngạc nhiên hơn nữa. Cha Fêđor tuyên bố rằng ngay tối hôm nay cha phải lên đường giải quyết một việc và sai bà vợ phải đến gặp ông em trai mượn cái áo bành tô cổ lông cừu và chiếc mũ đít vịt màu nâu trong một tuần.– Tôi không đi đâu sất! – bà Katerina nói và khóc òa lên.Cha Fêđor mất đứt nửa giờ đi đi lại lại trong phòng, nói năng lung tung và đe dọa bà vợ bằng bộ mặt vừa đổi khác của mình. Bà Katerina chỉ hiểu nổi một điều: Cha Fêđor bỗng dưng dở chứng, định đội chiếc mũ t về phía Tiflis. Tàu Viễn Đông chạy vòng bờ hồ Baican lao thẳng về phía Thái Bình Dương.Chất thơ của những chuyến đi xa quyến rũ con người. Nó đã bứt cha Fêđor ra khỏi thị trấn N yên tĩnh và ném cha không biết đến xó xỉnh nào. Nguyên đô thống quý tộc Ippolit Matveevich Vorobjaninov, hiện là nhân viên phòng hộ tịch cũng đang bồn chồn trong dạ và suy tính có quỷ biết chuyện gì.Tàu chở mọi người đi qua khắp vùng đất nước. Người thì vượt hàng vạn kilomet để tìm cô vợ chưa cưới mặt mày rạng rỡ. Kẻ thì săn đuổi báu vật, bỏ cả nhiệm sở và chạy đến Aldan như một cậu học trò. Có người thì ngồi ở nhà, vừa thích thú xoa bụng vừa đọc các văn phẩm của bá tước Salias để giá 1 rúp bây giờ bán có năm cô-pếch (1).Việc chôn cất bà Klavđia Ivanovna được lão thợ đóng quan tài Bejentruc nhận lo liệu chu tất. Hôm sau, Ippolit Matveevich đến nhiệm sở. Thực hiện nhiệm vụ của mình, ông tự tay khai tử bà Klavđia Ivanovna Petukhova, năm mươi chín tuổi, nội trợ, không đảng phái, thường trú ở thị trấn N và xuất thân là dòng dõi quý tộc ở tỉnh Stargorot, sau đó Ippolit xin nghỉ phép hai tuần lễ theo luật quy định, nhận 41 rúp tiền tạm ứng, chia tay với các bạn đồng sự và ra về. Trên đường về nhà, ông ghé qua hiệu thuốc. Dược sĩ Leopold Grigorjevich mà người nhà và bạn hữu gọi tắt là Lifa, đứng sau quầy hàng đánh véc-ni màu đỏ, xung quanh là các hộp sữa đựng thuốc độc đang cố gán cho cô em vợ ông đội trưởng cứu hỏa loại “kem Ango chống rám nắng và các vết tàn nhang, làm da trắng tuyệt đối”. Thế nhưng cô em vợ ông đội trưởng cứu hỏa lại đòi mua loại “phấn Rashel” màu vàng, làm cho thân thể có màu rám nắng mà thiên nhiên không thể tạo nổi. Song hiệu thuốc lại chỉ có kem Ango chống rám nắng thôi, thành thử cuộc cạnh tranh giữa hai loại mỹ phẩm đối chọi nhau kéo dài nửa tiếng đồng hồ. Dầu sao Lifa cũng chiến thắng, bán được cho em vợ ông đội trưởng cứu hỏa một hộp sáp bôi môi và một lọ phun chống rệp.– Ông muốn mua loại gì ạ?– Thuốc tóc.– Để nhuộm tóc hay làm cho tóc rụng?– Sao lại để cho tóc rụng! – Ippolit nói – Để nhuộm tóc.– Để nhuộm tóc thì có loại “Titanik” tuyệt lắm, mua loại của hải quan ấy. Hàng lậu mà. Đã nhuộm rồi thì dù nước nóng hay nước lạnh, bọt xà phòng hay dầu hỏa đều không thể làm cho nó phai màu. Cứ gọi là đen rưng rức. Mỗi lọ dùng được nửa năm, chỉ tốn ba rúp 12 cô-pếch. Xin bán cho ông như một khách hàng quen.Ippolit Matveevich xoay xoay lọ thuốc “Titanik” hình vuông trong tay, thở dài nhìn cái nhãn hiệu và đặt tiền lên quầy.Về đến nhà, Ippolit bắt đầu dội thuốc “Titanik” lên đầu và ria mép với cảm giác ghê tởm. Mùi hôi hám tỏa ra khắp phòng.Sau bữa ăn trưa, mùi hôi càng gớm ghiếc hơn, râu ria quánh lại với nhau, vất vả lắm mới chải ra được. Màu đen rưng rức hóa ra hơi xanh, nhưng không còn đâu thời gian để nhuộm tóc lần thứ hai nữa.Ippolit rút rừ trong cái tráp của bà mẹ vợ ra tờ giấy ghi các vật quý mà ông tìm thấy hồi trước, ông đếm tất cả số tiền mặt hiện có, khóa cửa phòng, giấu chùm chìa khóa vào túi sau, lên chuyến tàu tốc hành No7 và đi đến thành phố Stargorot.Chú thích:(1) Một rúp bằng 100 cô-pếch.