Sau màn kịch "Keo siêu dính", có một sự yên tĩnh tương đối và ông ta tạm thời mất đi ý thích khoác lác hoặc bắt nạt trẻ con. Rồi đột nhiên ông ta nổi chứng lại. Có lẽ hôm đó là ngày xấu ở chỗ làm, và ông ta bán không đủ chỉ tiêu đề ra. Có nhiều chuyện làm người chồng cáu kỉnh khi về nhà vào buổi tối, và người vợ tinh ý sẽ nhận ra dấu hiệu của bão tố, sẽ để ông ta yên tới khi nào ông ta bình tĩnh. Tối đó, khi ông Wormwood từ garage trở về nhà, mặt mũi ông tối hù như đám mây giông, và chắc chắn sẽ có kẻ bị ông trừng phạt. Bà vợ nhận ra dấu hiệu, bèn lánh mặt đi. Thế là ông ta bước vào phòng khách. Matilda đang cuộn người trong chiếc ghế bành nơi góc phòng, hoàn toàn đắm mình vào cuốn sách. Ông Wormwood bật ti vi. Màn hình sáng lên. Chương trình nhốn nháo, om sòm. Ông Wormwood nhìn Matilda. Bé ngồi im. Bé đã tự tập luyện đôi tai khép chặt trước âm thanh khủng khiếp của ti vi. Bé tiếp tục đọc sách và điều đó như khiêu khích ông bố. Cơn tức giận của ông ta lên tới tột đỉnh khi thấy bé có được một sự giải trí mà ông ta không thể nào vươn tới được. Ông nạt to:- Chẳng lẽ lúc nào mày cũng đọc à?Bé vui vẻ trả lời:- Ồ, chào ba. Hôm nay ba làm việc tốt chứ?- Rác rưởi gì đây?Ông bố giật cuốn sách ra khỏi tay bé.- Không phải rác rưởi đâu, ba. Nó hay lắm. Nó là cuốn "Chú ngựa màu đỏ" của John Steinbeck, một nhà văn Mỹ. Ba thử đọc đi, ba sẽ thích cho coi.- Bẩn thỉu. Nếu cuốn sách đó do nhà văn Mỹ viết thì hẳn nó bẩn thỉu lắm. Bọn họ chỉ viết về điều đó thôi.- Không phải đâu ba. Thật sự là cuốn sách hay lắm. Nó nói về...Ông bố gắt lên:- Tao không muốn biết nó viết về cái gì cả. Tao chán ngấy việc đọc sách của mày lắm rồi. Đi tìm việc gì khác có ích mà làm.Rồi, đột ngột, ông bố bắt đầu xé từng trang sách và quăng chúng vào sọt rách.Matilda như hoá đá trong sự kinh sợ. Ông bố tiếp tục xé. Có chút xíu nghi ngờ rằng ông ta cảm thấy ganh tức. Sao nó dám - ông ta nghĩ trong đầu trong lúc tay vẫn xé - sao nó dám thích thú chuyện đọc sách khi ông ta chẳng làm được? Sao nó dám? Matilda hét lên:- Đó là sách của thư viện! Không phải sách của con! Con phải trả nó cho bà Phelps!- Vậy mày phải mua cuốn khác. Mày phải để dành tiền túi của mày cho tới khi nào mua được cuốn mới trả cho bà Phelps quí hoá của mày. Ông bố vừa nó vừa xé hết trang nọ sang trang kia. Cuối cùng ông ta thả cái bìa sách rỗng vào giỏ rác, bước ra khỏi phòng, mặc cho cái ti vi om sòm nhốn nháo.Đứa trẻ nào trong hoàn cảnh Matilda cũng sẽ bật ra khóc. Nhưng bé không khóc. Bé ngồi yên đó, trắng bệch, suy nghĩ. Dường như bé biết khóc lóc hay hờn dỗi chẳng làm được gì. Điều duy nhất bạn cần làm khi bị tấn công - như Napoleon từng nói - là phản công lại. Đầu óc tinh tế tuyệt vời của Matilda nghĩ ra ngay ra sự trừng phạt mới thích hợp với các bậc cha mẹ độc ác kia. Tuy nhiên, kế hoạch đó còn tuỳ thuộc vào việc con vẹt của thằng Fred có nói giỏi như lời nó khẳng định hay không.Fred là thằng bạn của Matilda. Nó được sáu tuổi và sống trong ngôi nhà gần nhà bé. Ngày nào nó cũng kể lể về con vẹt biết nói tuyệt vời mà ba nó đã tặng nó.Chiều hôm sau, khi bà Wormwood lái xe rời khỏi nhà đi chơi lô-tô, Matilda lật đật nhà Fred để điều tra. Bé gõ cửa và hỏi xem nó có vui lòng cho bé gặp con chim nổi tiếng hay không. Fred bảo vui lòng. Nó dẫn bé vào phòng ngủ, nơi có đặt chiếc lồng của con vẹt đẹp đẽ với bộ lông hai màu xanh và vàng.- Nó đây. Tên nó là Chopper.- Bắt nó nói đi.Fred lắc đầu:- Bạn không thể bắt nó nói được. Bạn phải kiên nhẫn. Nó sẽ nói khi nào nó thích nói.Cả hai đi vòng vòng, chờ đợi. Đột nhiên con vẹt nói:- Xin chào, xin chào, xin chào.Đúng là giọng nói của một người rồi! Matilda nói:- Thật đáng kinh ngạc! Nó còn nói gì khác nữa?- Hãy lắc xương ta đi!Con vẹt bật lên câu thứ hai, nhái giống hẹt giọng nói của ma.- Hãy lắc xương ta đi!Fred khoe:- Nó luôn nói câu này đó!- Còn câu gì nữa không?- Chỉ có thế. Nhưng bạn không cho là tuyệt vời sao?- Tuyệt vời lắm. Bạn cho tôi mượn nó chỉ trong một đêm, được không?- Không, không được đâu.Matilda đề nghị:- Tôi sẽ đưa bạn tất cả tiền túi tuần sau của tôi.Ấy, đó lại là chuyện khác.Fred suy nghĩ vài giây rồi đáp:- Vậy thì được. Nếu bạn hứa ngày mai trả nó lại cho tôi. Matilda khệ nệ mang chiếc lồng chim to bằng cả hai tay, quay về ngôi nhà vắng vẻ. Trong phòng ăn có chiếc lò sưởi to tướng, và bé đang cố nhét lồng chim vào ống khói cho khuất mắt mọi người. Điều này không dễ dàng chút nào, nhưng cuối cùng, bé đã làm được.- Xin chào, xin chào, xin chào!Con vẹt từ trên cao gọi xuống.- Im đi, đồ điên!Matilda khẽ nói với nó, bé lật đật ra ngoài để rửa sạch bồ hóng khói đôi tay.Tối đó, khi bà mẹ, ông bố, thằng anh và Matilda ăn tối trước phòng khách như thường lệ, có tiếng nói thật to và rõ vang từ phòng khách ra tận hành lang. Tiếng đó nói:- Xin chào, xin chào, xin chào!Bà mẹ giật mình, mặt mũi trắng nhợt, kêu lên:- Harry! Có người trong nhà! Em nghe tiênghó nói!Thằng anh hùa theo:- Con cũng nghe nữa.Matilda vội vàng tắt ti vi cái bụp. Bé nói:- Suỵt! Nghe kìa!Mọi người nhưng nhai, căng thẳng ngồi yên để lắng nghe. Tiếng nói vang tới một lần nữa:- Xin chào, xin chào, xin chào!Thằng anh ré lên:- Nó đấy!Bà mẹ thì thào:- Bọn trộm nhập nha! Chúng ở trong phòng ăn!- Tôi cũng nghĩ thế!Ông bố đáp, nhưng vẫn ngồi im. Bà mẹ thúc hối:- Vậy đi bắt chúng đi, Harry! Đi thộp cổ chúng lại đi!Ông bố không nhúc nhích. Dường như ông ta không vội vã lao tới đó để trở thành vị anh hùng. Mặt mũi ông ta xám ngoét. Bà mẹ vẫn thì thào:- Tới tóm cổ chúng nó đi! Có lẽ chúng đang quơ đồ đạc của mình.Ông bố cầm khăn lau miệng một cách căng thẳng, hỏi:- Tại sao tất cả chúng ta không cùng đi tới đó?Thằng anh hăng hái:- Chúng ta cùng đi. Đi nào, mẹ.Matilda nói khẽ:- Họ đang ở trong phòng ăn đấy. Con chắc chắn như thế. Bà mẹ chộp cây que cời lửa. Ông bố vớ lấy cây gậy đánh golf dựng nơi góc phòng. Thằng anh túm cây đèn bàn, dứt luôn sợi dây điện ra khỏi ổ cắm. Matilda cầm theo con dao mà bé đang ăn. Cả bốn rón rén tiến về cánh cửa phòng ăn. Ông bố đi sau lưng những người kia, cách một khoảng an toàn.- Xin chào, xin chào, xin chào!Tiếng nói lại vang ra.- Xông vào!Matilda thét to, bé lao vào phòng, tay cầm dao vung vẩy, miệng vẫn thị uy:- Bắt chúng lại! Chúng tao bắt được bọn mi rồi!Những người khác đi theo bé, quơ vũ khí loạn xạ. Rồi tất cả dừng lại, nhìn quanh phòng: chẳng có ai ở đây cả.- Không có ai hết, - Ông bố nói, giọng nhẹ nhõm.Bà mẹ thét lên, vẫn cò run lẩy bẩy chân tay:- Em nghe tiếng hắn mà, Harry! Rõ ràng em nghe tiếng hắn! Anh cũng vậy!Matilda đồng tình với mẹ:- Chắc chắn là con cũng nghe. Hắn chỉ ở quanh đây thôi.Bé bắt đầu đi tìm phía sau ghế trường kỷ và phía sau những tấm màn dày. Đột nhiên giọng nói lại cất lên, lần này vẻ ma quái hơn:- Hãy lắc xương ta đi! Hãy lắc xương ta đi!Mọi người nhảy dựng lên, kể cả Matilda nãy giờ đang đóng vai rất khéo. Họ nhìn quanh căn phòng, vẫn chẳng có người nào xuất hiện. Matilda run giọng:- Nó là ma đấy!- Xin Chúa cứu chúng con!Bà mẹ rú lên như thế, nhảy lại phía ông bố, ôm xiết lấy cổ ông ta. Matilda bồi thêm một câu:- Con biết nó làm ma đấy! Con đã từng nghe nó nói vài lần rồi! Căn phòng này có ma! Con tưởng ba mẹ biết rõ điều đó.- Hãy cứu chúng con!Bà mẹ lại rú lên, hầu như muốn xiết chặt cổ ông chồng. Mặt mũi ông bố xám xịt hơn bao giờ hết, ông ta nói:- Ta ra khỏi đây đi.Rồi mọi người cùng bỏ chạy ra ngoài và đóng sầm cánh cửa sau lưng họ.Chiều hôm sau, maltida cố gắng kéo cái lồng chim dính đầy bồ hóng đen thui ra khỏi ống khói, và đem nó rời khỏi nhà mà không để ai nhìn thấy. Bé phải đi bằng cửa sau, liền một mạch tới nhà Fred. Fred toe toét hỏi:- Nó cư xử phải phép chứ?Matilda đáp:- Chúng tôi có được khoảng thời gian thú vị với nó. Ba mẹ tôi thích nó lắm.