- Kíp truyền quân kiệu tháo lui,Sang tòa Đô-sát, họp người đồng niên.Phùng công ra đón rước liền,Chủ tân một hội, hàn-huyên mấy lời.Sự tình kể-lể lôi thôi,Ngoài ngàn muôn dặm, trong mười mấy năm.Xiết bao trò-chuyện tri âm,Khói hương cao thấp, chén chầm đầy vơi.Mai-công rằng lúc mới rồi,310.- "Tức gan mà lại nực cười lắm sao."Kể từ tướng-phủ mới vào,Thế nào khinh-dể, thế nào hỏi han,Miệng đường lại, mặt môn-quan,Kẻ xin đòi lễ, mình toan ném tờ.Đinh-ninh kẽ tóc chân tơ,Từ đầu đến cuối kể qua một hồi.Chư công rằng: " Hãy kín hơi,"Nghĩ cho chín, mới là người tri cơ."Rồi đây trời cũng có ta,320.- "Làm bao giờ, biết bấy giờ, mới cao."Ông rằng: "Như thế thảo nào,"Bè gian trách chẳng quyền-hào lắm ru!"Như bây giờ việc nên lo,"Quấy hôi đặt miệng, bày trò Trào-châu."Tôi đà tính trước nghĩ sau,"Muốn yên chi khỏi lấy đầu họ Lư?"Thôi đừng sợ oán sợ thù,"Rày lần mai lữa, nhập-nhù khó coi."Việc này giao một mình tôi,330.- "Để mà xem Kỷ với Mai thế nào!Ví bằng giải kết làm sao,"Giữ-gìn Mai-thị trỏ vào lối sinh."Già này dù thác cũng vinh,"Suối vàng khuất mặt cũng khinh-khích cười."Thoắt thôi từ tạ mấy người,Tấc lòng thề chẳng đội trời với ai.
- Ngày xuân thấm-thoắt đưa thoi,Lư-công tuổi thọ sáu-mươi vừa tuần.Định ngày vui mở tiệc xuân,340.- Vua cho lễ-vật nội thầnđem ban.Lại truyền văn võ bá quan,Cứ ngày cùng đến tướng môn lễ mừng.Phủ-đường dọn dẹp tưng-bừng,Rỡ-ràng kết thái trương đăng trong ngoài.Vóc đề chữ, gấm thêu bài,Vịnh ca Thiên-bảo, chúc lời Nghiêu-hoa,Dập-dìu chốn vũ nơi ca,Trò bày bách hí, nhịp hoà bát âm.Chong giá nến, quạt lò trầm,358.- Rót bình rượu ngọc, dâng mâm đào vàng.Võng đầy cửa ngựa chen đàng,Khắp triều quan đến, khắp hoàng thân ra.Bày phô chén ngọc đũa ngà,Gia-hào mấy vị, trân-la mọi mùi.Tướng-công thăm-thẳm xa ngồi,Tiếp tân phó mặc con nuôi họ Hoàng.Mai-công lễ vật tầm thường,Miến vài cân với lạp-hoàng vài đôi.Hoàng Tung trông thấy mỉm cười,360.- Tìm Lư-công, đến tận nơi tiến trình.Tướng công ngồi trước thọ bình,Chói vàng bông mũ, ngắt xanh hoa bào.Tứ bề trướng gấm màn đào,Mùi hương-xạ ngát, tiếng thiều nhạc rung.Trông ra nhác thấy Hoàng Tung,Xem đơn lễ mới thung-dung dạy lời:"Ít nhiều có lễ thì thôi,"Hãy thu lấy đấy, khuyên mời hẳn-hoi."Tay này là bậc đại tài,370.- Để ta mua chuộc làm tôi tớ nhà."Cứ lời Tung mới bước ra,Chào rằng: "Vâng mệnh ân-gia mời ngồi."Lễ đơn đây đã thu rồi,"Dám xin vài chén tiệc vui gọi là!"Mai-công rằng: "Những ở xa,"Chẳng hay quí chức tuổi đà bao nhiêu?"Tung rằng tuổi cũng chưa nhiều,"Năm mươi-tư tuổi gần theo cõi già."Ông rằng: "Thực cũng khéo là,380.- "Thế mà nghĩa-phụ thế mà ân-nhi."Sống lâu thấy lắm chuyện kỳ,"Sao xưa nay vẫn không nghe tiếng đồn?"Mới hay vượng-khí tướng-môn,"Năm lên sáu tuổi sinh con đầu lòng."Tung nghe ra giọng đâm hông,Mặt ngăn ngắt tím, mắt sòng-sọc trông.Các quan biết ý Hoàng Tung,Giả điều mời rượu Mai-công ép nài.Ông rằng: " Lượng rượu kém ai,390.- "Tiệc vui, dù chẳng đợi mời cũng say."Nghe hơi tử-khí đâu đây,"Dẫu rằng nửa chén đưa cay chẳng màng.
- Lại truyền giục kiệu lên đường,Trông kinh-quốc đã tấc gang đó rồi.Một vùng riêng đặt phỵ trời,Hoàng-thành trăm trắm, kỉ-đài cao cao.Cõi người nước nhược nguồn đào,260.- Liền mây ngàn dãy, bày sao trăm tòa.Chập-chồng vách gấm tường hoa,Cửa lầu ngũ-phượng, thềm nhà lượng long.Bách quan đóng chặt sân phong.Tiếng chen xe ngựa, vẻ lồng cân đai,
- Tìm vào Lại-bộ tới nơi,Truyền nha-môn định, ngày mai tiến chầu.Ngắm xiêm, sụa mũ giờ lâu,Uốn lưng năm lạy, Khấn đầu ba phen.Lạy rồi ren-rén tâu lên,270.- Chúc câu vạn-tuế, dâng lên cửu-trùng.Tiếng trời đưa lại bệ rồng:"Đặt tòa gián-viện kén dùng kẻ trung."Sau cho sắt đá một lòng,"Miệng hùm chớ sợ, vảy rồng chớ ghê."Tâu rằng: "Hổ phận ngu-si,"Đem lòng khuyển mã đền nghì bể sông."Tan triều lệnh ngự vào trong,Bách quan lui xuống đều cùng bước ra.Mai-công toan trở lại nhà,280.- Tiện gần tướng-phủ sang qua vào liền.Nghiêm-trang cụa thế sân quyền,Trước bia hạ mã chật lèn ngựa xe.Ông bèn giả cách vô tri,Ngồi trăm-trắm kiệu, vào kề nghi-môn.Môn quan trông thấy thét dồn,Xôn-xao bẻ-bót, ôn-tồn hỏi tra.Ông rằng: "Đâu chẳng biết ta,"Huyện-quan về bộ Lại-khoa ngày rày."Buổi chầu nhân tiện sang đây,290.- Nhờ ai trong ấy bẩm thay cho tường."Môn-quan rằng lệ phủ-đường,"Có đồ yết lễ, có vàng mấy bao."Có thì sẽ bẩm cho vào,"Bằng không hãy chực ngoài rào xa xa."Ông rằng: "Lệ đặt bao giờ,"ấy là quốc-pháp hay là phủ-qui?"Ta đây vốn chẳng cần chi,"Vào thì cũng được, ra thì cũng nên!"Không xuống kiệu vẫn ngồi trên,300.- Tay cầm thủ-bản ném bên thềm ngoài.
- trọng lỵ: tiếng nói tôn cũng như trọng nhâm phật sinh: bởi chữ: Nhất lộ phúc tinh và vạn gia sinh Phật. lại tệ dân tình: Tình tệ nha lại và dân chúng mạch tuệ: Đời Hán, Trương Kham làm Thái-thú quận Ngư-dương, khuyên dân chăm-chỉ cấy lúa trồng dâu, dân được no ấm, có câu ca tụng rằng: "tang vô phụ chi, mạch-tuệ lưỡng kỳ", nghĩa là cây dâu không có cành phụ, bông lúa mạch có hai chẽ, ý nói dâu tươi lúa tốt. cam đường: Đời Chu, Thiệu Bá đi tuần thú thay vua, thường nghỉ dưới gốc cây cam-đường xử kiện, dân có thơ khen rằng: "tế phế cam-đường, vật tiễn vật phạt, Thiệu Bá sở bạt" nghĩa là rườm-rà cây cam-đường (phải chăng cây bàng) chớ cắt chớ chặt, nơi Thiệu Bá nghỉ-ngơi. lai Kinh: lại kinh cũng như đăng kinh đã nói trên. hồ thỉ: Hồ thỉ do chữ: tang hồ bồng thỉ, cung bằng gỗ dâu, tên bằng cỏ bồng: ngày xưa nhà vua sinh con trai thì dùng hai thứ ấy treo ra cửa cung, nhân thế người ta mượn làm biểu-hiệu phái con trai chí ở bốn phương, như cung tên bắn tung khắp bốn phương trờ/B>: Kinh-đô nhà vua. Sân Đào, Đông-ly: sân Đào là sân nhà ông Đào Tiềm, một hưu quan đời Tấn. Đông-ly là dậu bên đông, nơi trồng cúc và các thứ hoa. Vương tên gọi Hỉ Đồng: Sau khi được nhà sư cứu sống, Mai-sinh mang tên Vương Hỉ Đồng, người đầy tớ có nghĩa đã chết thay Mai-sinh ở Nghi-trưng. Trần-phủ : dinh Trần-công, người ta quen gọi nhà các quan là "phủ". tham thuyền: thăm cảnh chùa. Sinh-ly : sống mà phải lìa nhau. mỗi người mỗi ngả, không được sum-họp. huyện-đình: sân cỏ huyện, trỏ người mẹ- xem chú thích trên.
tang-du: khi mặt trời sắp lặn, bóng nắng còn sót lại trên cành dâu, cành bưởi, người ta nhân đó mới mượn chữ tang-cành dâu, cành bưởi, người ta nhân đó mới mượn chữ tang-cành dâu, du-cành bưởi- ví với cảnh già, nên có chữ tang du mộ cảnh: cảnh về chiều của cây dâu cây bưởi. Sơn-đông: nơi Mai phu-nhân lánh nạn, tức là chỗ em bà làm quan. Nghi-trưng một nắm cát vùi: nói về mả Hỉ Đồng táng ở Nghi-trưng. Thành sầu cao ngất tầng tầng: đoạn này tả Mai sinh nhớ mẹ và thương đầy-tớ. hắc vận, trao tơ xích-thằng: Hắc vận: vận đen. Xích-thằng: dây đỏ, dây xe duyên của Nguyệt-lão trong truyện Vy-Cố. hoàn: tức liễu-hoàn: con đòi đầy-tớ gái. cung Quảng: tức Quảng-hàn-cung, cung trăng. đài Dương: tức Dương-đài, nơi Sở Tương-vương cùng thần nữ hội-ngộ. Chữ tư đề dưới chữ tương: tức là tương-tư. tiên-tân: tươi tốt, mát-mẻ.
hoa đình: đình hoa, vòm cao xây ở vườn hoa, làm nơi thờ hoa-thần. Mai-huynh: ông anh họ Mai, lời xưng-hô của anh em bạn. thưởng mai: ngắm cảnh hoa mai. bội thường: gấp đôi lúc thường, nghĩa là hơn lên. xuất-gia: đi tu, đi ở chùa.