Thế là chị tôi đi lấy chồng. Lấy chồng ở cái tuổi còn thơ, chưa biết tình yêu là gì. Chưa biết ngoài gia đình, cuộc đời xoay dần ra sao. Hơn 40 năm sau hỏi, chị bảo… Thì ai mà biết gì, bố mẹ bảo lấy, bắt lấy thì phải lấy, thế thôi… Tại sao lại thế? Tại sao lại có một tâm hồn, một con người đơn giản như thế? Chị vẫn cứ cười xem như chẳng có gì là quan trọng. Mà cũng phải thôi, các con chị đã lớn. Chị không còn trẻ. Không, 27 năm trước chị còn trẻ mà dường như không bao giờ chị nghĩ đến cả chuyện… làm lại bởi một lẽ đơn giản, chị không biết yêu, nên chị sống với các con và bây giờ là các cháu. Tưởng chị là người không may hoá ra chính chúng tôi mới là những đứa không may. Nhìn chị bây giờ, tôi tự hỏi… phải chăng ngoài cái không biết yêu, hình như chị cũng không bíêt đau khổ là gì. Ngày xưa, chị Yến chỉ có độ hai, ba người bạn cùng xóm, giờ chị có nhiều bạn, chị “ăn hụi” cùng nhóm bạn già nay đi Thái Lan, mai đi Hà Nội chơi Chùa Hương, vịnh Hạ Long. Chị có thể đi bất cứ nơi nào chị muốn không cần xin phép ai. Chị luôn vui cười như trẻ thơ không hề biết lo âu. Tôi về, chị đeo theo tôi quên cả con dâu vừa sanh, đến nỗi tôi phải nhắc để chị nhớ là chị vừa có thêm một đứa cháu nội. Chị theo tôi, có những hôm tôi ngồi cả ngày với ông TCS chẳng nói năn gì, mà có nói, chuyện chúng tôi chị đâu có hiểu nhưng chị vẫn đi theo không hề phàn nàn, kêu ca mệt mỏi. …Sau khi em đi rồi, chị đi bán chợ trời, cái gì bán được là bán. Lão ấy bỏ chị và mấy đứa con bơ vơ. Rồi mất nhà, mấy mẹ con lăn lóc, nay ngủ nhờ chỗ này, mai nhờ chỗ khác. Mẹ thì khó tính, ở không được lại xách con đi. Một hôm chị gặp một ông thầy – tôi quên không hỏi chị là Thầy nào, Công giáo hay Phật giáo – lan man kể lể tâm sự khổ sở của 6 mẹ con, bất ngờ ông Thầy nói… tưởng ai chứ chị là chị của cô Khánh Ly, ngày trước cô ấy thường hát giúp chúng tôi để gây quỹ nuôi các trẻ mồ côi tàn tật, thôi thì bây giờ tôi để lại cho chị mảnh đất và căn nhà này, chị trả góp cho tôi tới bao giờ hết thì thôi… Miếng đất khá rộng và căn nhà thì gần như đổ nát trị giá 10 cây vàng - dẫu có đổ nát cũng là cái nhà, có chỗ cho mấy mẹ con chui ra chui vào – và rồi với những gói quà 2 pounds tôi chắt chiu gởi về, lần hồi chị cũng trả được hết món nợ đó. So với căn nhà bị tịch thu của chị, dĩ nhiên là không bằng nhưng tôi lại thích bởi cái vẻ nghèo nghèo, nho nhỏ của nó… Em không dư tiền gởi về cho cả gia đình, chỉ có thể mỗi năm gởi một lần cho Yến mà thôi. Các cháu lớn hết, đã có gia đình công ăn việc làm, không giầu nhưng đủ sống và như thế nay, Yến sống sướng hơn tụi em nhiều lắm… Chị biết, chị nghe nói mấy em ở Mỹ làm việc cũng cực khổ lắm. Chị không thiếu gì vì các cháu. Tiền em gửi, chị để dành lúc về già hay bịnh hoạn… Bao nhiêu năm rồi, từ một thiếu nữ nay thành bà nội, bà ngoại, chị tôi vẫn hồn nhiên… không biết tiền là gì, nói gì đến tình yêu. Chị không tha thiết đến việc đi Mỹ… Chị chỉ muốn đi một lần cho biết rồi về chứ ở bên ấy làm gì… Yến ạ, em giờ chưa đủ điều kiện để cho Yến đi du lịch thăm thú nước Mỹ nhưng mấy chị em ở đây góp lại cũng chẳng khó khăn gì… Số chị lại không may. Hồ sơ nộp theo diện bảo lãnh mà bây giờ xin du lịch thì …hỏng rồi. Chờ một năm nữa mở hồ sơ bảo lãnh thì chắc chắn là chị sẽ được đi nhưng cái chính là chị tôi không muốn qua đây rồi … ở lại đây. Tôi cũng hiểu một người như chị dù có ăn học, dù ngày xưa này mặc áo lụa vàng lái “xế hộp” chạy phăng phăng trên xa lộ khiến có lúc nhà văn Nguyễn Đình Toàn… suýt đổ nhưng hơn 20 năm, dẫu trãi qua lắm hồi bỉ cực, đời sống chị ở quê nhà đã thành nếp, chị khó sống ở nơi khác, nơi không có những bạn bè cùng “ăn hụi” với chị, nơi chị mỗi tháng giúp đỡ cho 2 học sinh nghèo học giỏi. Tôi rất thương chị, dĩ nhiên vì chị là chị ruột của tôi, nhưng đồng thời, tôi nhận ra rằng đừng thương hại chị bởi chị, con người chị đơn giản quá, chị không biết khổ đau hoặc chị không để khổ đau gậm nhấm giết hại tâm hồn vốn luôn hồn nhiên của chị… Trong nhà thường chép miệng… tội nghiệp chị Yến, lúc có tiền chẳng được hưởng gì… Đúng, đối với chị, hờn giận, hối tiếc là những điều không tìm thấy ở con người chị. Đơn giản, hồn nhiên vô tư hơn cây cỏ. Đó là cái mà chúng tôi không có làm đôi khi tôi hơi ganh tỵ mỗi khi nghe tiếng chị cười giòn tan qua điện thoại hoặc mỗi khi con chị cho biết… Mẹ con đi Thái Lan, đi Hà Nội chơi rồi… Sao chị sướng thế nhỉ. Cái phần thưởng Trời Đất dành cho chị lúc cuối đời thật là đẹp đẽ, tốt lành. Bởi chị sống tốt lành. Chị cả đi lấy chồng thì cứ theo thứ tự từ trên xuống dưới. Con em kế tiếp những công việc chị thường làm là tôi. Nhà thì đông, chỉ có một u già theo bố mẹ từ Hà Nội vào Nam. Mẹ tôi giao hết công việc cho u già và chị Yến. Bà không hề làm một việc gì dù là xuống bếp lo nấu nướng cho bố tôi. Bà giao cho tôi 70 đồng đi chợ mỗi ngày. Trưa 4 món, chiều 4 món khác nhau. Trời đất ạ! tôi đã có đi chợ mua bán bao giờ. Cái làn đi chợ thiếu điều còn muốn to hơn tôi nữa và không bao giờ tôi quên được cái cảm giác lần đầu tiên bước chân vào chợ một mình. Tôi cứ loay hoay vẽ lại trong trí nhớ những món ăn mà chị Yến và u già đã nấu… Canh dưa chua thì phải mua những gì, cà bung rồi thịt đông cần gì. Canh bầu canh bí, rau muống luộc hay xào. Đậu nhồi thịt rán hay đậu rán om cà chua…. cái đầu nhỏ xíu của tôi phải làm việc dữ dội để tránh khỏi bị đòn nếu không làm đúng những điều mẹ tôi dặn. Lúc đó tôi học trường Cầu Kho. Trường cứ theo tuổi sắp lớp không hề khảo sát trình độ của học sinh, có lẽ họ nghĩ con nít không cần thiết, nên tôi vào ngay lớp nhì. Buổi sáng dậy sớm xách làn đi chợ, về giặt hai chậu quần áo, phơi phóng xong, ăn cơm rồi đi học buổi chiều. Nói là đi học chứ thực tình, tôi có học được cái gì. Lẽ đơn giản là tôi không có căn bản, tôi chẳng hiểu gì. Thầy giảng cứ giảng, tôi ngồi như vịt nghe sấm, chờ tới giờ về. Người anh thứ hai của tôi kế chị Yến, hơn tôi 2 tuổi, học trường Văn Lang. Anh Sơn cũng là người thông minh, thích nhạc, thích vẽ, mê nhảy đầm và nhiều bạn. Bạn của anh cũng tự nhiên trở thành bạn của tôi. Anh đưa về các anh nguyễn Đức Nam, anh Đinh Bù Loong (thân phụ của ca sĩ Diễm Liên), anh Nguyễn Ngọc Kiểm tức anh Ngọc Hoài Phương bây giờ. Trong tất cả các bạn của anh chỉ có anh Ngọc Hoài Phương là được bố mẹ tôi cho vào nhà, coi như con ruột. Còn những người khác, đang ngồi chơi, nghe tiếng xe của bố tôi là ù té chạy hết. Do đó, ngay từ nhỏ, tôi đã xem anh Ngọc Hoài Phương như anh ruột của mình. Anh gọi tôi bằng “chú” và tôi cũng gọi anh như vậy. Tôi trượt tiểu học, khỏi nói cũng có thể hiểu được sự thất vọng và giận dữ của bố mẹ tôi. Có học được gì đâu mà đậu. Thầy giáo cứ giảng, tôi cứ ngồi đó lẩm nhẩm thơ Nguyễn Bính, hát thầm trong bụng cho đến hết giờ. Ngày đi thi cũng thế, tôi nào có tha thiết gì đến chuyện học hành, thi cử, vì vậy sau cuộc thi tiểu học, tôi vẫn đi học nhưng không thi cử gì nữa hết. Tôi đi học là bởi muốn đi ra khỏi nhà để khỏi phải nghe những lời mắng nhiếc của mẹ, cái nhìn hầm hầm giận dữ của bố, tránh những ngọn roi, những cái tát, những chiếc giầy đập túi bụi trên đầu trên cổ tôi. Mẹ gởi tôi vào nội trú trường Thánh Mẫu cũng chỉ được chưa gần một năm đã bị trả về vì tội leo trường trốn đi chơi với một trong những người bạn của ông Ngọc Hoài Phương. Hoàng là người tôi thích và cũng là người viết cho tôi những lá thư tình đầu tiên. Bao nhiêu thư mở đầu bằng hàng chữ “Bé Mai”. Tôi giao cho ông anh Ngọc Hoài Phương cất giữ. Mẹ bắt tôi vào nội trú chỉ vì một lần bố tôi bắt gặp Hoàng và tôi đi bộ với nhau trên đường Võ Tánh. Ông nhảy xuống giáng cho tôi một bạt tai giữa cái nhìn kinh sợ của Hoàng và những người đi đường. Kết quả bao giờ cũng thê thảm với sự đốc thúc của mẹ tôi. Tôi không nghĩ là mẹ thích thú khi thấy con mìn bị đánh đập nhưng có lẽ bà khó chịu đựng được cái nết lì lợm của tôi. Mắng chửi, tôi cãi lại. Đánh đập, tôi không khóc. Bắt xin lỗi, tôi không mở miệng mà ý muốn của mẹ tôi gần như là ý Trời, không đứa nào trong nhà dám làm người lại lời bà phán, kể cả bố tôi. Mẹ không thấy được sự trưởng thành quá sớm của tôi từ cái chết của người Cha mà tôi rất mực tôn thờ. Bà không mường tượng ra được sự việc đó lại ảnh hưởng đến tôi nặng nề như vậy. Mẹ không đọc được những suy nghĩ trong đầu tôi, một đứa bé mồ côi cha luôn luôn mong ước được sự vuốt ve âu yếm của Mẹ, để bù lấp nỗi thiếu thốn lớn lao nó đã mất vĩnh viễn. Mẹ lại càng không đọc được trong tim tôi một nỗi hờn ghen uất nghẹn không thể nói thành lời. Tôi vẫn thương Mẹ, thương các em, một tình thương chân thật. Chị em chúng tôi sống từ đó cho đến bây giờ không hề có sự chia biệt nào. Tất cả đều sống cùng một mái nhà, có cùng một người mẹ. Song mẹ tôi dường như quên hẵn sự có mặt của tôi trong đám con đông đúc của bà. Suốt một đời tôi thèm khát vòng tay ôm ấp và những lời nói trìu mến của một người Mẹ. Tôi thèm tình thương, và phải chăng những bi thảm của đời tôi, bắt đầu từ sự thèm khát bình thường tội nghiệp này. Sau trường Thánh Mẫu, tôi đổi trường liên miên. Một năm trường Việt Tiến. Một năm trường Hưng Đạo. Một năm Nguyễn Bá Tòng. Tôi không phải đi bộ hay đi xe bus. Bà nội mua cho tôi một chiếc xe đạp mà tôi luôn luôn chạy giữa đường chứ không bao giờ đi vào lối dành cho xe đạp. Đùng một cái, chiếc xe bị mất. Nó bị ăn cắp chứ không phải tôi sơ ý. Mẹ tôi bảo…mày cứ chờ đấy, bố mày về rồi mày sẽ biết. Tôi quỳ giữa nhà, bố tôi cầm chiếc giầy của ông đập túi bụi vào tôi. Mẹ tôi ngồi nhìn tôi bị đánh, thản nhiên, thỉnh thoảng thêm vào … đánh nữa đi, đánh cho nó chết, cho nó chừa đi, mất xe thì mày đi bộ, không có tiền đâu mà mua xe khác cho mày… Bố tôi vừa đi làm về mặt đỏ bừng vì rượu, được lời của mẹ, ông túm lấy tóc tôi, xoắn lại, tay kia tiếp tục giơ cao chiếc giầy. Tôi đau quá nhưng lạ lùng làm sao, tôi không hề khóc. Tôi khóc không được vì nỗi oan ức và nghĩ xe của bà nội cho và nào tôi muốn làm nó mất. Trong trái tim non dại của tôi chợt vang lên…. Bố ơi! Bố ơi! Bố ở đâu… và tôi cảm thấy một nỗi căm phẫn chưa từng có bùng lên. Anh Sơn và các em tôi chẳng đứa nào dám nói một câu, chắc chúng không hiểu vì sao tôi bị đánh như thế. Chúng còn quá nhỏ và chưa hề bao giờ bị đòn. Tôi thường lẫn vào đâu đó để khóc một mình sau mỗi trận đòn. Càng bị đánh tôi càng lì đòn, không sợ nữa, không cảm thấy đau đớn nữa. Căm phẫn, tủi thân, tôi cứ làm những gì tôi thích trái ngược hẳn với ý muốn của mẹ. Anh Sơn và các bạn anh đi chơi, đi “Bal Famille”, tôi bu theo. Chẳng cần ai dạy, tôi nhảy rất giỏi, nhất là nhảy “be bop” nên thời đó bạn bè gọi tôi là “Mai bộp, Mai đen, Mai chân voi”. Tôi bất cần dù sau mỗi lần trốn nhà đi chơi là lại lãnh một trận đòn nhưng anh Sơn tôi thì không bị gì cả. Thời đó đi nhảy như một cách biểu diễn những bước nhảy mới chứ không hề có sự lợi dụng trai gái. Vả lại, mọi người đều xem tôi như một thằng con trai và tiếng nhạc trong những lần khiêu vũ đã làm thức dậy nổi đam mê ca hát tưởng đã chết trong những ngày tháng buồn bã. Lúc đó tôi chỉ mơ hồ cái cảm giác thích được hát thôi. Mẹ tôi bị đau nhức tay chân, ngày nào tôi cũng đấm chân cho bà và trong những lúc ấy, bà hay cho chạy những đĩa nhạc Tango. Tôi đấm chân cho mẹ giờ này qua giờ khác, ngày này qua ngày khác. Mẹ tôi không hết nhức mỏi nhưng điệu nhạc Tango đã chui vào đầu tôi, đến nỗi những lúc mỏi tay quá, tôi đấm cho bà theo nhịp điệu Tango. Anh Sơn biết tôi thích hát. Anh không ngăn cản mà hầu như tạo cơ hội cho tôi. Chính vì thế mới có những lần ở vũ trường Đồng Khánh, tôi dám leo lên sân khấu và từ ở đó, tôi nảy ra ý định tìm cho mình một cái tên. Tôi vốn mê đọc truyện từ nhỏ, nhất là Tam Quốc Chí và Đông Chu Liệt Quốc. Từ những chuyện đó, tôi tìm được 2 nhân vật Khánh Kỵ và Yêu Ly. Cái tên Khánh Ly có từ lúc đó….