Tất cả lặng đi. Anh em chiến sĩ đã lắng nghe cuộc trò chuyện bây giờ không còn đồng tình cổ vũ trò nghịch tếu của Nết-trai-ép nữa, họ ngừng ăn và cùng lúc tất cả đều quay lại phía Dôi-a. Hạ sĩ Nết-trai-ép rít điếu thuốc lá, với vẻ ngờ vực ghen tuông nhìn chằm chằm vào mặt Dôi-a đang ngồi cụp mắt xuống, hỏi: -Nếu không phải là chuyện bí mật thì chồng cô là ai nào? Có thể là chỉ huy trung đoàn chăng? Hay là như người ta đồn đại, cố thích trung úy Đrô-dơ-đốp-xki của chúng tôi? “Điều đó cố nhiên là không đúng rồi,-Cu-dơ-nét-xốp nghĩ, anh cũng không tin vào lời của cô.-Bây giờ cô ấy bày ra đủ chuyện. Cô ấy không có chồng. Và không thể có được”. -Thôi đủ rồi, Nết-trai-ép!-Cu-dơ-nét-xốp nói.-Đừng đưa ra những câu hỏi ngớ ngẩn nữa! Anh cứ như cái đĩa hát bị hỏng ấy. Anh không nhận thấy à? Và anh đứng dậy, rời khỏi chỗ Dôi-a, đưa mắt nhìn khắp toa, nhìn những cụm súng xếp chụm lại, khẩu súng máy Đ.P đặt ở dưới chân cụm súng trường; trông thấy trên phản còn một cặp lồng cháo nguyên vẹn, một khẩu phần bánh mì, mẩu đường trắng đặt trên mảnh báo, anh hỏi: -Thượng sĩ U-kha-nốp đâu? -Ở chỗ chuẩn úy, thưa đồng chí trung úy,-chiến sĩ Ca-xư-mốp, trẻ tuổi người Ca-dắc ngồi xếp chân bằng tròn ở phản trên, đáp.-Anh ấy bảo: cứ lấy cặp lồng và bánh mì cho anh ấy, rồi anh ấy sẽ về. Ca-xư-mốp mặc chiếc áo bông ngắn, quần bông, anh lặng lẽ nhảy từ trên phản xuống, xỏ bừa chân vào đôi ủng, đôi mắt ti hí bừng sáng lên: -Tôi đi tìm anh ấy nhe, đồng chí trung úy? -Không cần. Anh ăn sáng đi, Ca-xư-mốp ạ! Tri-bi-xốp thở dài rồi chả hiểu sao anh thốt lên bằng giọng du dương phấn chấn: -Cô em này, chồng cô tính tình có cáu bẳn không? Chắc là con người nghiêm túc lắm nhỉ? -Cám ơn lòng mến khách của trung đội một!-Dôi-a lắc lắc mái tóc và mỉm cười, hàng lông mày giãn ra, đội chiếc mũ mới bằng lông thỏ, sửa lại mớ tóc dưới mũ.-Hình như người ta cho đầu tàu đến rồi. Các anh có nghe thấy không? -Chỉ còn chặng đường cuối cùng này nữa là tới mặt trận và thế là-xin chào, này bọn Đức, chúng bay có khách đến thăm đấy!-Có người nói vọng từ phản trên xuống và cười vang gượng gạo. -Dôi-e-sca cô đừng bỏ chúng tôi mà đi, thật đấy! Nết-trai-ép nói.-Cô cứ ở lại trong toa chúng tôi. Cô lấy chồng làm gì? Nhất là lại đang lúc chiến tranh! -Có lẽ người ta đưa tới hai đầu tàu,-Người có giọng khàn khàn vì hút thuốc lại từ phản trên đưa tin.-Bây giờ ta sẽ đi rất nhanh. Đây là chặng dừng chân cuối cùng. Thế rồi-Xta-lin-grát. -Thế ngộ đây không phải là chặng cuối cùng? Có thể là ở đây chứ?… -Miễn sao nhanh nhanh lên!-Cu-dơ-nét-xốp nói. -Đầu tàu đâu nào! Các cậu điên à?-Trắc thủ Ep-xtích-nê-ép, một hạ sĩ đứng tuổi, rất tháo vát, nói to sau khi uống nước chè trong ca và anh nhảy bổ ra nhìn ra cửa toa xe. -Gì ở ngoài thế ấy hả, Ep-xtích-nê-ép?-Cu-dơ-nét-xốp hỏi to.-Có lệnh à? -Và khi xoay người lại anh trông thấy mái đầu to bù xù của viên hạ sĩ, những đôi mắt lo lắng ngước nhìn lên trời nhưng không nghe tiếng trả lời. Súng phòng không từ hai đầu đoàn xe lửa bắn lên. -Anh em ơi, hình như đã đến lúc rồi!-Một người kêu lên, nhảy từ phản xuống.-Chúng nó đã bay đến! -Đầu tàu của cậu đấy! Có cả bom nữa… Giữa tiếng súng phòng không dồn dập, tiếng ầm ĩ khe khẽ, ngày càng nhích gần, xói vào tai, tiếp đó tiếng rít của từng cặp súng máy toang bầu không khí trên đoàn tàu-và có mấy tiếng kêu báo hiệu từ thảo nguyên vọng vào trong toa: “Báo động phòng không! Máy bay Mét-xéc-smit! “Trắc thủ Ep-xtích-nê-ép vứt chiếc ca lên phản, lao tới cụm súng, xô Dôi-a ra cửa trong khi các chiến sĩ ở xung quanh nháo nhác nhảy từ phản xuống, vớ lấy súng ở các cụm súng. Trong nháy mắt, một ý nghĩ lóe lên trong đầu Cu-dơ-nét-xốp: “Miễn là bình tĩnh. Mình sẽ ra sau cùng!” Và anh ra lệnh: -Tất cả ra khỏi toa. Hai khẩu súng phòng không của đoàn tàu bắn ầm ầm gần đến mức những tiếng nổ dồn dập của chúng xoáy vào tai. Tiếng rú ngày càng to của động cơ máy bay và những loạt đạn của chúng vãi đều đều ở trên đầu, trên nóc toa xe. Khi lao tới cửa toa mở toang, Cu-dơ-nét-xốp trông thấy anh em chiến sĩ xách súng trường nhảy xuống tuyết chạy tản ra trên thảo nguyên trắng toát loáng ánh mặt trời. Cảm thấy hơi ớn lạnh ở bụng, chính anh cũng nhảy ra khỏi toa xe, vọt lên mấy bước tới một mô tuyết lớn, sườn màu xanh, đang chạy anh nằm sấp xuống một cạnh một ai đó, cảm thấy tiếng rít của không khí xuyên nhói vào gáy mình. Tuy phải chật vật mới khắc phục nổi sức nặng khốn khiếp đè lên gáy, anh vẫn cứ ngẩng đầu lên. Trên bầu trời mùa đông mênh mông trong xanh lạnh lẽo, ba chiếc “Mét-xéc-smit” lao xuống phía đoàn tàu, phơi tấm thân bằng đuya-ra óng ánh và những nắp buồng lái bằng chất plê-xi-gla sáng dưới nắng. Những làn đạn phòng không sáng trắng dưới ánh mặt trời liên tục nã lên máy bay từ phía cuối và giữa đoàn tàu rồi rơi lả tả như những cái chấm, còn thân những chiếc máy bay tiêm kích vươn dài như những cái trục ngày càng lao nghiêng, dựng đứng, vừa lao xuống chúng vừa nã súng máy xối xả và đại bác bắn nhanh. Đạn vẽ thành đường cầu vồng dày đặc lơ lửng ở bên trên và bên cạnh các toa xe, nơi mọi nguời vẫn chạy xa ra. Chiếc máy bay đầu tiên lấy lại thăng bằng ngay phía trên nóc các toa xe và bay lướt dọc đoàn tàu, hai chiếc kia bay theo nó. Ở đằng trước, phía đầu tàu tiếng bom nổ rung chuyển không trung, làm bắn tung những cuộn tuyết, những chiếc máy bay đột ngột lên cao, quay ngoắt về phía mặt trời, xuống thấp rồi lại lao về phía đoàn tàu. “Chúng nhìn rõ tất cả bọn mình,-Cu-dơ-nét-xốp chợt nghĩ,-Cần phải làm cái gì chứ!” -Bắn!… Bắn máy bay bằng súng trường!-Anh quỳ trên đầu gối, ra lệnh và trông ngay thấy ở phía bên kia mô tuyết mái đầu Dôi-a ngẩng lên, lông mày cô nhíu lại ngạc nhiên, cặp mắt mở to trừng trừng. Anh thét gọi cô:-Dôi-a, chạy vào thảo nguyên đi! Cô hãy bỏ xa các toa xe!… Nhưng cô im lặng cắn môi, nhìn đoàn tàu, nơi đang xảy ra chuyện gì đó và anh cũng nhìn về phía ấy. Trung úy Đrô-dơ-đốp-xki chạy vọt qua các đống tuyết ở sát ngay toa xe, chiếc áo choàng hẹp bó khít lấy người anh và anh kêu thét gì đó không rõ. Đrô-dơ-đốp-xki nhảy vọt qua cửa mở rộng vào toa xe của mình và ôm khẩu súng máy với băng đạn nhảy ra. Sau đó anh chạy khỏi đoàn tàu, nằm trên tuyết cách Cu-dơ-nét-xốp khoảng chục mét, hết sức hối hả cắm càng khẩu Đ.P lên đỉnh mô tuyết. Và sau khi lắp băng đạn vào ổ súng, anh nã một băng dài vào những chiếc máy bay tiêm kích đang từ trời xanh lao xuống, làm chấn động không gian bằng những tiếng nổ loạn xạ. Loạt đạn bắn thẳng nhằm vào mặt đất ào tới gần, xới tung tuyết lên. Tiếng đạ nổ lộng óc, tiếng động cơ máy bay chói tai dội vào đầu Cu-dơ-nét-xốp, ánh ngũ sắc làm chói mắt anh một cách kỳ lạ như trong kính vạn hoa. Bụi băng do các loạt súng máy xới tung lên từ đụn tuyết đập vào mặt anh. Những vỏ đạn cỡ to tung ra, bật xuống tuyết trong cảnh náo động mịt mù bao phủ các đụn tuyết trong chốc lát. Những điều kỳ lạ hơn cả là Cu-dơ-nét-xốp đã kịp nhìn thấy đầu tên giặc lái đội mũ trong như quả trứng ngồi trong khoang lái bọc chất plê-xi-gla của chiếc máy bay Mét-xéc-smit. Sau khi lao xuống rú động cơ ầm ầm, những chiếc máy bay lại ngóc lên cách mặt đất ít mét, lấy thăng bằng rồi lại nhanh chóng vươn cao trên thảo nguyên. -Vô-lô-đi-a!… Đứng đứng dậy! Đợi đấy!…-Anh nghe thấy tiếng thét không xa mình và lập tức trông thấy Đrô-dơ-đốp-xki vứt băng đạn rỗng, toan đứng lên còn Dôi-a thì ôm chặt, áp ngực vào anh ta, không buông anh ta ra.-Vô-lô-đia! Em xin anh!… -Cô không thấy băng đạn đã hết à!-Đrô-dơ-đốp-xki thét lên, nghiêng mặt, đẩy Dôi-a, bứt cô ra khỏi mình.-Đừng cản trở tôi! Đừng cản trở tôi, bảo mà! Anh gỡ tay cô ra, chạy về phía toa xe còn cô bối rối nằm trên tuyết, vừa lúc ấy Cu-dơ-nét-xốp bò sát tới chỗ cô. -Gì thế? Súng máy làm sao? Cô ngước mắt nhìn và vẻ mặt của cô lập tức thay đổi, trở nên khiêu khích, khó chịu: -A, trung úy Cu-dơ-nét-xốp đấy à? Tại sao anh không bắn máy bay? Anh nhát gan à? Một mình Đrô-dơ-đốp-xki bắn thôi à?… -Bắn bằng cái gì? Bằng súng ngắn ư?… Cô cho là như thế hả? Cô không trả lời anh. Những chiếc máy bay tiêm kích lại lao xuống phía trước đoàn tàu, lượn tròn phía trên đầu máy và hai toa đã bốc cháy ở phía đó. Những lưỡi lửa phụt ra từ các cửa toa mở toang lan đến nóc tàu. Và đám khói đó, những nóc tàu bén lửa, đám máy bay Mét-xéc-smit cứ dai dẳng lao xuống, tất cả những cái đó đã gây cho Cu-dơ-nét-xốp cảm giác bất lực nhoi nhói phát lợm và bỗng nhiên anh tưởng như ba chiếc máy bay kia sẽ không bay đi chừng nào chúng chưa phá hủy tan tành, chưa đốt cháy hết cả đoàn tàu. “Không, lúc này chúng hết đạn rồi,-Cu-dơ-nét-xốp cố làm cho mình yên tâm.-Bây giờ mọi việc sẽ kết thúc…”. Nhưng những chiếc máy bay tiêm kích đã lượn vòng và lại bay là là sát đất dọc đoàn tàu. -Cứu thư-ơng! Y-ta-á!-Có tiếng kêu to từ phía những con tàu đang cháy và mấy bóng người tất tả, rối rít ở phía trước, kéo theo một người nào đó trên tuyết. -Người ta gọi tôi.-Dôi-a nói và bật dậy, đưa mắt nhìn các khuôn cửa toa xe mở rộng, khẩu súng máy cắm trên đụn tuyết.-Anh ấy đâu rồi hả anh Cu-dơ-nét-xốp? Tôi đi đây. Anh bảo anh ấy là tôi ở đằng kia nhé… Anh không có quyền chặn cô lại còn cô vừa giữ túi cứu thương vừa bước nhanh, sau đó cô chạy trên thảo nguyên về phía đám cháy, mất hút sau các đụn tuyết. -Cu-dơ-nét-xốp!… Cậu đấy à? Trung úy Đrô-dơ-đốp-xki vọt tiến từ các toa xe ra, nằm khuỵu xuống cạnh khẩu súng máy, lắp băng đạn mới vào ổ. Khuôn mặt mảnh mai, nhợt nhạt của anh đanh lại một cách dữ tợn. -Chúng đang giở trò gì đây, quân súc sinh! Dôi-a đâu? -Ở phía trước có người bị thương,-Cu-dơ-nét-xốp đáp, ấn mạnh càng súng máy xuống lớp tuyết cứng.-Chúng nó lại mò đến… -Quân khốn kiếp… Tôi hỏi cậu, Dôi-a đâu?-Đrô-dơ-đốp-xki thét lên, tì vai vào khẩu súng máy và khi đám máy bay Mét-xéc-smit chiếc nọ nối tiếp chiếc kia lao vun vút xuống thảo nguyên, mắt anh thu hẹp lại, đôi con ngươi như những chấm đen lạnh giá giữa màu xanh trong suốt. Khẩu súng phòng không ở cuối đoàn tàu đã im bặt. Đrô-dơ-đốp-xki nã một tràng dài vào khối kim loại vươn dài của chiếc máy bay tiêm kích đi đầu lóe sáng trên đầu anh và không rời ngón tay khỏi cò súng cho tới lúc thân chiếc máy bay cuối cùng thấp thoáng như một lưỡi dao cạo chói lóa. -Trúng rồi!-Đrô-dơ-đốp-xki thét lên, giọng nghẹn lại.-Cậu có trông thấy không, Cu-dơ-nét-xốp? Mình bắn trúng rồi!… Mình không thể nào không bắn trúng được!… Còn những chiếc máy bay tiêm kích đã lại bay sát mặt đất chừng hai chục mét, xé rách không trung bằng những loạt đạn súng máy cỡ lớn và đường đạn tựa hồ như những ngọn giáo thọc mũi nhọn vào những thân người rải rác trên mặt tuyết, vần vò họ trên những dải tuyết hẹp. Mấy chiến sĩ của các khẩu đội bên cạnh không chịu được súng bắn từ trên không xuống, nhảy bổ lên, chạy nháo nhào phía dưới những máy bay tiêm kích, lao đi khắp các phía. Sau đó một người ngã xuống, gượng bò đi rồi gục xuống, tay duỗi về phía trước. Một người khác chạy ngoắt ngoéo theo hình chữ chi, đưa mắt man rợ nhìn khi thì sang trái khi thì sang phải và những làn đạn của chiếc máy bay đang lao xuống đã bắn chéo vào người anh, xuyên suốt người anh từ trên đầu xuống như một sợi dây thép nung đỏ; người lính nằm dài trên tuyết, tay huơ lên như hình chữ thập và cũng chết; chiếc áo bông bốc cháy trên mình anh. -Thật là vớ vấn! Vớ vẩn! Đúng ngay trước mặt trận!…-Đrô-dơ-đốp-xki gào lên rứt băng đạn thứ hai đã rỗng ra khỏi ổ súng. Cu-dơ-nét-xốp quỳ lên, ra lệnh cho các chiến sĩ đang bò ở phía sau những đụn tuyết: -Không được chạy! Không ai được chạy, nằm xuống!… Và lập tức anh nghe rõ mệnh lệnh của mình, giọng nói của mình sang sảng vang lên trong sự yên tĩnh khó hiểu. Súng máy không nhả đạn ầm ầm nữa. Tiếng máy bay gào rú khi lao xuống không đè nặng lên đầu nữa. Anh hiểu ra rằng tất cả đã kết thúc. Đám máy bay tiêm kích xuyên vào bầu trời trong xanh lạnh giá, bay về phía Tây Nam, tiếng rít nhỏ dần, những người lính còn chưa tin chắc lắm vươn mình dậy từ sau các đụn tuyết, rũ tuyết khỏi áo choàng, nhìn những toa xe bốc cháy ở phía trước, thong thả đi về phía đoàn tàu, lau chùi những đám tuyết bám vào vũ khí. Hạ sĩ Nết-trai-ép thắt chiếc thắt lưng hải quân trễ xuống, đập đập chiếc mũ lông vào đầu gối để rũ tuyết (mái tóc đen nhánh của anh cũng đầy tuyết) cất tiếng cười gượng gạo, lé cặp mắt vần đỏ nhìn trung úy Đa-vla-chi-an, trung đội trưởng trung đội hai, một anh chàng xương xẩu, gầy gò, có cặp mắt to. Đa-vla-chi-an bối rối mỉm cười nhưng cặp lông mày bị tuyết bám đầy của anh như muốn chau lại một cách vụng về. -Cứ như thể đồng chí ôm hôn tuyết ấy, trung úy nhỉ?-Nết-trai-ép nói bằng giọng phấn khởi không tự nhiên.-Cánh ta vùi mình vào tuyết như vận động viên bơi lội Nhật Bản ấy. Chúng nó đem lửa cho anh em mình hút thuốc đấy! Chúng nó đã cạo râu cho cánh mình các cậu ạ. Anh em mình lấy mõm đào tuyết!-Và khi trông thấy trung úy Đrô-dơ-đốp-xki đứng ở gần đụn tuyết, anh nói thêm như thể bào chữa gì đó trước mặt trung úy:-Mọi người đã bò, hề hề! -Tại sao a-nh lại… cười hô hố như thế hả Nết-trai-ép? Tôi không hiểu được,-Đa-vla-chi-an thốt lên, gần như líu lưỡi.-Anh làm sao thế hả? -Thế đồng chí không thể nào chia tay với cuộc sống được sao, đồng chí trung úy?-Nết-trai-ép lại cười hềnh hệch.-Đồng chí tưởng kết thúc rồi à? Trung đội trưởng trung đội chỉ huy, chuẩn úy Gô-lô-va-nốp vóc người đồ sộ, một anh chàng có vẻ mặt khó gần, đeo khẩu tiểu liên, trên bộ ngực nở nang,đi bên cạnh Nết-trai-ép chỉnh Nết-trai-ép bằng giọng hơi rầu rĩ: -Cậu ăn nói nhảm nhí lắm, chú lính thủy ạ. Sau đó Cu-dơ-nét-xốp trông thấy Tri-bi-xốp đang đi cà nhót cà nhắc một cách sợ sệt và bơ phờ giữa các đụn tuyết, cạnh bác là Ca-xư-mốp vẻ như có lỗi, dùng tay áo choàng lau gò má đẫm mồ hôi, khuôn mặt kín đáo dường như bị sự hổ thẹn giày vò của trắc thủ đứng tuổi Ep-xtích-nê-ép, con người tưởng như đã lăn mình trong tuyết khá lâu. Và Cu-dơ-nét-xốp cảm thấy trong lòng mình dâng lên một cái gì ngột ngạt, đắng cay, giống như sự tức giận đối với chính bản thân mình vì những phút giây bất lực bẽ bàng của mọi người, vì vừa nãy họ đã buộc phải phơi bày trước mặt nhau nỗi khiếp sợ đáng kinh tởm trước cái chết.