Buổi chiều hôm đó, tôi rời nhà nghỉ của huyện để đi dạo. Sau ít ngày làm việc, tôi mệt mỏi, rất mệt mỏi. Phố huyện đìu hiu, quả đúng như vậy. Mùa xuân tuy làm cây cối xanh tươi hơn, nhưng không gì làm tan được vẻ u uất của bầu trời mờ đục. Thỉnh thoảng những con chó chạy vụt qua đường, thậm chí có cả gà lấp ló. Tôi thả bộ chậm rãi, thưởng thức vẻ nửa quê nửa tỉnh của phố huyện, lòng nhủ thầm mấy khi có dịp đến thăm nơi này. Vậy chẳng nên hờ hững với cảnh vật làm gì. Cho nên tôi đi hết mọi hang cùng ngõ hẻm. Thực ra cũng chẳng mất bao nhiêu thì giờ. Sau đó tôi theo trục đường chính ra mãi ngoại vi. Mồ hôi thấm ướt áo sơ mi. Tôi vắt áo vét lên vai, đàng hoàng bước. Những người nông dân đi trên đường nhìn tôi lạ lẫm. Hẳn là họ cho tôi có cái gì tây quá. Bỗng nhiên, nổi bật giữa khung cảnh đơn điệu, tôi thấy bên kênh nước ven đường thấp thoáng một nếp nhà nhỏ ẩn sau rặng liễu xanh dày. Mặt tiền ngôi nhà kê tủ kính dài, trong đó bày nhiều thứ đầy mầu sắc vui tươi. Hơn nữa, còn có nhiều bàn ghế kê dưới tán liễu. Tôi rẽ vào quán đó, thử xem đồ giải khát của nó như thế nào. Quả thật khá. Thậm chí tôi cho là món cà phê đen Hà Nội cũng chỉ pha được đến thế. Khách vào quán khá đông. Họ đều có vẻ lam lũ, trừ một hai người gì đó khá giả hơn, đi xe máy đến. Họ đều gọi rất nhiều. Chủ quán là một bà to béo, ăn mặc chải chuốt, cổ đeo chuỗi hạt màu xanh khá to, tay trái đeo hai chiếc nhẫn vàng lớn. Bà phục vụ thành thạo, lại còn luôn miệng hỏi khách cần gì nữa không. Còn có một người phụ nữ trẻ và một nam giới khá lớn tuổi nữa phụ bán, nhưng họ không làm nhiều việc như bà. Khi uống được hai tách cà phê thì trời gần tối. Tôi thong thả ra về. Giữa đường, tôi sực phát hiện ra điều lạ rằng bà chủ quán này, có vẻ sang trọng thế, lại là người chủ yếu trực tiếp phục vụ khách, mà lại tỏ ra sung sướng khi phải chạy bàn toát mồ hôi ra. Điều này rõ ràng ngược đời. Bị trí tò mò khiêu khích, tối đó tôi đến quán lần nữa. ánh đèn rực rỡ dưới ngọn liễu được trông thấy từ xa, đầy quyến rũ. Nhưng khi đến gần, tôi nhận thấy quán hoàn toàn không có khách. Chỉ có cặp thanh niên ban chiều đang bần thần ngó ra bên ngoài tối đen. Cho là mình đến sớm, tôi chọn bộ bàn ghế trông ra mặt đường, gọi một tách nâu, một bao ba số. Sau đó vắt chân chữ ngũ, ngắm cảnh, chờ. Càng ngồi lâu, tôi càng thấm thía cái lạnh lẽo của đồng quê về đêm. Xa xa là màn đêm dày đặc, lặng câm, bí mật. Đây đó rải rác ánh đèn. Tiếng chó khắc khoải sủa vào đêm như báo điềm dữ. Tôi chạnh buồn. Lúc đó đãtám giờ rưỡi tối. Vẫn không một vị khách nào đến. Ngạc nhiên, tôi ngoái cổ vào trong quán, hỏi: - Bà chủ quán đâu? Hai thanh niên nhìn nhau. Người đàn ông lên tiếng: - Bà ấy không đến. - Sao vậy? Bà ấy ốm, hay bận à? - Có lẽ thế. - Thế còn khách? Vì sao chẳng ai đến cả? - Có lẽ hôm nay họ đều bận. - Thật kỳ cục. Tôi gọi thêm tách nâu nữa. ý tôi muốn xem cái quán này về đêm nó như thế nào, từ đó suy ra cách sống của dân huyện. Vì theo tôi, đây là quán có địa thế đẹp, xây đẹp, nội thất tốt. - Chắc chắn người ta phải nghĩ đến nó một khi muốn giải trí. Nhưng quá chín giờ đêm vẫn không một người khách tới. Tôi nghi ngờ: hay đây là quán ăn sương, mà từ nửa đêm về sáng mới là giờ sinh hoạt của nó. Nghĩ đến đó, thiện cảm về vẻ đẹp thơ mộng của quán nhỏ trong rặng liễu bỗng biến mất. Người phụ nữ, trạc hăm nhăm gì đó đến bên tôi, rụt rè nói: - Thưa anh... - Gì em? - Sắp đến giờ quán đóng cửa. - Quán này đóng cửa lúc mấy giờ? - Chín rưỡi đêm. Tôi uể oải trả tiền, đi về. Dọc đường, sự vắng vẻ, hơi tanh phả lên từ mặt đất khiến tôi nghĩ đến chuyện xấu. Tôi nhận ra mình to gan quá, dám một mình đi chơi đêm ở chốn xa lạ. Về tới nhà nghỉ, ông thường trực vẫn còn thức đợi tôi. Ông vồn vãchào khi tôi đi qua. Mái tóc dày bạc cắt sát da đầu của ông lấp lánh dưới ánh đèn như vật gì bằng kim loại nặng trĩu đè lên thân hình mảnh khảnh thiếu ăn. - Anh đi đâu về khuya thế? - Cháu đi dạo. - Chết tôi, đi dạo giữa đêm thế này ư? Anh không sợ à? - Dạ, lúc về có sợ. Ông già chỉ tay lên mấy ngọn đồi lớn xa xa: - Nơi kia kìa, người ta bảo nhiều lưu manh lắm đấy. Nhiều khách lạ bị hại bởi chúng rồi. Tôi giật mình. Tôi tin cậy ông già. Nhớ lại chuyện vừa xảy ra trong ngày, tôi bèn vào phòng thường trực, mời ông hút thuốc, rồi nhân lúc câu chuyện đến đà sôi nổi thân mật, tôi hỏi thăm về quán dưới rặng liễu. Ông già kêu lên: - Chết tôi, anh đến Tôi là người quen đi rừng so với đồng bào đồng bằng, nhưng lần này con đường quả là khó đi, lên xuống bất thường. Nhiều lúc tôi phải thả mình trượt trên mặt dốc nhấp nhô đá tảng và những đoạn cây, cành bị chặt đứt lìa, hoặc phải ôm từng gốc cây, túm từng búi cỏ mà ngược dốc. Sao lại dài quá thế! Tôi hoa mắt, dúi xuống, lăn long lóc theo một sườn núi, vấp đau điếng. Tôi ngất đi trong khoảnh khắc. Khi ánh sáng mờ mờ hiện ra trước mắt tôi, điều đầu tiên tôi trông thấy qua mi mắt còn khép hờ là hình ảnh Moan cởi áo quần ngoài vắt lên cành cây, sau đó, hai tay cầm chắc con dao dài nặng trong tay, nhanh như chớp tiến đến tôi. Tôi mở to mắt, nhìn trừng trừng vào Moan. Moan cười lớn, làm thân hình dẻo dai của hắn rung lên bần bật, bộ mặt ngựa xanh tái của hắn méo xệch đi trong sự khoái trá đắc thắng: - Làm gì có trống đồng. Những thằng tham lam như mày phải chết là đáng rồi con ạ. Con không biết món hời là quà của quỷ sứ hay sao. Y cười nữa. Đoạn, y nghiêm mặt lại: - Thôi, tao giải thích cho mày nhiều rồi đấy, thằng Hà Nội ngu ngốc ạ. Về suối vàng đừng trách ai nhé, có trách thì trách chỗ vàng của mày ấy. Y từ tốn giơ dao lên, như chuẩn bị chặt nhỏ một con gà luộc. Tôi trở mình vội vàng, rút khẩu súng ngắn đạn lên nòng sẵn, mở chốt an toàn, nhắm thẳng vào Moan. Bây giờ, tôi hưởng thú của người đi săn. Tôi cười khoái chí: - Mày tưởng tao đần hay sao. Những thằng như tao không phải dễ chết đâu. Vứt dao đi, đưa tao đến chỗ có trống. Moan mềm nhũn người dưới đất. Hắn thều thào: - Không có trống nào đâu. Tôi bịa đấy. - Vậy dẫn tao về. - Vâng. Xin đừng bắn. Hắn lủi thủi đứng dậy, mặc quần áo, cung cúc dẫn tôi ngược về. Hai bên không ai nói lời nào. Tôi lấy dây trói hai tay hắn ra sau, đề phòng. Tôi mệt lắm. Mắt tôi hoa lên. Đáng lẽ tôi phải nghỉ, nhưng tôi muốn thoát ra cửa rừng sớm. Trưa đã qua từ lâu rồi. Tôi đã vứt cho Moan một ổ bánh mì, tôi cũng ăn rồi, nhưng giờ chớm đói. Song đói khát không phải nỗi lo lớn. Cái đáng sợ nhất là tôi cảm thấy hắn đãdẫn tôi đi vòng vèo. Theo trí nhớ của tôi, phải qua chỗ cây cổ thụ nhiều chạc từ lâu rồi, vậy mà tôi vẫn chưa hề nhìn thấy nó. Tôi quát: - Dẫn đường cho đúng. Nếu sai, tao bắn vỡ sọ mày. Moan van vỉ: - Ông giết con thì ông làm sao ra khỏi rừng này ạ? Con đang dẫn ông đi đúng đường để về đấy chứ. - Sao tao thấy khác? - Ông mệt nên lẫn đấy thôi. Tôi chịu. Đúng là chẳng làm gì hắn được. Hắn mà tiêu thì tôi còn lâu mới thoát. Tôi để hắn đi trước. Khẩu súng, tôi cầm đã mỏi tay quá, nên giắt vào thắt lưng. Chúng tôi đi đã lâu quá. Thình lình, Moan ngồi thụp xuống. Tôi cảnh giác cầm súng trong tay. Moan van vỉ: - Đau bụng quá ông ơi. Hắn lăn lộn trên mặt đất. Hắn xin rẽ vào bụi rậm. Tôi không cho. Hắn nói: - Tự nhiên trước mặt ông, con xấu hổ lắm. Tôi nói: - Không được. Mày không thể khuất mắt tao được. - Ông ơi. Hắn nhảy lò cò: - Con xin ông, ông chả cho, bây giờ mới thế này. Mùi xú uế lan khắp góc rừng. Moan cuống cuồng trật quần ra. Tôi bất giác quay mặt đi vì cảnh tượng kinh tởm đột ngột bày ra trước mắt. Khi tôi cảnh giác quay lại nhìn Moan thì hắn đã biến mất từ bao giờ. Tôi kinh hoàng. Tôi hiểu, thế là số phận tôi giờ đây nằm trong tay kẻ mặt người dạ thú ấy. Hắn đã thoát, hắn có thể giết tôi, nhất định giết tôi. Hắn đang luẩn quất đâu đây. Tôi sợ đến nỗi mỗi bước tôi đi, tôi có cảm giác đang đến gặp cái chết. Rừng giơ vô vàn cánh tay của nó ngăn cản tôi. Tôi sực nhớ những phim ma cây đã xem. Bây giờ, tôi sống mà như sắp chết. Nỗi kinh hoàng càng lên cao khi màn đêm buông xuống. Rừng núi tối đen mênh mông. Tôi thấy hơi thở của thần chết luồn sâu vào tận tim phổi của tôi. Tôi lập cập ngồi trên một chạc cây đợi sáng, đói và khát. Lúc nào cũng có cảm giác một bàn tay ma quái chộp vào người, bóp vụn tôi. Tôi ngồi như xác chết thần giữ của với khẩu súng ngắn giá lạnh chĩa vu vơ vào đêm hoang dã vô cùng tận. 10/6/1999