QUẺ TIỆM

Tốn trên
Cấn dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Tiệm, Tự quái nói rằng: Các vật không thể đậu mãi, cho nên tiếp đến quẻ Tiệm(85). Tiệm là tiến lên, đậu ắt có tiến, đó là lẽ co duỗi, tiêu sinh(2). Cái của sự đậu sinh ra, cũng là sự tiến; cái phản lại với sự đậu, cũng là sự tiến, vì vậy quẻ Tiệm mới nôi quẻ cấn. Tiến bằng thứ tự là dần dần, ngày nay người ta bảo tiến thong thả là tiến dần dần, vì không vượt qua thứ tự mới thong thả. Nó là quẻ trên Tôn dưới cấn, trên núi có cây, cây cao nhân núi, sự cao của nó có chỗ nhân theo. Sự cao của nó có nhân theo, tức là sự tiến của nó có thứ tự. Vì vậy mới là quẻ Tiệm.
______________________
Chú thích:
(85) Chữ 豐(phong) có nghĩa là thịnh, là giàu, là lớn lao.
LỜI KINH
漸, 女歸, 吉, 利貞.
Dịch âm. - Tiệm, nữ quy, cát, lợi trinh.
Dịch nghĩa. - Quẻ Tiệm, con gái về, tốt, lợi về chính bền.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Đây lấy tài quẻ gồm nghĩa chữ “tiệm” mà nói. Kiền Khôn biến đi là Tốn cấn, Tốn cấn chồng lại là quẻ Tiệm. Nói về thể quẻ Tiệm, thì hai hào giữa giao nhau, bởi sự giao nhau của hai hào ấy mà sau con trai con gái đều được chính ngôi; hai hào đầu và chót tuy không đáng ngôi, nhưng cũng Dương trên
Âm dưới, tôn ty chính đáng, con trai con gái bên nào được chính đạo của bên ấy, như thế cũng là được ngôi, rõ ràng đối nhau với quẻ Quy Muội. Con gái về nhà chồng, có thể chính đính như thế thì tốt.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Tiệm là tiến lên dần dần. Nó là quẻ đậu ở dưới mà nhún ở trên, tức là nghĩa không tiến gấp vội, có tượng con gái về nhà chồng. Lại, từ hào Hai đến hào Năm, ngôi đều được chính, cho nên lời chiêm của nó là con gái về nhà chồng thì tốt, và lại răn rằng: lợi về chính bền.
LỜI KINH
彖曰: 漸之進也, 女歸吉也.
Dịch âm. - Thoán viết: Tiệm chi tiến dã, nữ quy cát dã.
Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: Tiệm là tiến vậy, con gái về nhà chồng tốt.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Theo nghĩa quẻ Tiệm mà tiến, tức là sự tốt của con gái về nhà chồng, nghĩa là chính đáng mà đi dần dần vậy. Con gái về nhà chồng là chỉ nói về việc lớn hơn đó thôi, các sự tiến khác cũng thế cả.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Chữ 之(chi) ngờ thừa, hoặc là chữ 漸 (tiệm).
LỜI KINH
進得位, 往有功也.
Dịch âm. - Tiến đắc vị, vãng hữu công dã.
Dịch nghĩa. - Tiến được ngôi, đi có công vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Trong thì dần tiến mà Âm Dương đều được ngôi, tức là tiến mà có công.
進屺正, 可以正邦也.
Dịch âm. - Tiến dĩ chính, khả dĩ chính bang dã.
Dịch nghĩa. - Tiến bằng cách chính đáng, có thể chính nước vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Lấy đạo chính đáng mà tiến lên, có thể làm cho chính đính nước nhà đến cả thiên hạ. Phàm tiến về việc, tiến về đức, tiến về ngôi, cái gì cũng dùng cách chính đáng.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây lấy sự biến đổi của quẻ mà thích hai chữ “lợi trinh”. Bởi vì quẻ này, một phần do quẻ Hoán lại, thì hào Chín tiến lên ngôi Ba, một phần do quẻ Lữ lại, thì hào Chín tiến lên ngôi Năm, đều là được ngôi chính đáng.
LỜI KINH
其位, 剛得中也.
Dịch âm. - Kỳ vị, cương đắc trung cỉã. Dịch nghĩa. - Thửa ngôi, cứng được giữa vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Chữ “ngôi” chất Dương cứng trung chính được ngôi Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây lấyhào Chín Năm.
này chỉ về hào Năm lấy tôn.
thể quẻ mà nói và chỉ về
(1) Tức là xét án.
(2) Tức là ghép vào tội.
止而巽, 動不窮也.
Dịch âm. - Chỉ nhi tốn, động bất cùng dã.
Dịch nghĩa. - Đậu mà nhún, động chẳng cũng vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Trong ngừng đậu ngoài nhún thuận, đậu là tượng yên tĩnh, nhún là nghĩa hoà thuận. Người ta tiến lên, nếu theo sự động của lòng dục, thì sẽ nóng nảy mà không thể dần dần, cho nên có sự khôn cùng, ở nghĩa quẻ Tiệm, trong đậu im mà ngoài nhún thuận, cho nên sự tiến động của nó không bị khốn cùng.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây lấy đức quẻ nói về nghĩa dần tiến.
LỜI KINH
象曰: 山上有木, 漸, 君子以居賢德, 善俗.
Dịch âm. - Tượng viết: Sơn thượng hữu mộc, Tiệm, quân tử dĩ cư hiền đức, thiện tục.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Trên núi có cây là quẻ Tiệm, đấng quân tử coi đó mà chứa đức hiền, làm hay thói tục.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Trên núi có cây, sự cao của nó có chỗ nhân theo, đó là nghĩa dần dần. Đấng quân tử coi tượng “dần dần” mà chứa đức hiền thiện, làm tốt cho phong tục. Người ta tiến về hiền đức, ắt phải tập dần mới được, không thể vượt qua chừng độ mà tới ngay, ở mình còn thế, thì dạy bảo người, nếu không dùng cách dần dần sao được? Dời thói đổi lễ, không phải là việc một sớm một tối có thể làm xong, cho nên làm hay phong tục cũng phải dần dần.
初六: 鴻漸于干, 小子厲, 有言, 无咎.
Dịch âm. - Sơ Lục: Hồng tiệm vu can, tiểu tử lệ, hữu ngôn, vô cữu.
Dịch nghĩa. - Hào Sáu Đầu: Con sếu tiến chưng bến, trẻ nhỏ nguy, có nói, không lỗi.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Các hào quẻ Tiệm đều lấy tượng con sếu. Sếu là giống đến có thi tiết, đan có thứ tự. Chẳng sai thi tiết thứ tự tức là dần dần. Bến là bến nước, chim nước đậu ở bến nước, với nước rất gần, sự tiến của nó có thể bảo là dần dần. Hào Sáu ở ngôi Đầu là rất thấp, tài mềm là rất yếu, mà phía trên lại không có ứng viện, dùng cách đó mà tiến lên, thì thường tình đều phải lo ngại, tiểu nhân trẻ nhỏ chỉ có thể thấy việc đã rồi, theo sự biết của mọi người, không thể soi cho rõ lẽ, cho nên lo sợ mà có tiếng nói. Bởi vì họ không biết rằng: ở dưới là để mà tiến, dùng sự mềm là để khỏi nóng, không kẻ viện là để có thể dần dần, với nghĩa, tự nhiên không lỗi. Nếu đầu cuộc tiến mà dùng cách cứng gấp tiến, thì mất cái nghĩa dần dần, không thể tiến mà ắt có lỗi.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Chim sếu đi có thứ tự mà tiến dần dần, đó là tiến chưng bến nước vậy. Mới tiến ở dưới, chưa được yên ổn mà phía trên không có ứng viện, cho nên tượng nó như thế, mà chiêm thì là: trẻ nhỏ nguy, tuy có tiếng nói mà với nghĩa thì không có lỗi.
LỜI KINH
(1) Chỉ về hào giữa quẻ Ly.
(2) Chữ 沫(mạt là bọt nước), nguyên văn chua rằng: “nên đổi ra chữ 時(mạt là tên những sao nhỏ).
象曰: 小子之厲, 義无咎也.
Dịch âm. - Tượng viết: Tiểu tử chi lệ, nghĩa vô cữu dã.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Trẻ nó chưng nguy, nghĩa không lỗi vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Tuy là trẻ nhỏ lấy làm nguy nghèo, mà với nghĩa lý thực không có lỗi.
LỜI KINH
鴻漸于磐, 飲食衍衍.
Dịch âm. - Hồng tiệm vu bàn, ẩm thực khán khán.
Dịch nghĩa. - Con sếu tiến chưng tảng đá, ăn uống hơn hớn.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Hào Hai ở giữa được chỗ chính, phía trên ứng nhau với hào Năm, là kẻ tiến được yên ổn khoan thai. Nhưng ở thì dần dần, cho nên nó tiến không chóng. Tảng đá là hòn đá yên ổn bằng phẳng, các bến sông ngòi thường có. Tự bến nước tiến lên tảng đá, lại là tiến dần vậy. Hào Hai với vua Chín Năm lấy đạo giữa chính ứng nhau, sự tiến của nó yên vững dễ dàng, không còn gì hơn, cho nên nói uống ăn hoà vui, có vẻ hớn hở vậy. Đủ biết là tốt.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Tảng đá là hòn đá lớn, dần xa với bến nước. Tiến lên tảng đá mà càng yên thêm. Hơn hớn là ý hoà vui. Hào Sáu Hai mềm thuận trung chính, nó tiến bằng cách dần dần mà phía trên có hào Chín Năm ứng với, cho nên tượng nó như thế mà chiêm thì tốt.
(1) Chữ 沛(bái) nghĩa là nước trút xuống.
(2) Chữ 施 (bái) là tên thứ cờ lớn.
象曰: 飲食衍衍, 不素飽也.
Dịch âm. - Tượng viết: Âm thực khán khán, bất tô bão dã.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Uống ăn hơn hớn, chẳng nó không vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Gọi là uống ăn hơn hớn, nghĩa là đắc chí hoà vui, không thể bảo là chỉ ăn no không mà thôi.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Chữ “no không” cũng như chữ “ăn không” trong kinh Thi, nghĩa là được sự “no” ấy có đạo, không phải chỉ ăn cho no mà ở cho yên(1).
LỜI KINH
九三: 鴻漸于陸, 夫征不復, 婦孕不育, 凶, 利禦寇.
Dịch âm. - Cửu Tam: Hồng tiệm vu lục, phu chinh bất phục, phụ dựng bất dục, hung, lợi ngữ khấu.
Dịch nghĩa. - Hào Chín Ba: Con sếu tiến chưng đất liền, chồng đi chẳng lại, vợ chửa chẳng nuôi, hung, lợi về chống giặc.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Phẳng cao là đất liền, tức là đồng bằng. Hào Ba ở trên quẻ dưới, ấy là tiến đến đất liền. Chồng chỉ về hào Ba, hào Ba nếu không tự giữ chính đạo mà hợp với hào Tư, ấy là biết đi mà không biết lại, không lại nghĩa là không đoái gì đến nghĩa lý. Vợ chỉ hào Tư, nếu dùng cách bất chính mà hợp nhau, thì tuy có chửa mà không thể nuôi, vì nó trái đạo, như thế thì hung. Cái lợi của hào Ba, chỉ có việc đánh giặc. Kéo đến bằng cách phi lý là giặc; giữ đường chính để ngăn điều tà, thế là chống giặc.
Bản nghĩa của Chu Hy. - sếu là chim nước, đất liền không phải chỗ yên ổn của nó. Hào Chín Ba quá cứng không giữa, không có ứng viện, cho nên tượng nó như thế, mà chiêm thì là “chồng đi chẳng lại, vợ đẻ chẳng nuôi”, không gì hung hơn. Vì nó quá cứng, cho nên lợi về chống giặc.
LỜI KINH
象曰: 夫征不復, 離羣醜也;婦孕不育, 失其道也, 利 用禦寇, 順相保也.
Dịch âm. - Tượng viết: Phu chỉnh bất phục, ly quần xú dã; phụ dựng bất dục, thất kỳ đạo dã; lợi dụng ngữ khấu, thuận tương bảo dã.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Chồng đi chẳng lại, lìa đàn loài vậy, vợ chửa chẳng nuôi, lỗi thửa đạo vậy; lợi dụng chống giặc thuận cùng giữ vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Chồng đi chẳng lại, thì lỗi chính đạo của sự tiến, theo lòng ham muốn mà mất chính đạo, lìa phản đàn loài, là đảng xấu vậy. Vợ chửa không dùng chính đạo, cho nên không thể nuôi được. Chỉ lợi về sự chống giặc, tức là lấy sự hoà thuận giữ lẫn cho nhau.
LỜI KINH
六四: 鴻漸于木, 或得其桷, 无咎.
Dịch âm. - Lục Tứ: Hồng tiệm vu mộc, hoặc đắc kỳ giốc, vô cữu.
Dịch nghĩa. - Hào Sáu Tư: Con sếu tiến chưng cây, hoặc được thửa cành ngang, không lỗi.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Đương thì dần dần, hào Tư lấy chất
Âm mềm ở trên Dương cứng, há ở yên được? Hào Tư ở chỗ k!!!15005_44.htm!!! Đã xem 29321 lần.