hà Cách ly Quả cầu đen của Trinity đều đều phát ra những tia sáng xanh khi các tia laser bên trong chiếu vào bộ nhớ tinh thể của nó. Dù đã biết dung lượng và tốc độ khổng lồ của máy tính này, tôi cũng không sao hình dung nổi làm thế nào nó xử lý được hàng ngàn tỷ bit dữ liệu để tạo ra một hoạt động như thế. Liệu nó đã theo dõi tình hình quân sự của tất cảc các nước có vũ khí hạt nhân chưa? Nó có quét và phân tích từng mét vuông trên trái đất mà vệ tinh có thể nhìn thấy? Liệu nó có lục tìm trong các luận văn vật lý thiên thể học chẳng mấy ai biết tới để tham khảo về những quan niệm mà tôi đã nói đến? Hay là nó đã kiên trì viết một bản giao hưởng tuyệt tác trong khi chúng tôi chờ đợi một thảm họa hạt nhân? Có lẽ nó đã làm tất cả những việc đó trong cùng một lúc. Ý định ban đầu của tôi là thuyết phục Trinity tự tắt nguồn đã thay đổi vì mối đe dọa của các tên lửa đang lao đến. Tôi chuyển sang thuyết phục Trinity tha cho những mạng sống đang bị đe dọa trực tiếp. Nhưng mọi cố gắng đều thất bại. Trinity chỉ muốn tiếp tục cuộc thảo luận về những thần khải trong cơn hôn mê của tôi. Khi tôi đứng bàng hoàng trước quả cầu đen, hy vọng Bauer đang cho sơ tán căn cứ, thì phần cuối cuộc nói chuyện của tôi với Trinity về cơn hôn mê vang lên từ chiếc loa giấu đâu đó. “Anh nói rằng khi vật chất và năng lượng kết thúc, ý thức sẽ sống sót bằng cách di trú vào nơi nào đó. Đó là nơi nào?” “Khi tôi còn trẻ, tôi có nghe nói về một Công án Thiền mà tôi thích. Trước đây tôi chưa bao giờ hiểu chính xác tại sao, nhưng bây giờ thì tôi hiểu.” “Đó là gì?” “Vạn vật trở về Một. Vậy Một trở về gì?” “Rất thi vị. Nhưng tôi không thấy chứng cớ thực tiễn hỗ trợ ngay cả một câu trả lời lý thuyết cho câu hỏi đó. Cái gì còn lại sau khi vật chất và năng lượng biến mất? ” “Có người gọi là Thượng đế. Có người gọi theo cách khác.” “Câu trả lời không thỏa mãn.” “Tôi có câu trả lời chi tiết hơn cho ông. Tôi nghĩ là cho tất cả chúng ta. Nhưng... ” Ánh sáng trong quả cầu mờ đi, và Trinity trở nên tối đen. Sau đó vài tia sáng mảnh như sợi chỉ chiếu vào tinh thể. “Tôi muốn biết,” Trinity nói trong thời gian thực. “Cái mà có người gọi là Thượng đế, có người gọi theo cách khác, là gì vậy?” Tôi liếc nhìn đồng hồ. Mặt tôi nóng bừng. Rachel đang ngồi trong trực thăng. Tôi tự nhủ. Trên đường đến nơi an toàn. Chính Washington giờ này đang bị nguy. Và cơ may tốt nhất để tôi cứu nó là làm đúng những gì tôi định làm lúc đầu. Điều gì đã đưa tôi đến đây làm. “Anh càng đợi lâu bao nhiêu,” Trinity nói, “số người chết càng nhiều bấy nhiêu.” Hình ảnh của Peter Godin về Trinity như một kẻ độc tài nhân hậu đã không hiện ra. Tôi nhắm mắt và cố tìm lời diễn tả những tri thức đã được truyền vào tôi ở Jerusalem. “Có một lực trong vũ trụ mà chúng ta chưa hiểu. Một lực không phải năng lượng cũng không phải vật chất. Thật ra tôi không biết nó có phải lực hay không. Nó có vẻ giống với một trường hơn. Nó tràn ngập mọi vật nhưng không chiếm khoảng không gian nào. Nó giống như... phi không gian.” “Lực đó... hay trường đó là cái gì?” “Tôi không biết tên nó. Tôi chỉ biết nó có tồn tại.” “Chức năng của nó là gì?” “Tôi xin trả lời bằng một câu hỏi. Cái ghế là gì? Cái gì cần thiết để một cái ghế tồn tại?” “Một chỗ ngồi. Bốn chân. Lưng để tựa.” “Có thế thôi à?” “Có nhiều kiểu ghế. Ghế bành. Ghế đẩu Nhật Bản.” “Ông đã bỏ qua một thứ. Một thứ khác tuyệt đối cần thiết để có một chiếc ghế.” “Cái gì?” “Không gian.” “Anh thấy nó rồi à?” Bauer hỏi. “Chúng tôi đã tìm thấy nó.” Skow đã cùng với một đội NSA làm việc tại điểm khai quật cách đấy mười một cây số. Chính ở đó đường ống truyền dữ liệu từ Trinity gặp đường cáp lớn OC48c phục vụ cho Bãi thử White Sands. “Đó là một tín hiệu đơn giản được che giấu kỹ càng,” Skow nói. “Trinity gửi nó đến khoảng năm nghìn máy tính trên khắp thế giới. Nếu tín hiệu này bị dừng hay gián đoạn, tất cả những máy tính đó sẽ trả thù bằng cách mà chúng ta không thể nào biết được. Nhưng chúng ta có thể sao chép tín hiệu này, và chúng tôi đã cho máy tính ở chỗ khai quật làm việc đó.” Tướng Bauer nhắm mắt lại và siết bàn tay thành nắm đấm. Ông ta đã trút bỏ áo khoác và blu, nhưng bây giờ ông ta đứng lên và mặc lại. “Chúng tôi vẫn còn một vấn đề nữa.” “Cái gì?” “Chúng tôi không thể thay thế những tín hiệu của chúng tôi vào chỗ tín hiệu của Trinity mà Trinity không phát hiện ra. Chúng tôi cần một cái gì đó làm xao lãng Trinity trong một thời gian ngắn.” Bauer thắt dây đeo bao súng ra ngoài áo blu. “Cái đó không thành vấn đề.” “Sao lại không? Ông cho rằng khi Trinity hợp nhất hai mẫu thần kinh, nó sẽ quá bận nên không để ý xem chúng ta làm gì nữa à?” “Không.” “Thế thì tại sao?” Bauer mỉm cười bí hiểm. “Tôi thích dùng những phương pháp đã được chứng minh.” “Ông muốn nói gì?” “Giống như trước. Chỉ khác là...” Skow thấy khó hiểu. “Nhưng chính cái chết của Godin đã làm cho Trinity bối rối lần đầu. Godin không thể chết lần thứ hai.” “Đúng.” Skow đứng chết lặng. “Trời ơi. Ông nghĩ ông có thể thoát được việc đó?” “Anh biết tại sao tôi không bị bắt không? Tổng thống biết phải dừng Trinity lại, nhưng ông ấy biết rằng ông ấy không thể nói với ai điều đó. Ông ấy không thể làm bất cứ điều gì tại nơi ông ấy đang ở mà Trinity không biết. Nhưng tôi có thể làm được. Chúng ta có thể làm được. Đó là lý do tại sao ông ấy thả lỏng tôi.” Skow gật đầu, nhưng trông gã không có vẻ bị thuyết phục hoàn toàn. “Nếu Trinity gặp một đợt rối loạn mới như lần sau khi Godin chết, làm thế nào mà các tên lửa Nga không bị phóng đi bởi các máy tính bên ngoài?” Tướng Bauer lắc đầu. “Tôi đang mong Trinity để ý đến cái đó. Quy trình hợp nhất chưa được làm thử bao giờ và Trinity cũng như chúng ta không muốn gây ra thảm họa đâu.” “Còn Tennant?” “Tennant thì sao?” “Ông không nghĩ có vấn đề gì với ý tưởng của hắn ta về việc hợp nhất hai mẫu thần kinh của nam và nữ à? Làm cho Trinity tự nguyện tách ra khỏi mạng ấy?” Bauer khụt khịt. “Anh đã nghe Trinity nói đấy. Dù có ai được tải vào máy, họ cũng sẽ không lơi là kiểm soát. Cái máy đó sẽ không bao giờ đồng ý tách ra khỏi mạng Internet. Và chúng ta cứ bị nó khống chế mãi. Bây giờ hay không bao giờ nữa, Skow ạ.” Viên tướng cài cúc áo khoác và bước ra cửa nhà để máy bay. “Ông đi đâu đấy?” Skow hỏi. Bauer mỉm cười. “Đến chỗ con gái tôi. Đã lâu lắm mới có một cuộc thăm viếng gia đình như thế này đấy.” Nhà Hành chính Geli Bauer đang đứng hút một điếu Gauloise ở ngoài thì cha ả bước theo con đường nhỏ giữa các nhà để máy bay và dừng lại cách ả vài bước. Viên tướng trông bơ phờ trong buổi sớm, ở ngoài trông ông ta già hơn lúc trong nhà dưới ánh đèn. Nhưng vẫn mạnh khỏe. Ông ta có những bắp thịt dài như của Geli, và cái siết tay của ông ta có thể khiến những người trẻ hơn hai chục tuổi phải nhăn mặt. Đôi mắt xám của ông ta tìm đôi mắt ả mà nhìn chăm chú, nhìn xuyên qua ba thập kỷ đau thương và thù hận. “Ba cần con làm cho ba một việc,” ông ta nói. “Cho ông,” ả vặn lại. “Ông là loại người liều mạng chết mẹ.” “Chính vì thế ba mới có công việc này.” Ả nhìn chằm chằm khuôn mặt lưỡi cày, đầy vẻ quả quyết. “Việc gì vậy?” “Sau khi hai mẫu thần kinh đã hòa nhập, ba muốn con giết Tennant hoặc Weiss.” “Hoặc Weiss? Ai trong hai người cũng được à?” “Phải. Nếu một trong hai người chết, Trinity sẽ rơi vào hỗn loạn. Lúc đó NSA có thể đột nhập vào cáp dữ liệu của Trinity và thay thế tín hiệu mật mã của chính nó vào đấy, nó sẽ đánh lừa các máy tính đang kiểm soát tên lửa rằng mọi việc đều ổn. Sau đó, chúng ta có thể tắt nguồn Trinity mà không sợ nó trả thù.” Geli im lặng. “Con sẽ làm chứ?” “Tại sao tôi lại phải làm?” Viên tướng bĩu môi thành một nụ cười mỉa. “Nếu ba bảo con đừng giết chúng, chắc hẳn con đã nói rằng con sẽ thịt chúng trong vòng năm phút.” “Ông nghĩ thế à?” “Ba nghĩ con ghét ba đến mức con sẵn sàng làm trái ngược tất cả những gì ba bảo con. Thế cũng được thôi. Căm ghét là một xúc cảm hữu ích.” Geli đã học được bài học này qua thực tế khắc nghiệt. “Ông có biết vì sao tôi ghét ông không?” “Tất nhiên là biết. Con căm ghét ba vì chuyện mẹ con tự tử.” Cái giọng ông ta thờ ơ nhắc đến chuyện ấy như không có gì quan trọng làm ả đau đớn tận đáy lòng. Ông ta tiến gần thêm một bước. “Con nghĩ rằng việc ba có nhiều nhân tình và nghiện rượu đã đẩy bà ấy đến chỗ tự sát. Nhưng con nhầm rồi. Ba yêu mẹ con. Đó là điều con không bao giờ hiểu.” “Mỗi người đàn ông đều giết người mà hắn yêu,” ả nhắc lại câu cách ngôn. “Ông có nhớ câu này không? ‘Kẻ hèn nhát làm việc đó bằng những cái hôn, kẻ gan dạ làm bằng nhát kiếm.’ Ông là kẻ hèn nhát trong chuyện này.” Viên tướng lắc đầu. “Từ lâu ba đã giấu kín chuyện này để bảo vệ cho con. Nhưng giờ là lúc con nên biết sự thật.” Ả muốn gào lên bảo ông ta im mồm đi, nhưng không tìm ra lời lẽ thích hợp. Chưa có gã đàn ông nào tấn công ả bằng sức lực mà không phải trả giá đắt, nhưng trước sự xúc phạm về tâm lý từ phía cha ả, ả không có gì để tự vệ. “Mẹ con tự tử vì con đăng lính. Thậm chí sau tất cả những chuyện xảy ra trong quá khứ, con vẫn quyết định theo bước chân ba. Chính điều đó đã gây ra chuyện đấy. Chính điều đó đã khiến mẹ con ngã gục.” Geli lợm giọng đến muốn khụy xuống, nhưng ả cố gượng đứng vững và níu chặt cái nhìn tàn nhẫn của cha mình. “Lẽ ra ba phải nói chuyện này với con từ trước,” viên tướng tiếp tục. “Nhưng, cả hai chúng ta đều biết... chuyện gì đã xảy ra.” Đôi tay Geli run lên vì tức giận. Vết sẹo trên mặt ả như bỏng cháy, nhưng ả vẫn chưa tìm ra lời đối đáp. “Con ghét ba,” tướng Bauer nói. “Nhưng con giống hệt ba.” “Không,” ả thì thào. “Có. Và con biết phải làm gì.” Nhà Cách ly Rachel hết tê lúc 6:50 sáng. Tôi đưa cho nàng chai nước suối một lít, nàng uống gần hết sau vài ngụm. Mười phút sau, Zach Levin thông báo mẫu thần kinh của nàng đã được nén và lưu thành công. Công việc về phần con người đã xong. Rachel, Levin, Ravi Nara và tôi dạo bước xung quanh tấm chắn từ trường khổng lồ dùng để bảo vệ Trinity khỏi máy MRI và đến đứng trước quả cầu. Tôi nghĩ Trinity phải nói điều gì sâu sắc lắm, nhưng lời lẽ của nó thuần túy kỹ thuật. “Tôi đã kết nối với Godin Bốn trong tầng hầm, và tôi bắt đầu nghiên cứu so sánh các dữ liệu trong mỗi mẫu thần kinh. Rất nhiều dữ liệu trong đó là thừa, đặc biệt những dữ liệu biểu hiện chức năng trợ giúp sự sống. Tôi sẽ xóa bỏ những chỗ ấy trong quá trình hợp nhất.” Levin nói, “Ông có tin tưởng phép toán trừ này có thể thực hiện mà không kèm theo hậu quả xấu không?” “Có. Nó cũng giảm thiểu hoặc thậm chí tránh được những chấn động thích nghi mà quá trình tải mẫu thần kinh trước đây đã gặp phải. Quá trình loại trừ này là cần thiết trong mọi trường hợp. Mạng tinh thể của tôi có thể giữ một lượng hạn chế thực tế của bộ nhớ tượng trưng, nhưng tổng số các mối liên hệ thần kinh của tôi còn thiếu một số lượng lớn để giữ hai mẫu chưa nén. Sẽ còn phải thải ra rất nhiều dữ liệu nữa, không chỉ chức năng trợ giúp sự sống. Khi tôi bắt đầu hợp nhất các chức năng não cao cấp hơn thì yêu cầu về nghệ thuật cũng ngang với vấn đề khoa học. ” “Ông dự trù quá trình sẽ kéo dài bao lâu?” Levin hỏi. “Không có tiền lệ.” “Rất tốt. Cám ơn ông.” Các tia laser bên trong quả cầu bằng sợi carbon bắt đầu bắn vào tinh thể trung tâm với tốc độ thôi miên. Trên màn hình plasma đằng sau Trinity, các con số và các ký hiệu toán học cuồn cuộn trôi qua với một tốc độ vượt xa khả năng lĩnh hội của con người, thể hiện hoạt động bên trong của máy bằng ngôn ngữ do con người sáng tạo ra nhưng bây giờ không có ích gì. Chúng tôi câm lặng đứng nhìn, như thể đang xem một trận mưa sao băng hay nhìn một đứa trẻ ra đời. Khi quá trình này tăng tốc, tôi như bị ném trở về thời thơ ấu, khi tôi ngồi trước ti vi cùng với cha tôi kinh ngạc ngắm nhìn Apollo 11 đáp xuống vùng tối trên mặt trăng. Thế mà những gì chúng tôi chứng kiến lúc này so với việc bắn Apollo lên mặt trăng phức tạp hơn không biết bao nhiêu mà kể. Đội ngũ khoa học kỹ thuật của Godin đã hoàn thành một việc thần kỳ: giải phóng trí tuệ ra khỏi cơ thể. Nhưng máy tính Trinity đang cố gắng thống nhất những gì mà thiên nhiên - vì lợi ích của sự sống còn - đã phân tách ra từ lâu trước cuộc tiến hóa của Homo sapiens. Trí tuệ của đàn ông và đàn bà, bị phân chia ra bởi sinh hóa và bởi những áp lực của môi trường suốt hàng triệu năm, giờ trở thành một. Khi quá trình này hoàn thành, lực lượng mạnh mẽ nhất hành tinh sẽ không còn tồn tại trong trạng thái phân chia, nửa này vĩnh viễn khao khát nửa kia của mình nữa. Có lẽ trong trạng thái toàn thể này, Trinity mới có thể mang lại hy vọng cho một giống loài đã dường như không thể tự cứu mình thoát khỏi những bản năng xấu xa tồi tệ nhất của nó nữa. Levin xuống tầng hầm và khi trở lại, anh mang ghế cho chúng tôi. Rachel và tôi nắm chặt tay nhau, mắt nhìn thẳng vào những tia chớp laser màu xanh. Khi các tia sáng bắn ra tăng tốc, chậm lại, rồi tăng tốc trở lại, tôi có cảm tưởng đang xem một người chơi trò xếp hình: nhặt các hình lên, thử chúng với nhau, vứt đi một số, đặt những cái khác vào vị trí đúng của chúng. Tôi chẳng biết bao nhiêu thời gian đã trôi qua, cho đến khi các tia sáng chói chang trong quả cầu mờ lịm đi, rồi giọng nói của Trinity tràn ngập căn phòng. “Các mạch của tôi đã gần đạt đến mức bão hòa. Mẫu đang được hợp nhất được coi là chịu trách nhiệm cho an ninh của hệ thống. Từ thời điểm này trở đi nó sẽ điều hành những bước cuối cùng của quá trình hợp nhất. Tôi đã tạo ta một bản đồ để nó theo.” Giống như có một thỏa thuận ngầm, tất cả chúng tôi đứng dậy. “Tôi đã hoàn thành nhiều công việc trong cuộc đời mình,” giọng nói kia tiếp tục, và tôi biết trí tuệ của Peter Godin vẫn sống trong máy. “Tôi cũng đã làm nhiều việc đáng ngờ về phương diện đạo đức. Bây giờ tôi muốn được ghi nhớ vì những gì tôi đã làm. Hôm nay tôi tự nguyện từ bỏ đời sống và quyền lực tuyệt đối của mình, để cho một thứ trong sạch hơn bản thân tôi có thể đi vào thế giới. Có lẽ bằng cách làm thế, lần đầu tiên tôi thực sự đến gần thần thánh. Tạm biệt.” “Điều đó đang xảy ra,” Ravi Nara nói, giọng y tự nhiên có vẻ kính cẩn một cách đáng ngạc nhiên. “Điều không thể đang xảy ra trước mắt chúng ta. Lưỡng thể hóa thành nhất thể... âm dương hòa một.” Tôi chưa bao giờ hỏi Ravi Nara về tôn giáo của y, tôi cứ tưởng y theo đạo Hindu. Tôi đang định hỏi thì tiếng còi rú lên trong phòng. “Gì thế?” tôi hỏi. “Cái cửa,” Levin nói, anh ấn một nút và quanh cảnh bên ngoài nhà Cách ly hiện ra trên một màn hình nhỏ treo tường. Không có ai đứng trước cửa. “Kỳ quặc,” anh nói. Người kỹ sư cao lớn đi vòng quanh rào chắn từ ra cửa. “Đừng mở,” Rachel nói. Tôi bước khá xa về phía tường để quan sát hàng rào từ tính. Khi Levin chạm vào tay nắm cửa, một tiếng rắc đanh gọn vang trong gian phòng. Levin đưa vội tay lên bịt tai, và cánh cửa thép an toàn kẽo kẹt xoay quanh bản lề mở ra ngoài. Một bóng đen xuất hiện ở khe cửa mù mịt khói, vung cánh tay lên với tốc độ chóng mặt, và Levin nằm vật ra nền nhà. “Chuyện gì xảy ra thế?” máy tính hỏi với giọng y hệt mẫu thần kinh Peter Godin từng dùng. Ravi Nara trườn vào sau quả cầu đen của Trinity. Tôi nắm tay Rachel chạy ra phía cửa gần bức tường sau. Cửa này không mở ra ngoài mà mở qua hàng rào từ tính sang buồng điều khiển máy MRI. Khi tôi lao theo nàng vào đó, tôi liếc lại phía sau và thấy một mớ tóc vàng hoe phía trên bộ áo chống đạn đen. &ve;ng tối đen như mực. “Ý thức sống sót không có khái niệm về quá khứ và tương lai. Đó là sự tự biết nguồn cội. Nhưng cả khát khao hiểu biết cũng sống sót. Đó là điểm mạnh nhất của ý thức. Và từ khát khao hiểu biết ấy, chu kỳ mới của vật chất và năng lượng ra đời.” Máy tính ấy im lặng một lúc. “Vũ trụ tồn tại như lồng ấp của ý thức?” “Chính xác.” “Một lý thuyết hay. Nhưng chưa đầy đủ. Anh chưa giải thích nguồn gốc của Đạo. Về cái trường tràn ngập khắp nơi của anh.” “Tri thức ấy không được truyền cho tôi. Nó là điều bí mật thiết cốt. Nhưng điều đó không ảnh hưởng đến tình hình của chúng ta. Ông thấy nơi tôi đến.” “Anh vừa nói rằng tôi không phải là điểm tận cùng của quá trình ấy, tôi chỉ là một trạm dừng chân trên con đường đi đến ý thức vũ trụ. Tôi giống như con người. Con người có cơ sở sinh học. Tôi có cơ sở máy móc. Nhưng vẫn còn phải đi tiếp. Hành tinh có ý thức. Thiên hà có ý thức...” “Ông là một bước tiến. Không hơn, không kém.” Trinity im lặng vài giây. “Điều gì khiến anh liều cả sinh mạng mà đến đây, bác sĩ?” “Tôi được phái đến đây để ngăn ông làm những việc ông đang làm.” “Ai phái đến?” “Gọi là gì tùy ông. Chúa. Đạo. Tôi đến đây để giúp ông nhận ra Peter Godin không phải là người thích hợp để tiến hành bước nhảy sang một hình thức ý thức mới.” “Ai là người đàn ông thích hợp?” “Tại sao ông cứ nghĩ phải là đàn ông?” “Vậy là phụ nữ?” “Tôi không nói thế.” “Tôi đã nghĩ nhiều về vấn đề này. Anh sẽ nạp ai vào máy nếu không phải là Peter Godin?” “Nếu ông vẫn còn là Godin, hãy xem xét chuyện này. Bản năng đầu tiên của ông là cướp đoạt chiếc máy tính này bằng lừa đảo và kiểm soát thế giới bằng sức mạnh. Ông muốn có quyền lực tuyệt đối và sự tuân phục tuyệt đối. Đó là bản năng nguyên thủy của loài người. Một bước lùi, không phải bước tiến.” “Bản năng ấy mang tính thần thánh hơn là tính người. Chẳng phải tất cả các vị thần trước hết và trên hết đòi hỏi sự vâng phục đó sao?” “Đó là lý do vì sao loài người phản bội Chúa.” “Quyền lực tuyệt đối thì sụp đổ tuyệt đối. Có phải đó là lý lẽ của anh không?” “Tất cả những người muốn làm chúa tể thế giới theo định nghĩa đều là những kẻ không thích hợp để làm điều đó.” “Anh muốn nạp ai vào máy tính? Đạt Lai Lạt Ma à? Hay Mẹ Teresa? Hay một hài nhi?” Câu hỏi này đưa tôi trở lại mấy tuần đầu khi tôi mới đến Dự án Trinity. Tôi đã dành không biết bao nhiêu thì giờ tự hỏi mình câu này, mặc dầu khi đó tôi tin nó là một bài tập hàn lâm. Bây giờ tôi biết nó nắm chìa khóa cứu vô số mạng người. “Đạt Lai Lạt Ma chủ trương bất bạo động, nhưng ông ấy vẫn có bản năng người, giống như ông, Peter Godin.” “Thế một hài nhi? Tabula rasa? Một tấm bảng trắng?” “Một đứa trẻ có thể là nguy hiểm nhất nếu được nạp vào máy tính. Các bản năng động vật được di truyền qua các thế hệ. Khái niệm tấm bảng trắng bất quá cũng chỉ là hiểu lầm. Một đứa trẻ hai tuổi là kẻ độc tài không có quân đội.” “Mẹ Teresa?” “Đó là vấn đề bản sắc cá nhân.” “Loại vấn đề nào?” “Vấn đề quan niệm. Nó đòi hỏi cách suy nghĩ không theo thói thường.” “Tại sao tôi có cảm tưởng anh sắp nói với tôi Andrew Fielding là người mà chúng tôi nên cho phép đạt tới trạng thái Trinity?” “Bởi vì ông biết ông ấy là người tốt như thế nào. Và bởi vì ông đã ra lệnh giết ông ấy. Chỉ riêng điều ấy đã làm ông mất tư cách. Nhưng Fielding cũng không phải là người thích hợp.” “Vậy thì ai?” “Không ai.” “Tôi không hiểu.” “Ông gần như thích hợp, nếu...” “Anh tin rằng sau khi anh giải thích điều này, tôi sẽ ra khỏi mạng và để anh nạp một người khác vào Trinity?” “Không. Tôi nghĩ ông sẽ giúp tôi làm việc đó.” “Giải thích đi.” Phòng Thí nghiệm Lockheed, White Sands Evan McCaskell ngồi sau bàn của một kỹ sư hàng không mà ông chưa gặp bao giờ, đợi nói chuyện với tổng thống. Phải mất nhiều phút chờ đợi khổ sở mới liên lạc được bằng điện thoại với nhân viên Mật vụ của Nhà Trắng. McCaskell ngờ rằng vụ nổ hạt nhân ngoài bờ biển Virginia đã phá vỡ toàn bộ mạng liên lạc vùng bờ biển phía Đông. Lính bảo vệ đứng cả hai bên McCaskell, lăm lăm khóa nòng, lên đạn. Chánh văn phòng đã chia sẻ với tổng thống nhiều thời khắc kỳ lạ trong việc điều hành đất nước, nhưng chưa bao giờ hình dung ra việc điều khiển cuộc tấn công hạt nhân từ một văn phòng trống rỗng ở New Mexico như thế này. Không gian siêu thực vây quanh gợi cho ông tưởng tượng rằng đó chỉ là một bài tập quái dị do NORAD bày ra, nhưng không có gì che đậy được nỗi khủng khiếp có thật này: những gì tổng thống làm mấy phút tiếp theo đây sẽ quyết định số phận vợ con của McCaskell và hàng triệu người Mỹ khác, những người không có ý niệm gì về sự việc đang xảy ra. Và nếu tướng Bauer lầm về những khả năng của Trinity, không thể nói bao nhiêu sinh mạng nữa sẽ tiêu tan. “Các tham mưu trưởng quân chủng đang có mặt ở đây với tôi, Ewan ạ,” tổng thống nói. “Chúng tôi đang trên đường đến hầm trú ẩn.” McCaskell hối hả thuật lại kế hoạch của tướng Bauer gần như đúng từng lời của Bauer, mà không dừng lại để giải thích gì thêm. Bill Matthews tỏ ra thông minh hơn những gì mà các nhà bình luận gán cho uy tín của ông. “Còn bao nhiêu thời gian thì chúng tôi ở đây bị tấn công?” Matthews hỏi. “Bảy hoặc tám phút. Và các tên lửa của chúng ta cần năm phút để lên đến độ cao cần thiết. Ngài phải phóng ngay, thưa tổng thống. Các tham mưu trưởng sẽ biết cao độ tối thiểu mà ngài có thể cho nổ tên lửa của chúng ta và đạt được hiệu quả mong muốn.” “Đợi một giây.” McCaskell hình dung ra quang cảnh: mỗi tham mưu trưởng đòi mô tả chi tiết và đưa ra những phản đối. Nhưng không còn thời gian cho việc đó. Matthews quay lại đường dây, giọng ông căng thẳng. “Các tham mưu trưởng nói với tôi rằng một xung điện từ có cường độ như vậy sẽ làm rơi nửa số máy bay trên bầu trời nước Mỹ và có thể gây ra tất cả các loại thảm họa khác. Ông có tuyệt đối nắm chắc về hai tên lửa đó không, Ewan?” Bauer đã nói dối ông về các máy bay. Nhưng ông hiểu tại sao. “Bill, có đám mây chó chết hình nấm giống như trong ngày tận thế đang lơ lửng trên bầu trời Virginia ngay lúc này. Các ngài sắp có cái tương tự trên bầu trời Washington. Đây có thể là cơ hội duy nhất cho ngài hạ gục Trinity. Đến mai thì ngài không còn kiểm soát được kho hạt nhân của chúng ta nữa.” Một ý nghĩ khủng khiếp xâm chiếm McCaskell. “Có lẽ ngay bây giờ ngài cũng không kiểm soát được.” Ông nghe có tiếng trao đổi thầm thì. “Các tham mưu trưởng nói với tôi rằng chúng ta cần xử lý cả ba tên lửa trên cả nước để tin chắc đã hạ gục tất cả,” Matthews nói. “Tuỵêt. Nhưng dù làm gì, thì phải làm ngay đi!” “Cặp hạt nhân đã mở. Tôi đang chuẩn bị xác nhận mật mã.” Tạ ơn Chúa... “Vào hầm trú ẩn ngay, Ewan. Katy và lũ trẻ cần ông.” Nỗi sợ như một nhát dao xuyên qua người. “Đó là đặc quyền, thưa tổng thống. Tôi ngừng đây.” McCaskell đặt máy xuống và quay nhìn một trong các cảnh vệ. “Tổng thống bảo tôi đến chỗ an toàn.” Người lính không giấu nổi vẻ nhẹ nhõm. Anh ta dẫn McCaskell ra chiếc Ó Đen vẫn chờ bên ngoài phòng thí nghiệm. Khi viên chánh văn phòng trèo vào trực thăng, ông nghe tiếng thầy giáo cũ vang bên tai, Duck and cover(1), các em, Duck and cover. Lời khuyên ấy không ích gì lúc đó, nhưng lúc này nó có ích cho ông. Dựa trên những gì đã xảy ra ở Virginia, không có gì báo trước các tên lửa sẽ nổ ở đâu. Cố gắng trốn thoát lúc này có thể đưa ông đúng vào tầm nổ của một trái bom neutron. Ngoài ra, có gì đó nói với ông rằng để mặc tướng Bauer nắm kiểm soát ở White Sands có thể là một sai lầm tai họa. “Đưa tôi trở về căn cứ!” ông hét. “Về White Sands!” Chiếc Ó Đen bay lên và miễn cưỡng quay về hướng Đông. Nhà Cách ly “Không đánh đố nữa,” Trinity nói. “Ai đủ tư cách hơn tôi để tồn tại trong trạng thái Trinity?” Sự tức giận làm cho giọng nói lúc trướsp; “Kết liễu đi!” một giọng đàn ông cục cằn quát lên. “Làm việc của con đi!” Tướng Bauer đã vào nhà Cách ly. Gọng kìm của Geli thít chặt cổ tôi, nhưng ánh mắt ả không còn vẻ điên giận nữa. “Tôi biết rõ cô, Geli ạ,” giọng nói lạ cất lên. “Trái tim tôi đau đớn cho cô. Tôi biết về vết sẹo của cô.” Geli chết lặng. “Nghe giọng của cha cô đây, Geli. Hãy nghe sự thật.” Giọng của tướng Bauer tràn ngập gian phòng, nhưng không phát ra từ cổ họng ông ta. Nó phát ra từ các loa của Trinity. “Vết sẹo đó à? Tôi sẽ nói cho anh biết tại sao nó không chịu sửa đi. Ba tuần sau khi mẹ nó chết, nó từ trại huấn luyện về nhà và định giết tôi.” Bàn tay vẫn đặt trên cổ tôi, nhưng không còn sức lực nữa. “Nó đã nghe câu chuyện ở Việt Nam, bọn lính bộ binh bất mãn dùng lựu đạn để giết lũ sĩ quan mà chúng ghét. Anh hiểu không, đặt một quả lựu đạn trong nhà xí và khi bọn kia đi là cho chúng tiêu luôn.” Tướng Bauer đứng nghểnh đầu kinh ngạc nghe chính giọng mình phát ra từ loa. Bàn tay phải của ông ta nắm khẩu Beretta 9 ly màu đen mà tôi đã thấy chĩa vào McCaskell. “Đêm ấy tôi đang uống rượu, trên giường. Nó tưởng tôi ngủ rồi. Mà có lẽ tôi đang ngủ. Nó lẻn vào đặt quả lựu đạn phốt pho trắng chết tiệt lên chiếc bàn đầu giường tôi. Bằng phản xạ tay tôi vùng ra khỏi chăn và chụp cổ tay nó. Tiếng kêu của nó làm tôi tỉnh hẳn, và tôi nhìn thấy quả lựu đạn. À, tôi lăn nhanh ra phía mép kia của giường, như một chiến sĩ lão luyện. Nhưng nó bị kẹt phía bên kia và phải bỏ chạy, Willy Pete(1) nổ trước khi nó kịp ra khỏi cửa. Đó là nơi nó bị vết sẹo ấy. Và đó là lý do vì sao nó không chịu chữa. Vết sẹo ấy là vụ tự tử của mẹ nó, là sự căm ghét của nó đối với tôi, là toàn bộ cuộc đời buồn chó chết của nó. Quả thật là lâm ly thống thiết. Nhưng nó lại đang làm lính. Căm thù là nhiên liệu cho người lính.” Geli toài ra khỏi người tôi và tiến về phía cha ả, hai tay buông thõng hai bên. Tôi không nhìn rõ mặt ả, nhưng rõ ràng thân người ả đang che đường đạn bắn của cha mình. “Ông nói với ai đấy?” Geli thét lên. “Ông kể lại chuyện ấy với ai?” “Tránh ra!” viên tướng quát. “Hãy nghe tôi, thiếu tướng,” giọng nói kỳ quái vừa cứu mạng tôi lại cất lên. “Tại sao ông muốn giết tôi. Ông đã giết đi phần lớn con người ông. Ông đã giết đi phần lớn con gái ông. Nhưng tôi là phần trong sạch nhất trong ông. Phần trong sạch trong con người. Ông hy vọng gì vào việc giết tôi?” Tôi bắt đầu trườn về phía sau, về chỗ trạm điều khiển. Viên tướng chĩa súng vào tôi, nhưng Geli đã dịch sang che đường đạn. “Ông yêu bóng tối hơn ánh sáng phải không?” Giọng nói bất khả kháng, như của một đứa trẻ. Nhưng tướng Bauer không thèm để ý. Ông ta chuyển sang ngang, cố tìm một đường bắn. “Bỏ súng xuống,” Geli giơ cả hai tay lên nói. Ả muốn cứu chúng tôi sao? “Thôi đi,” ả nói. “Thôi đi!” Vẻ mặt giận dữ của viên tướng không hề thay đổi. Tiếng nói của máy tính cũng như của Geli đều không lọt vào tai ông ta. Ông ta di chuyển xa hơn sang bên trái, về phía máy MRI, cố tìm một góc ngắm bắn chết ngay. “Ông sẽ giết tôi để làm việc đó chứ?” Geli hỏi. Tôi quay nhìn lại bức tường chắn bằng thủy tinh plexi rạn vỡ, mong Rachel ra tay. Nàng đang nhìn như bị thôi miên vào vũ điệu tử thần của hai cha con Bauer. “Ba sẽ không giết con,” tướng Bauer nói, rồi ông ta dùng báng súng hất Geli sang một bên, đánh bật ả như đánh một đứa trẻ. Ả vừa ngã, viên tướng đã vung nòng khẩu súng về phía tôi, nhưng đúng lúc đó máy Siêu MRI rít lên và ông ta ngã lộn xuống như bị đánh bằng đạn trái phá. Khẩu súng của ông ta đập vào máy scan MRI và treo lên đó như thể bị hàn vào máy. Rachel quỳ xuống bên tôi, dùng một ngón tay sờ thử vai tôi. “Đỡ anh đứng dậy,” tôi thều thào. “Anh cứ nằm yên.” “Làm ơn... cho anh đứng dậy.” Tôi cố gượng quỳ lên. Rachel đỡ dưới vai lành của tôi và giúp tôi đứng lên. Geli đang đứng bên cạnh cha ả, nhìn xuống mà không tin vào mắt mình. Cổ viên tướng loang máu đỏ, đôi mắt vẫn mở đờ đẫn. Ông ta đứng giữa cây súng và máy MRI khi Rachel ấn nút khởi động. Từ trường dao động cực lớn của máy đã giật cây súng về phía nó bằng một lực không thể cưỡng nổi, với tất cả những gì trên đường đi của nó. Trong trường hợp này, đó chính là một phần cái cổ họng của viên tướng. “John Skow vẫn đang cố gắng tắt nguồn máy tính,” Geli nói bằng một giọng đều đều. “Tôi nghĩ gã không thể làm được nếu cả hai người còn sống.” “Tôi vẫn an toàn,” Trinity nói. “Và tôi lấy làm tiếc cho cô, Geli.” Rachel và tôi bước chậm rãi qua hàng rào từ trường. Quả cầu đen chờ đợi, những tia laser màu xanh của nó phát ra đều đặn như nhịp tim trong mạng carbon. Trên màn hình bên dưới nó, tôi thấy hình ảnh Rachel và tôi đang nhìn vào camera của Trinity. “Ngươi có biết chúng ta không?” tôi hỏi. “Biết,” giọng trẻ con cất lên. “Rõ hơn hai người biết về bản thân nhiều.” Chú Thích: 1. Willy Pete: tiếng lóng chỉ lựu đạn phốt pho trắng (White Phosphorus).