ôm nay, trong mạch cacbon của Trinity và bộ nhớ tinh thể, Rachel và tôi vẫn là một thực thể. Nhưng chúng tôi chỉ là điểm xuất phát, cha mẹ của một đứa trẻ đã vượt xa nguồn gốc của nó. Peter Godin ước mơ giải phóng trí tuệ ra khỏi cơ thể. Lão tin rằng sự giải phóng này là khả thi bởi lão tin trí tuệ chỉ là tổng số các mối liên hệ thần kinh trong bộ não chúng ta. Andrew Fielding tin vào một điều khác: cái toàn thể lớn hơn tổng thể từng phần. Tôi vẫn chưa chắc chắn ai đúng. Việc chế tạo thành công Trinity dường như đã chứng minh là Godin đúng. Nhưng đôi khi lúc nửa đêm chập chờn giấc ngủ, tôi cảm thấy một sự hiện diện khác trong trí mình. Dư âm của một quan điểm không giới hạn tuyệt vời mà trước đây chỉ chợt thoáng hiện ra trong cơn hôn mê của tôi. Tôi ngờ rằng dư âm ấy là Trinity. Rằng, như Fielding đã tiên đoán, máy tính Trinity và tôi đã vướng vào nhau mãi mãi trong cái ranh giới bất ổn giữa thế giới mà tôi nhìn thấy xung quanh với thế giới hạ nguyên tử khẳng định những gì nhìn thấy. Rachel không thích nói về điều này, nhưng nàng cũng cảm thấy nó. Như Peter Godin đã tiên đoán, Trinity “mới” cũng không cho phép bản thân nó tách ra khỏi mạng Internet. Nó duy trì liên kết với những máy tính quốc phòng chiến lược trên toàn thế giới và bằng cách đó đảm bảo sự tồn tại của nó. Nhưng nó cũng không đe dọa ai. Gần đây, Trinity tiết lộ với các nhà lãnh đạo trên thế giới rằng nó đang cố gắng xác định phương pháp cộng sinh hiệu quả nhất giữa trí thông minh có cơ sở sinh học với trí thông minh có cơ sở máy móc. Máy tính Trinity không phải là Chúa và nó cũng không tự tuyên bố như thế. Thế nhưng con người cũng không nhanh chóng bỏ qua khả năng này. Đến nay, 4183 website về Trinity đã nở rộ khắp thế giới. Một số website do môn đồ giáo phái New Age, những người quảng cáo tính thần thánh của cỗ máy này điều hành, số khác do những người theo trào lưu chính thống quản lý, nhóm này liệt kê hàng loạt “bằng chứng” chứng minh rằng Trinity là kẻ Phản Cơ Đốc mà sách Khải huyền đã tiên đoán. Cũng có nhiều website thuần túy kỹ thuật: chúng theo dấu các bước đi của Trinity qua mạng máy tính trên khắp thế giới, lập bản đồ các hành động của trí thông minh siêu nhân loại đầu tiên trên hành tinh này. Bản thân Trinity cũng viếng thăm tất cả các website đó, nhưng không để lại ý kiến nào. Một trong những nỗi lo lớn nhất của Trinity là không tránh khỏi ngày có một máy tính khác cũng dựa trên cơ sở MRI nhảy lên mạng tại một nơi nào đó trên thế giới. Để đề phòng điều ấy xảy ra, Trinity theo dõi tất cả các tín hiệu lưu thông trên toàn cầu. Nhưng cũng như sự phát triển của vũ khí hạt nhân, nếu chỉ dùng các biện pháp thuần túy kỹ thuật thì không thể đảm bảo sự tuân thủ. Bản chất con người là thế, nhất định sẽ có những người chế tạo một Trinity khác. Người ta nói rằng dân Đức - những người có thể đã tiếp cận công nghệ Siêu MRI của Jutta Klein từ trước - đã có một nguyên mẫu vận hành ở viện Max Planck tại Stuttgart, một cỗ máy được cách ly cẩn thận khỏi Internet. Lại có tin đồn rằng người Nhật đang theo đuổi một dự án trên đảo Kyushu. Dường như không thể hiểu nổi tại sao các nước dám làm điều này bất chấp Trinity có thể áp đặt đòn trừng phạt khủng khiếp. Thực tế họ đã tiến xa trên con đường chứng minh cho luận điểm của Peter Godin rằng con người không thể kiểm soát được bản thân với tinh thần trách nhiệm. Cái viễn cảnh có nhiều máy tính Trinity xung đột với nhau thật khủng khiếp. Người ta vẫn chưa biết những máy tính được đồn đại là đang phát triển ấy dựa trên mẫu thần kinh đàn ông, đàn bà hay hợp nhất. Những trí tuệ của con người đơn lẻ được trang bị một sức mạnh như thế có đủ tiến hóa vượt qua các bản năng còn sót lại để cùng tồn tại trong phạm vi hạn chế của thế giới không? Tôi không phải là người lạc quan. Nhưng có lẽ họ không thừa nhận thế giới là hạn chế. Về mặt lý thuyết, nguồn kiến thức là vô tận. Có lẽ Trinity có thể thật sự chấm dứt được chiến tranh chăng. Bây giờ tôi xin gửi lại mối lo lắng ấy cho người khác. Khi người ta hỏi tôi những giấc mơ - hay hoang tưởng - của tôi có thật hay không, tôi trả lời như thế này: tôi không dám chắc, nhưng tôi đã tìm thấy các đầu mối ở nhiều địa điểm khác nhau. Một trong những đầu mối tốt nhất tôi nhận được ở một nguồn tưởng tượng bất ngờ nhất. Trong vòng ba tháng qua - trong khi tôi viết câu chuyện kể về những trải nghiệm với Trinity của tôi - thì máy tính Trinity ra lệnh kiến tạo một nguyên mẫu Trinity thứ hai dùng để nghiên cứu. Bây giờ nó đứng cạnh vị tiền bối của nó trong nhà Cách ly ở White Sands, cách ly khỏi thế giới bên ngoài nhưng hoạt động hoàn hảo như một thực thể độc lập. Khi tôi biết việc phát triển chiếc máy tính thứ hai này, tôi viết một e-mail gửi Trinity. Trong bức thư đó, tôi nhấn mạnh rằng không có ai xứng đáng thể nghiệm trạng thái Trinity hơn Andrew Fielding, người đã biến nó thành khả thi. Nhưng Trinity đã đi trước cả tôi. Tuần trước, tôi bước qua một vòng người vũ trang đi vào tòa nhà Cách ly, tại đây tôi thấy hai quả cầu carbon đứng bên nhau. Tôi đã vừa kinh hãi vừa mong mỏi ngày này. Sợ hãi vì Andrew Fielding mà tôi sắp gặp chỉ có trí nhớ đến cái ngày ông được Siêu-MRI quét lần đầu tiên - cách đây chín tháng - điều này có nghĩa là tôi sẽ gặp phải tình trạng bối rối có một không hai, là phải thông báo cho một người rằng ông ấy đã bị giết chết. Tuy nhiên ký ức của tôi về Fielding bảo tôi rằng ông sẽ chịu được cú sốc này tốt hơn bất kỳ ai khác. Tôi đã đúng. Fielding nhắc tôi rằng ông đã có cuộc sống số theo chu kỳ trong máy tính Trinity, thậm chí ông còn suy luận một ngày nào đó - có lẽ một thế kỷ sau chăng - quá trình nghịch đảo của Trinity có thể được hoàn tất: một mẫu thần kinh được lưu trữ dưới dạng số hóa có thể được tải vào bộ não sinh học, hay sóng ướt. Nhưng điều thực sự vực Fielding dậy là cái tin ông đã đưa được tình yêu của đời mình ra khỏi Trung Hoa và cưới bà. Mẫu thần kinh của ông chỉ nhớ rằng ông vẫn mỏi mòn chờ đợi Lu Li trong vô vọng vì nghĩ bà còn bị kẹt lại ở Bắc Kinh. Tôi kể chuyện Lu Li trốn thoát khỏi những đội do thám của Geli Bauer, cuộc trốn chạy tuy không nhiều kịch tính như cuộc trốn chạy của tôi nhưng lại thành công hơn nhiều. Đêm ấy, chỉ vài giờ sau khi tôi rời khỏi căn nhà của Lu Li, bà đã nhẹ nhàng lẻn ra ngoài cùng với con chó bông mũm mĩm lông xoăn tít, và đi bộ băng qua Chapel Hill. Bà đến nhà một người Hoa có tiệm ăn mà bà cùng Fielding hay ăn tối ở đó. Gia đình này giấu bà trong nhà cho đến khi những vụ việc xung quanh Trinity được giải quyết. Khi tôi kể với Fielding tôi đã đưa Lu Li từ Bắc Carolina đến, và bà đang đứng chờ ngoài cửa, ông nói cho ông xin mấy phút để chỉnh trang lại trước khi bà đến trước ống kính camera. Lời đề nghị làm tôi sửng sốt, nhưng lúc đó tôi nhận ra một máy tính có thể có “tính người” đến mức nào. Nói chuyện với mẫu thần kinh Peter Godin giống như nói chuyện với máy; nhưng sau đó nói chuyện với Godin thì ông ta vẫn như cũ. Nhưng Andrew Fielding thì lại khác, là một tính cách lập dị có tiếng về trí thông minh và cảm tình nồng hậu. Ngay cả trong giọng tổng hợp của mẫu thần kinh của ông, tôi cũng nghe thấy sự sắc sảo của con người đã lưu lại một poster từ câu lạc bộ Newcastle, nơi ông đã xem Jimi Hendrix chơi năm 1967. Trong khi Fielding trấn tĩnh lại, chúng tôi điểm lại số phận những người đã cùng chúng tôi làm việc cho Trinity. Zach Levin bị Geli Bauer đâm ngay cạnh cửa nhà Cách ly, nhưng anh đã hồi phục. Bây giờ anh trở lại cương vị trưởng ban nghiên cứu thiết kế cho Siêu máy tính Godin. Skow đã bị NSA thải hồi, nhưng có tin đồn gã đang viết một cuốn tiểu thuyết dựa trên những kinh nghiệm trong cơ quan tình báo siêu mật này. Giống như Skow, Geli Bauer biết quá nhiều về các vấn đề bí mật quốc gia nên không thể đối mặt với một phiên tòa dân sự để trả lời về cái chết của Fielding. Sau những cuộc thẩm vấn mở rộng của NSA và cơ quan mật vụ, Geli lặng lẽ biến mất. Tôi muốn nghĩ rằng tòa án đã tóm được Geli tại một nơi nào đó, nhưng tôi ngờ ả đang làm việc trong phân bộ an ninh thuộc một công ty đa quốc gia nào đó. Khi Fielding bảo tôi ông đã sẵn sàng gặp Lu Li, tôi nói lời tạm biệt thân ái, rồi quay người dợm bước ra cửa. “David?” giọng nói tổng hợp vang lên sau lưng tôi. Tôi dừng lại và nhìn vào quả cầu. “Vâng?” “Anh có còn bị những hoang tưởng quấy rầy nữa không?” “Tôi không bị thêm lần nào nữa.” “Thế còn chứng ngủ rũ?” “Hết rồi.” “Thế thì tốt. Anh nói tôi nghe... anh có còn băn khoăn những giấc mơ của anh là thật hay không?” Tôi ngẫm nghĩ. “Chúng là thật đối với tôi. Đó là tất cả những gì tôi biết.” “Đó là tất cả những gì anh muốn biết phải không?” Đây đúng là kiểu Fielding. “Ông có thể nói cho tôi biết nhiều hơn à?” “Có thể.” “Được rồi. Vậy ông nói đi.” “Anh có nhớ giấc mơ đầu tiên cứ trở đi trở lại không. Người đàn ông liệt trong một căn phòng tối đen như mực?” “Tất nhiên là nhớ.” “Anh bảo tôi rằng ông ta trông thấy sự ra đời của vũ trụ, Big Bang, một vụ nổ lớn giống như bom khinh khí, dãn ra với tốc độ kinh hoàng, thế chỗ của Chúa.” “Phải.” Tôi bước vài bước lại gần quả cầu. “Anh nói anh cảm thấy như đó là một ký ức. Và như thể chính anh nhìn thấy. Nhìn thấy nó như Chúa nhìn thấy nó. ” “Đúng.” “Nhưng anh đã không nhìn thấy.” “Ý ông muốn nói gì?” “Anh đã không nhìn thấy như nó thật sự xảy ra.” “Tại sao ông biết?” “Bởi vì trong vòng hai trăm triệu năm đầu tiên sau Big Bang, trong vũ trụ không có ánh sáng.” Tôi thấy da mình ớn lạnh. “Sao?” “Hình ảnh quả cầu lửa khổng lồ là một quan niệm sai lầm phổ biến, ngay cả trong những nhà vật lý. Nhưng thuở ban đầu, vũ trụ hầu như gồm toàn nguyên tử hydro, nó hấp thụ hết mọi ánh sáng. Phải mất hai trăm triệu năm mới có một ngôi sao đầu tiên lóe sáng, nhờ có lực hấp dẫn nén hydro lại. Như vậy Big Bang khác rất nhiều so với cái mà anh ‘nhớ’ về nó. Nó là một vụ nổ lớn nhưng... không ai thấy được điều gì. Chắc chắn không phải là một quả cầu lửa hạt nhân.” Tôi đứng chăm chú nhìn những tia laser màu xanh lóe lên trong quả cầu, một cảm giác tê dại trên các đầu ngón tay. “Ông đang nói rằng tất cả những gì tôi mơ đều do trí óc của tôi tạo ra?” “Không. Phần lớn những giấc mơ của anh về vũ trụ là thật. Và phần còn lại cũng có thể là thật. Tôi chỉ vạch ra một sự thật. Một sai biệt nhỏ. Những giấc mơ của một người là việc riêng của anh ta. Tôi rất tin vào những giấc mơ. Chúng đưa tôi đi khá xa trong thế giới thực tại. Cũng như với anh vậy. Chúng đã cứu sống anh. Có lẽ cả hàng triệu mạng người khác. Bởi vậy đừng lo lắng quá nhiều về nó.” Tôi không biết phải nói sao. “Tôi tin rằng tôi đã đúng khi nói điều này với anh. Tôi không muốn suốt đời anh sống với phức cảm Jesus. Hãy trở lại làm một bác sĩ. Tiên tri là một công việc cô đơn.” Levin và đội ngũ của anh chưa tổng hợp được tiếng cười thực, chứ nếu anh làm được, chắc hẳn tôi đã được nghe một tiếng cười khúc khích lúc tôi đi ra. Ngoài cửa, Lu Li đang đứng đợi. Hôm nay bà mặc bộ quần áo đẹp nhất và đang cười lúng túng. Bà nhìn vào mắt tôi để dò xem có manh mối mơ hồ nào về chuyện đang đợi bà không. “Ông ấy đã sẵn sàng đón tôi chưa, anh David?” Tôi gật đầu và mỉm cười. Tiếng Anh của bà đã tiến bộ rất nhiều trong ba tháng qua. “Ông ấy có... anh biết đấy, có ổn không?” Mắt bà rơm rớm. “Ông ấy nhớ bà.” “Tốt. Tôi có chuyện cần nói với ông ấy.” Nụ cười của bà nở rộng. “Một chuyện chắc sẽ làm cho ông ấy rất vui.” “Chuyện gì vậy?” Lu Li lắc đầu. “Tôi phải nói với ông ấy trước đã. Rồi mới đến anh.” Bà đi lướt qua tôi, vào tòa nhà Cách Ly. Tôi bước ra ngoài ánh nắng sa mạc và nhìn về phía nhà để máy bay làm phòng hành chính. Rachel đang ngồi trên nắp ca pô của chiếc xe Ford mà chúng tôi mới thuê, nàng vận quần jean xanh và áo sơ mi trắng, trông rất giống khi nàng gọi tôi vào cái ngày phòng khám của nàng bị lục soát. Nàng trượt xuống khỏi ca pô và bước lại gần tôi với nụ cười thận trọng. “Anh ổn chứ?” Tôi gật đầu. Trí óc tôi vẫn còn vương vấn với những lời lẽ cuối cùng của Fielding. Nếu các giấc mơ của tôi thật sự là hoang tưởng, như Rachel đã luôn khẳng định, thì tôi sẽ có hàng loạt câu hỏi thắc mắc tại sao tôi biết những sự việc nào đó. Nhưng có một điều chắc chắn, tôi có thể quên đi tất cả chuyện đó để tâm hồn mình được thanh thản. “Anh có chắc không?” Rachel vừa đưa một tay ôm eo tôi vừa hỏi. Nàng luôn thận trọng tránh chỗ vai đau của tôi. “Fielding đã nói gì?” “Ông ấy bảo anh trở lại hành nghề bác sĩ.” Nàng cười, đôi mắt đen sẫm của nàng ánh lên trong nắng. “Em đồng ý với ông ấy.” Nàng đưa cánh tay còn lại ôm vòng qua eo tôi, kéo tôi sát lại người nàng. “Dù cho anh cần làm gì cũng vậy. Ý em là thế.” Tôi nhìn lại nhà Cách ly, rồi hôn lên trán nàng. “Em chính là người anh cần.”