ào lúc 7giờ 16 phút tối, Leapman tắt điện trong phòng làm việc của mình và bước ra hành lang. Ông ta đóng cửa lại, nhưng không khoá. Ông ta bước về phía thang máy, và biết rõ chỉ còn một vệt ánh sáng duy nhất hắt ra từ dưới chân cánh cửa văn phòng chủ tịch. Ông ta bước vào một buồng thang máy không có người và nhanh chóng xuống dưới tầng trệt. Ông ta chầm chậm bước lại quầy tiếp tân và ký vào sổ theo dõi. Lúc đó là 7 giờ19 phút. Một người phụ nữ đứng sau ông ta tiến lên ký vào sổ khi Leapman lùi lại một bước, mắt ông ta vẫn không rời hai người bảo vệ sau quầy. Một người đang theo dõi dòng người chầm chậm rời khỏi toà nhà, trong khi người kia thì đang nhận một gói hàng cần phải có ký nhận. Leapman tiếp tục lùi cho đến khi ông ta tới chiếc thang máy không người. Ông ta bước vào trong và đứng sang một bên để hai người bảo vệ không thể trông thấy mình. Ông ta bấm nút 31. Không đầy một phút sau, ông ta đã bước ra một hành lang vắng lặng. Ông ta đi về phía cuối hành lang, mở cánh cửa thoát hiểm ra và bước lên các bậc cầu thang tới tầng ba mươi hai. Ông ta đẩy nhẹ cánh cửa, cố không gây tiếng động nào dù là nhỏ nhất. Rồi ông ta rón rén đi dọc chiếc hành lang dài trải thảm về phía phòng mình. Ông ta nhìn quanh, chỉ có một vệt sáng mờ hắt ra từ dưới chân chiếc cánh cửa của văn phòng chủ tịch. Ông ta khẽ đẩy chiếc cánh cửa phòng mình, bước vào trong và khoá lại. Ông ta ngồi xuống chiếc ghế sau bàn làm việc, nhưng không bật đèn. Ông ta ngồi trong bóng tối và kiên nhẫn chờ đợi. Fenston đang cân nhắc đơn xin vay tiền của một người tên là Michael Karraway. Người này muốn vay 14 triệu đôla để đầu tư vào các nhà hát địa phương. Ông ta là một nghệ sỹ thất nghiệp không tên tuổi. Nhưng bù lại, ông ta có một bà mẹ luôn nuông chiều ông ta, và đã để lại cho ông ta một bức tranh của Matisse, Nhìn từ phòng ngủ, và một trang trại rộng một nghìn mẫu ở Vermont. Fenston ngắm nhìn người phụ nữ trẻ khoả thân đang nhìn ra ngoài cửa sổ trong bức tranh và quyết định sẽ chỉ đạo Leapman soạn thảo một bản hợp đồng. Fenston đặt tờ đơn sang một bên và bắt đầu xem xét kỹ catalog mới nhất của hãng Christie. Ông ta dừng lại một lúc trước bản chụp bức tranh Vũ nữ trước gương của Degas, nhưng rồi lật ngay sang trang khác khi thấy nó được định giá quá thấp. Suy cho cùng, Pierre de Rochelle đã cung cấp cho ông ta một bức của Degas, Người dạy nhảy, với một cái giá hợp lý hơn nhiều. Fenston tiếp tục xem xét giá cả của từng bức tranh, và một nụ cười thường xuất hiện trên môi ông ta mỗi khi ông ta thấy bộ sưu tập của mình đang lên giá như thế nào. Ông ta nhìn đồng hồ: 7 giờ 43 phút. “Chết tiệt”, Fenston chửi thề vì nhận thấy rằng ông ta có nhiều khả năng sẽ bị muộn, không kịp để đọc bài phát biểu của mình tại bữa tiệc của các chủ nhà băng. Ông ta cầm cuốn catalog lên và đi vội ra phía cửa. Ông ta nhập mật mã gồm sáu con số lên bảng mã gần công tắc điện, bước ra hành lang và đóng cửa lại. Tám giây sau khi Fenston khoá cửa, ông ta nghe thấy tiếng những tấm lưới bảo vệ hạ xuống. Lúc ở trong buồng thang máy khi đi xuống, Fenston ngạc nhiên khi thấy bức Những người quét đường của Caillebotte lại được định giá thấp như vậy. Ông ta đã kiếm được một phiên bản lớn hơn với cái giá bằng một nửa từ một khách hàng vừa bị ông ta làm cho phá sản trong thời gian gần đây. Khi cửa buồng thang máy mở ra, ông ta đi vội tới quầy tiếp tân và ký vào sổ theo dõi. 7 giờ 48 phút tối. Trong lúc sải bước qua sảnh, ông ta có thể nhìn thấy người lái xe riêng của mình đang chờ ở dưới chân thềm. Ông ta vẫn chăm chú vào cuốn catalog trong khi leo lên xe và ngồi vào ghế sau. Ông ta cảm thấy bực mình khi giở sang trang bên và thấy bức tranh Thợ gặt trên đồng của Van Gogh, được định giá thấp, 27 triệu đôla. Ông ta chửi thề. Nó không cùng loại với bức Chân dung người cụt tai. “Xin lỗi ngài”, người lái xe nói, “nhưng ngài vẫn đi dự bữa tiệc của hiệp hội ngân hàng chứ ạ?”. “Ừ, vì thế phải nhanh lên”, Fenston vừa nói vừa giở sang trang khác của cuốn catalog. “Nhưng mà…”, người lái xe vừa nói vừa cầm một tấm thiếp có nhũ vàng từ chiếc ghế bên cạnh lên. “Nhưng mà cái gì?”, Fenston hỏi. “Giấy mời nói là mặc áo xmôckinh”. Anh ta quay lại phía sau và đưa tấm thiếp cho Fenston. “Chết tiệt”, Fenston nói và vứt cuốn catalog sang một bên. Nếu còn Tina thì chắc chắn là chị đã chuẩn bị áo xmôckinh cho ông ta. Ông ta nhảy ra khỏi xe, trước cả khi người tài xế kịp mở cửa sau, và nhảy qua hai bậc thềm một tới cửa ra vào, đi nhanh qua quầy tiếp tân, và không dừng lại để ký sổ. Ông ta đi vội tới chiếc thang máy đang chờ và bấm nút lên tầng ba mươi hai. Khi bước ra khỏi thang máy, thứ đầu tiên ông ta nhận thấy là một vệt ánh sáng thoát ra từ dưới khe cửa văn phòng của mình. Ông ta có thể thề là đã tắt điện sau khi đặt chuông báo động, hay là ông ta đã quá chú tâm vào cuốn catalog và đã quên làm chuyện đó? Ông ta vừa chuẩn bị nhập mã số vào bảng mã bên cánh cửa thì nghe thấy một tiếng động phát ra từ bên trong. Fenston lưỡng lự, băn khoăn không hiểu đó là kẻ nào. Ông ta đứng yên trong khi chờ để xem kẻ đột nhập có phát hiện ra sự có mặt của mình không. Không. Ông ta thận trọng lùi lại, lách mình vào căn phòng bên cạnh và nhẹ nhàng khép cửa lại. Ông ta ngồi xuống ghế của cô thứ ký của mình và bắt đầu tìm chiếc công tắc. Leapman đã cảnh báo với ông ta rằng Tina có thể theo dõi mọi thứ diễn ra trong phòng ông ta. Sau khi tìm kiếm một lúc, ông ta đã phát hiện ra chiếc công tắc dưới chiếc bàn làm việc. Ông ta bật chiếc công tắc, và một màn hình nhỏ ở góc bàn sáng lên. Ông ta có thể nhìn rõ toàn bộ bên trong căn phòng của mình. Fenston nhìn chằm chằm vào màn hình và không tin ở mắt mình. Leapman đang ngồi ở bàn làm việc của chủ tịch, với một tập hồ sơ trước mặt. Ông ta đang chầm chậm lật từng trang, đôi khi dừng lại đọc kỹ một đầu mục nào đó, và lúc lúc lại lấy ra một tờ giấy nào đó từ tập hồ sơ, đặt lên bàn và chụp ảnh bằng một thiết bị nào đó trông giống như một chiếc máy ảnh kỹ thuật cao. Nhiều suy nghĩ lướt qua đầu Fenston. Chắc chắn Leapman đang thu thập tài liệu, để một lúc nào đó sẽ tống tiền ông ta. Có thể Leapman đang muốn bán tài liệu cho một ngân hàng đối thủ nào đó. IRS cuối cùng đã xiết được Leapman và buộc Leapman phải đánh đổi ông chủ của mình để lấy sự an toàn. Nhiều khả năng là tống tiền. Rõ ràng Leapman không vội. Ông ta đã tính toán để chọn thời điểm này. Sau khi kết thúc với một tập hồ sơ, ông ta trả nó lại chỗ cũ và chọn một tập hồ sơ khác. Cách làm của ông ta vẫn không có gì thay đổi: chầm chậm xem kỹ nội dung, nghiên cứu cẩn thận một số mục nào đó, và lúc lúc lại lấy ra một tờ nào đó trong tập hồ sơ rồi chụp ảnh. Fenston cân nhắc một vài phương án giải quyết, trước khi cuối cùng lựa chọn một cách làm mà ông ta cho là xứng đáng với Leapman. Đầu tiên, Fenston viết ra trình tự của các sự kiện cần có để đảm bảo ông ta không bị mắc kẹt. Sau khi tin chắc rằng mình đã nắm vững trình tự đó, ông ta tắt một chiếc công tắc để chặn mọi cuộc gọi đến và đi từ văn phòng của mình. Ông ta kiên nhẫn ngồi đợi tại bàn làm việc của thư ký cho đến khi ông ta thấy Leapman mở một tập hồ sơ khác. Ông ta lẻn ra hành lang, và dừng lại trước cánh cửa văn phòng của mình. Fenston nhẩm lại trình tự đã sắp đặt trong đầu mình, rồi bước lên phía trước. Đầu tiên, ông ta nhập mã số chính xác, 170690, lên bảng mã, như thể ông ta đang chuẩn bị ra về. Rồi ông ta xoay chìa khoá trong ổ và thận trọng hé mở chiếc cánh cửa ra, không quá 1 inch. Sau đó ông ta ngay lập tức đóng cửa lại. Tiếng chuông báo động chói tai vang lên, và Fenston đợi tám giây cho đến khi các tấm lưới bảo vệ đã hạ xuống. Rồi ông ta nhanh chóng nhập mã số của tuần trước, 170680, mở cánh cửa ra rồi đóng lại ngay. Ông ta có thể nghe thấy tiếng Leapman chạy qua căn phòng; rõ ràng Leapman hy vọng rằng nếu nhập mã số chính xác, ông ta có thể khiến chuông báo động ngừng kêu và khiến các tấm lưới bảo vệ rút lên trần. Nhưng đã quá muộn, bởi vì các tấm lưới bảo vệ đã bám chặt xuống sàn, và những tiếng chuông báo động chói tai vẫn vang lên dồn dập. Fenston biết mình chỉ còn vài giây để kết thúc việc này mà không bị bắt. Ông ta chạy trở vào phòng bên cạnh và vội đọc lướt qua những ghi chú mà ông ta đã để lại trên bàn làm việc của thư ký. Ông ta quay số báo động khẩn cho công ty bảo vệ Abbott. Một giọng nói cất lên: “Trực ban xin nghe”. “Tôi là Bryce Fenston, chủ tịch ngân hàng Fenston Finance”. Ông ta nói một cách chậm rãi, nhưng bằng một giọng thể hiện quyền lực. “Chuông báo động đã bị kích hoạt tại văn phòng của tôi trên tầng ba mươi hai. Có lẽ tôi đã nhập mã số của tuầnquo;Suy cho cùng, phần lớn các tài liệu liên quan đều không còn sau khi Tháp Bắc sụp đổ”. “Đúng vậy”, Macy nói, “nhưng nếu ông ta làm thế, tôi đã nói rõ với ông ta rằng ông ta chỉ còn nước ngồi tù cho đến hết đời tại Sing Sing”. “Có vẻ như đó là một sáng kiến”, Anna nói. “Leapman cũng đồng ý trở thành người làm chứng của chính phủ”, Jack nói, “nếu vụ việc được đưa ra toà”. “Vậy thì hãy tỏ lòng biết ơn khi Krantz đã bị bắt giữ, nếu không người làm chứng quý giá của các ông cũng chẳng làm gì nổi Fenston”. Macy nhìn Jack, và không che giấu nổi sự ngạc nhiên của mình. “Cô chưa đọc ấn bản của tờ Thời báo New York sáng nay à?”, ông ta quay sang Anna hỏi. “Chưa”, Anna thú nhận. Cô vẫn chưa hiểu họ đang nói về chuyện gì. Macy mở tập hồ sơ trước mặt, lấy ra một bài báo và đưa cho Anna. Olga Krantz, được biết tới như là một sát thủ chuyên sử dụng dao làm bếp làm vũ khí giết người và vai trò đồ tể của cô ta trong chế độ tàn bạo của Ceausescu, đã tẩu thoát khỏi một bệnh viện được canh gác nghiêm ngặt ở Bucharest vào tối hôm qua. Người ta cho rằng Krantz đã trốn đi trong một bộ quần áo của nhân viên bốc vác trong bệnh vện. Sau đó người ta đã phát hiện thấy một sỹ quan cảnh sát canh gác cô ta… “Tôi sẽ phải liên tục ngoái nhìn qua vai trong suốt phần đời còn lại của mình”, Anna nói, trước cả khi cô đọc xong đoạn cuối. “Tôi không nghĩ vậy”, Jack nói. “Krantz sẽ không vội trở về Mỹ, khi cô ta đã có tên trong danh sách chín người bị FBI truy nã gắt gao nhất. Cô ta cũng sẽ nhận ra rằng chúng ta đã đưa mô tả chi tiết về cô ta tới mọi cửa ngõ ra vào nước Mỹ, cũng như cho Interpol. Nếu cô ta bị chặn lại và bị hỏi han, cô ta sẽ không thể giải thích được vết thương trên vai phải của mình”. “Nhưng điều đó cũng không ngăn được hành động trả thù của Fenston”. “Tại sao ông ta lại phải làm điều đó?”, Jack hỏi. “Một khi ông ta đã có bức tranh Van Gogh, và cô đã không còn gây nguy hiểm cho ông ta”. “Nhưng ông ta chưa có được bức Van Gogh”, Anna vừa nói vừa cúi đầu. “Cô muốn nói gì?”, Jack hỏi. “Tôi mới nhận được một cú điện thoại của Tina, ngay trước lúc tôi rời nhà tới đây. Chị ấy cảnh báo với tôi rằng Fenston đã gọi một chuyên gia của hãng Christie tới để định giá bảo hiểm cho bức tranh. Một chuyện mà trước đây ông ta chưa bao giờ làm”. “Nhưng thế thì có gì là lạ?”, Jack nói. Anna ngẩng đầu lên. “Bởi vì đó là tranh giả”. “Một bức tranh giả à?”, cả hai người đàn ông cùng lên tiếng. “Đúng thế, và đó là lý do tại sao tôi bay sang Bucharest. Tôi nhờ một người bạn, một hoạ sỹ thiên tài về thể loại chân dung, sao một bản của bức tranh đó”. “Điều này giải thích tại sao trong phòng khách của cô lại có một bức tranh đẹp như vậy”, Jack nói. “Anh đã ở trong phòng khách của tôi à?”, Anna nói. “Chỉ khi tôi tin rằng cuộc sống của cô đang bị đe doạ”, Jack trầm giọng nói. “Nhưng...”, Anna bắt đầu. “Và điều này cũng giải thích”, Macy nói chen vào, “tại sao cô lại gửi một chiếc thùng màu đỏ tới London, thậm chí còn để hãng Art Locations tham dự vào và chuyển nó tới New York cho Fenston”. Anna gật đầu. “Nhưng cô phải biết rằng đến một lúc nào đó, ông ta cũng sẽ phát hiện ra chứ?”, Jack hỏi. “Đến một lúc nào đó, đúng vậy”, Anna nói. “Vấn đề là ở chỗ đó. Tất cả những gì tôi cần là có đủ thời gian để bán bức tranh gốc, trước khi Fenston biết rõ ý định của tôi”. “Vậy là khi người bạn Anton của cô đang sao lại bức tranh, cô bay sang Tokyo để tìm cách bán bản gốc cho Nakamura”. Anna gật đầu. “Nhưng cô có thành công không?”, Macy hỏi. “Có”, Anna nói. “Nakamura đồng ý mua bản gốc với giá 50 triệu đôla, như thế là thừa đủ để Arabella thanh toán hết các món nợ của chị mình với Fenston Finance trong khi vẫn giữ được toàn bộ những gì còn lại của Lâu đài”. “Nhưng bây giờ khi Fenston đã biết rằng ông ta đang giữ một bức tranh giả, ông ta sẽ liên lạc với Nakamura và nói cho ông ta biết ý định của cô”. “Ông ta đã làm thế”, Anna nói. “Vậy là cô về số không”, Macy nói. “Khôi xuống để nhặt tờ tiền lên, và đến khi anh ta đứng lên, với một nụ cười trên mặt, Krantz đã ngồi dậy và đang chờ trên mép giường. Anh ta vừa định cho tờ tiền vào túi thì Krantz nắm lấy mái tóc dầy của anh ta bằng một tay, và bằng một động tác thành thục, cắt đứt họng anh ta bằng tay còn lại với chiếc kéo của viên bác sỹ. Không phải là vũ khí hiệu quả nhất, nhưng là thứ duy nhất mà cô ta có. Anh ta ngã xuống đất, và nằm giữa vũng máu của chính mình, trong khi vẫn nắm chặt tờ đôla trong tay. Krantz rời khỏi giường, nhanh chóng tháo chiếc chìa khoá mà cô ta cần từ chùm chìa khoá của anh ta, chạy lại phía cửa và khoá lại. Cô ta kéo chiếc giường lại gần, chỉ vài inch, và nhìn lên chiếc cửa sổ nhỏ không khoá. Krantz muốn tìm hiểu mức độ rủi ro trong công việc mà cô ta sắp làm. Cô ta chạy ba bước tính từ cửa, nhảy lên tấm đệm, trèo lên thành giường, như thể đó là một thanh xà, tung người lên như một vận động viên nhào lộn, và luồn hai chân qua cửa sổ. Cô ta bị kẹt, một nửa ở trong, một nửa ở ngoài. Krantz xoay người, vặn vẹo một lúc, cuối cùng cô ta đã chui qua được chiếc cửa sổ nhỏ và bám chặt tay vào mép cửa. Không nhìn xuống, không chần chừ. Cô ta thả tay ra, rơi qua hai tầng nhà xuống một luống hoa, và lăn tròn như thể cô ta vừa thả tay rơi xuống từ một chiếc xà cao. Cô ta nhanh chóng đứng lên và chạy về phía bức tường được chăng dây thép gai, cũng là lúc người lính gác nghiện thuốc lá mở cửa ra để xem tại sao đồng đội của anh ta lại lâu đến vậy. Mấy giây sau, tiếng còi báo động vang lên, và toàn bệnh viện ngập trong ánh đèn pha, giống như một sân bóng trong một trận đấu đêm. Krantz chỉ còn cách mục tiêu của mình vài thước khi cô ta nghe thấy tiếng chó sủa đầu tiên. Không bao giờ nhìn lại, bởi vì điều đó sẽ làm giảm tốc độ. Krantz nhảy lên nắm lấy lớp dây thép gai, và những con chó đầu tiên cũng nhảy lên theo cô ta. Nhưng chúng chỉ còn biết sủa theo khi con người kia gác chân qua lớp dây thép gai trần và nhanh chóng rơi xuống phía bên kia bức tường. Ba người lính gác đã chạy đến chân tường, nhưng không ai dám bắt chước kẻ đào tẩu. Một người trong số họ rút súng ra khi Krantz bắt đầu chạy qua đường. Anh ta bắn phát thứ nhất – rất gần, nhưng chưa đủ. Và đến khi anh ta bóp cò lần thứ hai thì cô ta đã mất hút trong rừng. Viên bác sỹ trẻ quỳ xuống bên cái xác để tìm hiểu xem thứ vũ khí giết người mà kẻ sát nhân sử dụng là gì. Anh ta phát hiện thấy chiếc kéo của mình trong gầm giường, và vội vàng cho chiếc kéo vào túi áo khoác. Anh ta nhìn lên và thấy người lính gác nghiện thuốc lá đang đứng nhìn chiếc cửa sổ nhỏ bằng một vẻ mặt kinh ngạc. Rồi anh ta nhớ ra. Cô ta từng là vận động viên trong đội tuyển Olympic. Chú thích
3Điều luật của Mỹ quy định các sỹ quan cảnh sát phải cho người tình nghi biết một số quyền lợi pháp lý của mình trước khi bắt giữ và thẩm vấn họ (ND).
3Điều luật của Mỹ quy định các sỹ quan cảnh sát phải cho người tình nghi biết một số quyền lợi pháp lý của mình trước khi bắt giữ và thẩm vấn họ (ND).