Trên đường đến kinh, vợ của Thế Khiêm đã nghiêm khắc cảnh cáo Tịnh Nhi là tuyệt đối không được cho Thế Khiêm biết một tí gì về Uyển Thanh. Nó chỉ được báo cáo theo những gì nàng đã dặn dò. Đương nhiên là Tịnh Nhi nhất dạ nghe theo không dám cãi lời. Vợ của Thế Khiêm tuy là người đàn bà ít học nhưng nhiều thủ đoạn. Có đủ cách để bắt kẻ dưới phải răm rắp nghe theo. Trước kia ở quê nhà, phía trên còn có Dịch lão gia và lão phu nhân, còn bây giờ trên đường đi thì toàn quyền nàng sanh sát. Tịnh Nhi chỉ biết tuân lệnh. Có điều ngoài mặt là vậy, nhưng trong lòng nó lúc nào cũng bứt rứt. Cái hình ảnh Uyển Thanh trong lớp vải thô với những sợi bông vải dính đầy người, rồi cảnh nghèo hèn với khuôn mặt hốc hác vì thiếu ăn và đôi mắt đợi chờ của Uyển Thanh. Rồi đến ánh mắt giận dữ, khổ đau, ói ra máu vì uất hận khi nghe Thế Khiêm bạc tình. Cái vuông lụa với huyết thư. Nghĩ đến là Tịnh Nhi thở dài và tự nhủ: "Thế này là cô ấy không sống nổi đâu". Và rồi Tịnh Nhi cảm thấy mình tội lỗi vô cùng vì là kẻ đồng lõa với sát thủ. Nó bứt rứt, buồn bã, tự trách mình sao trước đó không mạo hiểm đến Điệp Mộng Lâu tìm hiểu trước. Mà ai biểu cái số là đầy tớ làm chi? Cũng tội Dương cô nưông là con người bạc số. Nếu cô ta ở trong cảnh giàu sang thì hẳn cô đã được đàng hoàng sánh duyên cùng Dịch công tử rồi. Bây giờ mọi sự đã trở thành chậm trễ, muộn rồi, chẳng làm sao cứu vãn được nữa. Và rồi, đoàn người cũng về đến kinh thành. Gia đình xum họp. Mọi người rộn rã hẳn lên. Gặp mặt, tiếp đón, hỏi han, sắp xếp chiếm hết phần lớn thời gian. Thế Khiêm thấy trong đám người không có Uyển Thanh, lòng buồn vô cùng. Trước mặt vợ lại chẳng tiện hỏi, chỉ đưa mắt ngầm hỏi Tịnh Nhi, nhưng nó lại cứ gầm mặt hoặc lảng nhìn sang nơi khác, điều đó khiến Thế Khiêm càng bất an. Đêm hôm ấy cùng vợ ở trong phòng riêng, nàng đã tự động nói trước một cách bình thản. - Đúng ra thì em đã đưa Dương cô nương lên cùng với em, nhưng bảo Tịnh Nhi đi tìm và tìm mãi không thấy. Nghe đâu cô ta đã đi Hồ Châu, trở lại nghề cũ rồi. Thật tội nghiệp! Sau đó, khi bọn này sửa soạn lên kinh thì cô ấy lại quay về Hàng Châu, trở lại Điệp Mộng Lâu. Nghề cũ quen rồi, khó mà trách cô ta. Thôi thì mặc cô ấy vậy. Gái thanh lâu thường chẳng an phận bao giờ. Thế Khiêm nghe vậy bán tín bán nghi, gọi Tịnh Nhi đến hỏi thì Tịnh Nhi cũng nói y như vợ của chàng đã nói. Thế Khiêm vừa giận vừa hận, hận nàng sao lại quên đi lời hứa khi xưa, hận chàng sao lại quá dễ tin tưởng những lời thề vô nghĩa kia, chàng hận rồi lại buồn, nhưng không biết thố lộ cùng ai. Trong khi vợ chàng lại rất thông minh thường an ủi chồng: - Người đẹp trong đời này không khó kiếm đâu chàng. Chầm chậm đi em sẽ tìm một người con nhà đàng hoàng làm thê thiếp cho anh, bảo đảm là sẽ ăn đứt Dương cô nương. Thế Khiêm không cách nào hơn là trách Uyển Thanh sao lại phản bội chàng như thế, rồi lại trách mình sao lại không thể đứng trước mặt nàng để nói lời cuối. Nhưng rồi công việc trong triều khá bận rộn, vợ nhà mới lên, rồi mọi chuyện cũng gác qua. Và như vậy chuyện kéo dài thêm nửa năm, vợ Thế Khiêm thấy Tịnh Nhi vẫn giữ kín miệng mồn nên yên tâm phần nào và lơ là cảnh giác. Lại thấy Thế Khiêm chí thú công việc và đang được đề nghị lên chức Biện Tu Viện Du Lâm và tưởng là chàng đã quên Uyển Thanh, mà quả thật Thế Khiêm rất bận rộn nhưng chàng làm là để quên Uyển Thanh, nhờ vậy cơ hội đợi chờ lâu nay của Tịnh Nhi đã đến. Hôm ấy, Thế Khiêm đi thăm quan khách có dẫn theo cận vệ và cả Tịnh Nhi. Trên đường về chàng lại nhớ còn quên chuyện gì đó nên bảo họ về trước, còn chàng và Tịnh Nhi quay trở lại triều đề hoàn thành việc chàng muốn làm. Vậy là chỉ còn hai thầy trò trên hai con tuấn mã. Tịnh Nhi thấy không còn ai theo dõi, nên đề nghị với Thế Khiêm: - Gia gia, chúng ta ra ngoại ô dạo một vòng trước có được không? Thế Khiêm ngạc nhiên hỏi: - Để làm gì? Tịnh Nhi cúi đầu nói: - Con có điều muốn bẩm báo với gia gia. Thế Khiêm nhìn thái độ của Tịnh Nhi, đã đoán được phần nào sự việc nên lặng lẽ cho ngựa đi trước. Hai thầy trò ra đến Tây Thành. Ngoài Tây Thành là ngoại ô với rừng cây. Bấy giờ là mùa thu nên cả rừng phong đỏ ối. Chủ tớ hai người thúc ngựa vào tận núi. Tịnh Nhi dừng ngựa lại, nhảy xuống, phủ phục ngay trước mặt Thế Khiêm: - Nô tài đáng chết đã không làm tròn trách nhiệm mà Gia Gia đã giao cho. Nô tài thật đáng chết! Thế Khiêm xuống ngựa, châu mày hỏi: - Mi nói vậy là sao? Chuyện gì thế? - Dạ, chuyện có liên quan đến Dương cô nương. Thế Khiêm giật mình: - Sao? Tịnh Nhi bắt đầu đem hết câu chuyện kể cho Thế Khiêm nghe. Nó đã kể hết tất cả sự việc từ chuyện Uyển Thanh vẫn ở trong ngôi nhà cũ mỏi mắt trông chờ Thế Khiêm với những khung dệt cùng bụi bông dính đầy. Cái thái độ lúc mới gặp Tịụnh Nhi, nỗi vui mừng rồi nỗi thất vọng đến độ ói ra máu. Tịnh Nhi lấy trong người ra chiếc vuông lụa đầy chữ dâng lên cho Thế Khiêm. Chàng nghe nói lòng quặn đau, cảm thấy trời đất quay cuồng. Rồi mở vuông lụa ra, tuy huyết máu đã đổi màu, nhưng càng đọc tim chàng càng rỉ máu. Thế Khiêm nắm chặt vuông lụa trong tay, nghiến răng, mắt đỏ ngầu. Chàng thẳng tay táng cho Tịnh Nhi một bợp tay nhá lửa. Tịnh Nhi bị đánh lăn trên đất, nó lồm chồm ngồi dậy phủ phục dưới chân chủ: - Gia gia, gia gia có giận dữ cứ đánh con, chửi con, nhưng xin người trước mặt phu nhân đừng nói lại những điều này. Riêng phần Dương cô nương còn ở dưới quê, xin gia gia hãy tìm cách nào đó cứu cô ấy ra càng sớm càng tốt. Lời của Tịnh Nhi như đánh bật Thế Khiêm. Chàng ngã người tựa vào thân cây già. Chàng ngước mắt lên trời hét to: - Trời ơi! Trời! Sao ông lại nở bất công thế này?! Tịnh Nhi khóc theo, nói: - Gia gia ơi, tất cả lỗi này đều là do nô tài không tốt, nô tài đáng tội chết! Chàng gục đầu không nói, một lúc sau mới tỉnh táo lại phần nào, chàng xếp bức huyết thư lại, nói: - Thôi mi hãy đứng dậy. Chuyện này không thể trách ngươi, cũng lỗi là do ở vợ ta và cũng là do số mệnh! Nào bây giờ hãy nói cho ta rõ, có phải là từ lúc ta đi Dương cô nương không có nhận được một đồng nào của gia đình ta, cũng không hề nhận được thư của ta phải không? - Dạ đúng, nghe nói hai chủ tớ của cô ấy chỉ sống bằng tiền dệt và thêu vải. Lúc con về đến, tất cả đồ đạc trong nhà sạch trơn. Thế Khiêm chảy nước mắt: - Tội Nghiệp cho nàng, phải ngậm đắng nuốt cay suốt mấy năm nay. Và bây giờ Dương cô nương đã trở về Điệp Mộng Lâu rồi? - Vâng, đúng vậy. Thế Khiêm đứng suy nghĩ thật lâu chẳng nói năng gì. Chàng đưa mắt về xa xa, rồi từ từ nói: - Vậy là cô ấy vẫn còn sống, đúng không? - Dạ đúng vậy. Thế Khiêm gật đầu: - Nếu vậy, chúng ta quay về phủ đi. Đến nơi ngươi không nên nói năng gì về chuyện này nghe không? - Dạ, đội ơn gia gia. Và rồi, sáng hôm sau, Thế Khiêm thảo tờ đơn, lấy lý do là song thân đã già yếu, chẳng ai chăm sóc trong ngoài, nên xin được từ quan trở về quê chăm nom cha me.! Hoàng thượng rất mến mộ chàng nên không cho từ quan, chỉ đặc cách cho chàng được về quê thăm cha mẹ ba năm, sau đó phải trở lên triều tiếp tục làm quan giúp đỡ triều đình. Thế Khiêm về phủ là chuẩn bị hành lý, vợ chàng ngạc nhiên hỏi: - Em vừa lên kinh không bao lâu mà chàng đã xin phép về quê, thế này là thế nào?? Thế Khiêm giận dữ nhìn vợ, hỏi lại: - Em có biết bốn chữ tam tòng tứ đức là gì không? Anh muốn về quê, còn em... em không muốn thì cứ ở lại đây! Vợ của Thế Khiêm nghe vậy sợ hãi, không dám cãi lời hoặc hỏi thêm gì cả. Bên bờ Tây Hồ, dương liễu một lần nữa lại xanh. Uyển Thanh bây giờ đã trở về nghề cũ đến nay đã đầy nửa năm. Tên tuổi của nàng còn vang dội hơn xưa. Đó là nhờ khi từ lúc trở về Thanh đã cởi bỏ cái lớp áo kiêu sa thủ tiếc, nàng đã buông lơi tất cả và luôn trữ tình như một cánh bướm, khiến khách mày râu phải đảo điên vì nàng. Tài sắc vẹn toàn, nào là tài cầm kỳ thi họa, tửu đều có đủ, hỏi gái thanh lâu nào còn theo kịp. Sự quyến rũ của nàng làm biết bao mệnh phu. phu nhân ghen tức. Uyển Thanh trở thành một danh kỹ ở Hàng Châu. Nàng sống là chỉ để trả thù bọn đàn ông quên ân phụ nghĩa. Và lúc đó, Dịch Thế Khiêm từ kinh đô trở về. Tối hôm ấy tại Điệp Mộng Lâu đám gia nhân vào bẩm báo. - Có Dịch công tử đến! - Dịch thiếu gia đến! Uyển Thanh đang tiếp khách trên lầu, đó là những thương gia lắm tiền nhiều bạc, đang cười nói vui vẻ thì nghe bên ngoài ồn ào, sau đó lại nghe ba tiếng "Dịch thiếu gia" lọt vào tai, nàng ngẫn người ra, hỏi: - Dịch thiếu gia nào vậy? Bội Nhi vội vã chạy ra rồi chạy vào nói: - Là Dịch Thế Khiêm! Uyển Thanh tái mặt. Cơn uất nghẹn đang dâng lên cổ, nhưng rồi lấy lại bình tĩnh, nàng cười nói: - Thì em hãy ra mời Dịch thiếu gia vào chung vui! Bội Nhi chạy ra cũng thản nhiên nói: - Dịch thiếu gia, tiểu thơ nhà tôi mời công tử vào chung vui. Thế Khiêm lòng trăm mối. Buồn vui có, không để ý đến ngoại cảnh. Vừa nhìn thấy Bội Nhi là vui mừng gọi: - Bội Nhi! Bội Nhi giả vờ không để ý hoặc nghe gì cả, bỏ đi vào trong. Thế Khiêm chỉ còn biết đi theo vào. Vừa đến nơi thì chàng đã sững sờ, Uyển Thanh trong bộ áo màu đỏ kiêu sa bó sát thân, đang ngồi trên đùi một ông khách, tay nâng ly rượu và miệng cười lả lơi. Màn kịch đó làm Thế Khiêm súyt ngất. Chàng vội lùi ra sau mấy bước, nhưng chưa kịp bao xa thì Uyển Thanh đã trông thấy, nàng liếc nhanh về phía chàng nói: - Dịch thiếu gia, mời vào chung vui. Bội Nhi em, hãy gọi Mộng Châu ra đây, để hầu rượu cho công tử, nghe không? - Vâng... Thế Khiêm không rút lui, liền nói nhanh với Bội Nhi: - Nếu tiểu thơ em có khách thì thôi, để tôi qua ngồi phòng bên chờ vậy. Uyển Thanh bước tới gần Thế Khiêm, lấy tay kéo Thế Khiêm lại, giả vờ nói: - Làm vậy coi sao được? Ai lại không biét Dịch thế gia đây là tân khoa tiến sĩ, mà đến đây quả là "phước phần" cho chúng tôi. Không thể để chờ được. Phải được tiếp đón ngay. Nào Bội Nhi, em hãy mang rượu ra đây mừng Dịch công tử ba chung! Thế Khiêm châu mày, lòng đau như cắt. Trong hoàn cảnh này, có lời cũng không thể nói được. Trước mặt chàng Uyển Thanh càng ra sức lả lơi, bọn khách được một dịp mê tít. Uyển Thanh như con thoi, từ tay người khách này đến khách kia rồi mới có rượu đến tay Thế Khiêm. Nàng ép chàng uống cạn ba ly, bản thân nàng cũng uống khá nhiều rượu. Uống xong lại cười một cách lả lơi. Thế Khiêm ngồi đó mà như ngồi trên lửa đỏ. Nhưng chàng biết là phải dằn lòng, phải bình tĩnh. Chàng lặng lẽ ngồi nhìn Uyển Thanh. Nàng như chú ý về cái nhìn của Thế Khiêm nên càng lả lơi hơn, lòng Thế Khiêm càng đau, càng hối hận. Cuối cùng đám khách kia cũng say khướt, lại biết thân thế của Thế Khiêm không phải vừa, nên họ đều rút lui cả. Tiệc tan, trong phòng còn lại Uyển Thanh, Bội Nhi, và Thế Khiêm. Uyển Thanh ra hiệu cho Bội Nhi, nó nhìn rồi đến trước mặt Thế Khiêm nói thật bình thản: - Dịch thiếu gia có cần ở qua đêm không? cứ cho biết. Nếu muốn thì theo lệ cứ để tiền lại, chúng ta có thể tính giá cả rõ ràng. Thiếu gia có mang theo tiền chứ? Thế Khiêm hết nhìn Bội Nhi rồi nhìn Uyển Thanh. Miệng như nghẹn lại, không nói được gì. Một lúc sau chàng mới quay mặt ra ngoài cửa, gọi thật to: - Tịnh Nhi! Tịnh Nhi vội bước vào. Thế Khiêm giận dữ nói: - Hãy nói sự thật cho Dương cô nương biết, lần trước ta sai mi về quê để làm gì? - Dạ để đón Dương cô nương về kinh. Tịnh Nhi vừa nói xong, nó qùy xuống trước mặt Uyển Thanh mang hết tất cả sự thật kể lại, bao gồm cả chuyện nhà gởi thư lên dối với Thế Khiêm về Uyển Thanh, không có cách nào để liên lạc cùng nàng nên Thế Khiêm đã cho nó về dò la tin tức, rước Uyển Thanh lên kinh thành nhưng không ngờ bị thiếu phu nhân bày kế bắt nó phải mang tiền đến cho Uyển Thanh không phải để giúp đỡ mà để hủy ước, lại cho hai người tâm phúc đi theo giám sát. Tịnh Nhi trình bày rõ ràng vợ của Thế Khiêm đã mưu mẹo thế nào để bắt chẹt nó phải làm theo, đã dùng mọi thủ đoạn để phá vỡ cuộc tình của Uyển Thanh vời chồng cho bằng được. Uyển Thanh càng nghe càng tái mặt đi, nàng lùi lại trừng mắt nhìn Tịnh Nhi: - Những lời mi nói hoan toàn là sự thật? Tịnh Nhi vừa khóc vừa nói: - Con xin bảo đảm là chẳng điều gì gian dối cả, tội con thật đáng chết. Nhưng Uyển Thanh đã quay lại nhìn thẳng vào mắt Thế Khiêm: - Không, ta không tin! đây là vở kịch các người dựng lên để lừa dối ta một lần nữa. Thế Khiêm nhìn Uyển Thanh vừa đau khổ vừa chua xót. Chàng nghẹn lời nói: - Nấu không phải là sự thật, thì tại sao anh vừa được thăng chức Biện Tu ở viện hàn lâm thì phải từ quan trở về đây là gì? Nếu không phải là sự thật thì tại sao lúc cho người về rước gia đình, anh không chọn ai mà lại chọn Tịnh Nhi? Uyển Thanh! Uyển Thanh, em hãy suy nghĩ kỹ đi rồi hãy bắt tội anh. Uyển Thanh đứng lặng, đứng như vậy thật lâu, chẳng một chút phản ứng nào cả. Rồi nàng cúi đầu nhìn xuống, bộ quần áo sặc sỡ của nàng, bất giác nàng đưa tay lên chận ngực, run rẩy, rồi khóc lớn, tiến khóc thật to, thật thảm thiết, uất hận thảm sầu. Thế Khiêm bước tới ôm chầm lấy Uyển Thanh cùng khóc với nàng. Bội Nhi và Tịnh Nhi đứng đó cũng khóc theo. Tiếng khóc ngập đầy cả phòng. Rất lâu, rất lâu sau đó Uyển Thanh mới nguôi ngoai một chút. Bội Nhi mang nướcđến cho nàng rửa mặt. Rửa xong, Uyển Thanh vào trong thay áo, sửa soạn lại, rồi bước đến ngơài trước mặt Thế Khiêm, thở dài nói: - Có lẽ là... Định mệnh đã quá khắt nghiệt với chúng ta. Thế Khiêm ứa lệ nhìn nàng. Chàng thật ngạc nhiên vì qua bao năm sóng gió, đau khổ vậy mà Uyển Thanh không già mà càng lúc càng lộng lẫy. Thế Khiêm đấy đối nhìn nàng để bù lại bao nhiêu năm xa cách nhớ nhung. Chàng nắm lấy tay nàng, ân cần an ủi: - Uyển Thanh, thôi em đừng buồn nữa, dù gì những ngày tháng cũ đó cũng đã qua rồi, từ đây về sau chúng ta sẽ làm lại tất cả. - Làm lại được sao anh? Uyển Thanh lẩm bẩm, ánh mắt xa vời - Anh có biết bây giờ em là gì không? cái tên tuổi xấu xa kia đã làm cho con người em hoen ố rồi anh ạ! Thế Khiêm nói: - Anh không lưu tâm điều đó, và từ đây không còn một thế lực nào có thể chi cách chúng ta! - Anh thật vẫn còn yêu em? - Vâng, lúc nào cũng rất yêu em. Uyển Thanh nhìn Thế Khiêm với cái nhìn rạng rỡ nhưng lại ẩn chứa buồn phiền. Nàng cười ngọt ngào, hạnh phúc nhưng cũng đầy ấp đắng cay. Uyển Thanh lại hỏi: - Anh không khinh thường em sao? Anh có biết Dương Liễu Thanh Thanh ngày nay đã là liễu tàn nhụy rữa rồi chăng? - Nhưng trong trái tim anh, em bao giờ vẫn sống mãi. Bây giờ em bị đưa đến mức này cũng là lỗi do anh chứ nào phải lỗi ở nơi em. Nếu anh có được sự sắp xếp tốt ngay từ đầu thì đâu ra nông nỗi. - Chuyện này cũng nào đâu phải lỗi của anh. Thế Khiêm dứt khoát nói: - Sáng mai, anh sẽ đích thân đưa em về nhà. Uyển Thanh cười buồn, cái cười buồn bã thê lương, nàng nói: - Lời chân tình của anh làm em còn biét nói gì hơn nữa. Uyển Thanh như lấy lại tinh thần, như lấy lại được sức sống. Nàng vui vẻ hẳn lên, đứng dậy ra lệnh cho Bội Nhi mang rượu vào và mang đàn đến cho nàng. Rượu mang ra, hai người đối ẩm cùng nhau. Uống để quên hết quá khứ đau buồn, uống cho tương lai tốt đẹp. Nói chuyện véo von âu yếm. Uyển Thanh cười thật tươi với chàng nói: - Có rượu chẳng thể thiếu tiếng đàn. Vậy thì để thiếp đàn hát cho chàng nghe một bài, vì lâu lắm rồi thiếp chưa được hát thật lòng như hôm nay. Ôm đàn tì bà lên, nàng suy nghĩ một lát rồi cười tiếp: - Chàng còn nhớ lúc xưa, chúng mình từng có lời ước hẹn mùa liễu xanh không? không ngờ thắm thoát mà liễu đã thay lá sáu lần, còn thiếp thì đã tàn tạ quá rồi. - Đừng có nói bậy, em vẫn là liễu xanh của anh. - Anh còn nhớ bài Chương Liễu Đài không? Thế Khiêm liền gật đầu: - Dĩ nhiên là nhớ. Đó là một điểm tích kể lại ngày xưa Hàn Vũ có một ái cơ là Liễu Thị, vì chuyện binh bị loạn lạc nên phải xa nhau, họ Hàn cho người đi tìm, làm một bài từ có nhan đề là "Chương Liễu Đài" trong đó có đoạn "Chương đài liễu, Chương đài liễu, ngày trước xanh tươi giờ có còn? hay đã lọt vào tay người khác đoạt" phải không? Nhưng sao em lại nhắc vê bài hát đó? Uyển Thanh! ý của em là... - Không có gì cả, anh đã biết chuyện "Chương Liễu Đài" rồi, thì hôm nay em xin đàn hát cho anh nghe một bài "Tây Hồ Liễu" nhé. Tây Hồ liễu, Tây Hồ liễu Xanh lá vì ai, ai có biết? Lá xanh hoài suốt cả năm năm Tiếc rằng người ra đi chẳng lại Tây Hồ liễu, Tây hồ liễu Trước quá xanh tươi, giờ tàn tạ, Liễu vẫn còn đây Nhưng của mọi người... Hát xong, nàng đặt đàn xuống, đưa mắt nửa cười nửa khóc lặng lẽ nhìn Thế Khiêm. Chàng nghe lời hát, nhìn vào ánh mắt của nàng, không hiểu sao lại thấy lạnh người. Chàng vội vã chụp lấy tay nàng xiết chặt, âu lo nói: - Uyển Thanh! tại sao trong ngày trùng phùng của đôi ta, em lại hát bài hát bi ai như thế? Em đã nghĩ gì? chẳng lẽ em không còn tin ta ư? Nghĩ là ta khinh thị em? Trách em? Uyển Thanh ơi, sáu năm chia ly, bây giờ mới gặp lại, tất cả những khổ đau ngày cũ đã qua rồi, bây giờ là giờ phút chúng ta hưởng được hạnh phúc. Anh hứa với em, bảo đảm với em là chúng ta sau này sẽ dựng lại hạnh phúc vững bền. Uyển Thanh, em tin anh không? Uyển Thanh cười buồn, nhìn Thế Khiêm, rồi cúi xuống mân mê tà áo, nói: - Anh nói vậy chứ gia đình anh, liệu họ bây giờ có chấp nhận em không? Nhất là tên tuổi bây giờ của em đã nhơ nhớp thế này. Liệu gia đình chấp nhận chăng? - Anh sẽ không để cho em chịu một sự dằn vặt nào nữa. Anh sẽ không để họ bức hiếp em! Anh sẽ xây một tòa nhà ở cạnh Tây Hồ này. Một ngôi nhà khang trang bề thế, trong vườn sẽ trồng đầy các loài dương liễu, và sẽ đặt tên cho nó là "Thanh Thanh Viên". Anh và em sẽ sống ở đấy, cả ngày chúng ta ngâm thơ vịnh nguyệt, bơi thuyền trên hồ, sống kiếp thần tiên. Rồi sau khi mãn hạn nghỉ phép, anh sẽ đưa em về kinh đô. - Thế còn vợ chánh của anh? Thế Khiêm nghe nhắc đến vợ mình, nét mặt giận dữ: - Bà ấy muốn làm gì thì làm. Tình nghĩa vợ chồng của anh với bà ta đã cạn kiệt rồi! Uyển Thanh an ủi: - Anh không nên nói vậy! anh không nên cắt đứt tình nghĩa vợ chồng giữa anh và chị ấy! chúng ta không thể nào trách chị ấy được, vì thương chồng nên chị ấy mới ghen... - Thôi! em đừng nói tốt cho bà ta nữa. Anh dứt tình không phải vì sự ghen hờn của bà ta mà là những thủ đoạn mà bà ta đã dùng! - Thế còn cha mẹ của anh? chẳng lẽ vì một cô gái thanh lâu mà anh phải lỗi đạo làm con? Uyển Thanh không đợi Thế Khiêm trả lời, nàng cười thật hiền hòa, nói: - Thôi kệ đi, chúng ta đừng nói gì đến chuyện đó nữa. Vì lần này thì em đã tin là anh sẽ sắp xếp mọi việc thỏa đáng. Em tin anh và sẽ chờ đợi. Nào bây giờ mình cạn thêm ly nữa đi anh. Uyển Thanh lại rót đầy một ly đưa cho Thế Khiêm. Chàng bắt đầy say, bắt đầu buông lơi những lo âu và nắm lấy tay nàng, cùng cười vui vẻ. Họ cùng nhau khóc, cùng nhau cười, cùng nhau nâng ly....cuối cùng cả hai cùng say. Mà khi Uyển Thanh say thì đôi má càng hồng, mắt càng long lanh. Nàng hát: Ân cần nâng ly Rượu kia chưa uống má đã hồng Dưới bóng trăng già dương liễu rũ Quạt nồng ấm lạnh lời ca vang Từ ly biệt mong ngày tái ngộ Mộng tương phùng, rồi lại có nhau Đêm nay hãy uống tàn ly rượu Để thấy tương phùng chỉ mộng thôi! Đêm đã khuya... Đêm Xuân thường ngắn, tiệc rượu hay chóng tàn. Uyển Thanh lấy tay Thế Khiêm, bịn rịn nói: - Thế Khiêm, cuộc trùng phùng hôm nay, em không biết là thật hay mơ, nhưng sống ở đời miễn có được một người tri kỷ, là có chết cũng vui cười. Nói chi một gái thanh lâu như em, có được người yêu quý như anh thì coi như kiếp này đã mãn nguyện lắm rồi. Thế Khiêm không vui, nói: - Tại sao lại nói những điều đau đớn trong lúc này? Uyển Thanh vội vã giả lả: - À, không phải, chỉ bởi vì hôm nay em quá vui thôi. Bây giờ anh hãy ở đây chờ em, để em vào phòng ngủ sửa soạn chăn màn, song sẽ mời anh vào. - Không sao, em bảo Bội Nhi chuẩn bị cũng được, cần gì phải đích thân em đi làm? - Không được anh ạ, em muốn đích thân làm chuyện đó! Nói xong, nàng nhìn Thế Khiêm thật lâu, rồi cười với chàng một nụ cười thật âu yếm chứa chan tình cảm, rồi quay người đi vào trong. Thế Khiêm ngồi ở phòng ngoài chờ thật lâu, mà bên trong vẫn không nghe động tịnh gì. Lúc đầu chàng nghĩ có lẽ là sau khi sắp xếp chăn màn xong, Uyển Thanh đã phải thay áo rồi chải tóc... Thế Khiêm muốn mọi chuyện từ đây về sau hoàn toàn tốt đẹp nên không quấy rầy nàng... Nhưng chờ đợi lâu quá nên thấy lo lắng, rồi đâm ra nghi ngờ. Thế Khiêm đứng dậy lớn tiếng gọi vào trong: - Uyển Thanh! Bên trong vẫn yên lặng. Bội Nhi nghe tiếng gọi của Thế Khiêm, hớt hãi chạy vào. - Chuyện gì vậy công tử? - Uyển Thanh ở trong đấy lâu quá! ta thấy rất lo... Thế Khiêm vừa nói vừa bước tới đẩy cửa. Nhưng cửa bên trong đã khóa, linh tính cho chàng biết là có chuyện không hay. Chàng đập cửa hét to: - Uyển Thanh! Uyển Thanh! Bên trong vẫn không tiếng trả lời. Bội Nhi sợ hãi liền bảo thêm mấy người đến phá cửa. Cửa mở. Mọi người nhìn thấy Uyển Thanh treo cổ trên đà cao. Chiếc ghế đã ngã. Bên trên bàn có một mảnh giấy, trên đó viết mấy chữ thảo nhanh. Thân đà hoen ố Chẳng thể hầu chàng Chỉ còn cái chết Để báo tri ân. Mọi người vội vàng mang ghế đến kéo Uyển Thanh xuống, khi mọi người đỡ Uyển Thanh xuống, nàng đã tắt thở tự bao giờ. Thế Khiêm cầm mảnh giấy trên tay, đó là những lời sau cuối của đời nàng, chàng quỳ xuống bên nàng không khóc không nói gì cả. Mọi thứ với chàng bây giờ là khoảng hư vô. Bội Nhi khóc nức nở bên cạnh xác chết của Uyển Thanh. Tịnh Nhi cũng có mặt ở đấy, nó nhìn chầm chầm vào xác của Uyển Thanh. Ba ngày sau, Thế Khiêm an táng Uyển Thanh bên bờ Tây Hồ. Trước khi hạ huyệt thì Bội Nhi chạy đến bên quan tài, nghẹn ngào nói: - Tiểu thơ, Bội Nhi sẽ theo hầu hạ cô mãi. Vừa nói xong, Bội Nhi đập đầu vào quan tài tự vận chết theo cô chủ. Thế Khiêm chỉ còn biết thở dài: - Nào có ai ngờ ở chốn thanh lâu lại có kỳ nữ như Uyển Thanh, cũng chẳng có ai ngờ thêm một nô bộc trung thành như Bội Nhi. Lúc làm lễ an táng những người đã chết, Thế Khiêm không khóc, cũng không lộ vẻ gì là xúc động. Chàng rất bình thản, chôn hai chủ tớ trong một nấm mồ. Trước mộ, Thế Khiêm trồng một cây liễu nhỏ vớ tấm mộ bia. Trên bia chẳng viết gì cả ngoài bốn chữ "Dương Liễu Thanh Thanh". Sau ngày mai táng chủ tớ của Uyển Thanh được hai hôm, Thế Khiêm và Tịnh Nhi chẳng biết vì sao đi đâu mất tích. Dịch Phủ đã huy động người đi tìm họ khắp bốn phương mà vẫn tìm không được. Có người nói thấy hai thầy trò Thế Khiêm đã vào chùa tu, nhưng người của Dịch Phủ tìm khắp mọi chùa mà vẫn tìm không thấy. Cũng có người nói thầy trò Thế Khiêm đã vào chốn rừng sâu bí hiểm. Nhưng thế gian này có biết bao là rừng núi, biết tìm nơi đâu? Tóm lại là từ đó về sau Thế Khiêm đã không quay về nhà. Và người cha già từng mơ ước con mình phải trở thành rồng đã phải mất con. Cũng như người đàn bà hiểm độc muốn độc chiếm chồng đã từ đó phải sống kiếp một người quả phụ bất đắc dĩ. Trên đời này, những chuyện như vậy rất thường xảy ra, bạn không thể nói là họ làm vậy là đúng hay sai. Nhất là khi bạn ở vào cái thời buổi khác thời cũ. Đúng, Sai? chẳng biết! có điều bi kịch hay xảy đến như thế. Ngày qua ngày, năm thêm năm, thời gian xóa mờ đi chuyện cũ. Ký ức cũng không rõ ràng. Rồi người ta cũng dần quên nàng con gái mang tên Dương Uyển Thanh và quên cả mối tình đẫm lệ đó. Riêng các hàng liễu bên bờ Tây Hồ thì cứ mãi thay lá. Nấm mộ và chiếc bia theo thờí gian chẳng được người chăm sóc nên đã chìm sâu giữa đám lau sậy cao và sau đó lặn mất. Bây giờ chẳng ai còn biết nó nằm ở đâu. Chỉ biết là, cách bờ hồ một khoảng gần đoạn mười tám suối Cửu Khê có một cây liễu thật lạ lùng. Ngày tháng trôi đi, nó không hề rụng lá, mà mãi mãi xanh biếc tốt tươi!
HẾT