Bác sĩ Svariênkrôna sống ở Xtôckhôm, trong một biệt thụ giàu sang trên đảo Xteđhôlmen. Đây là khu cổ kính và quí phái nhất thủ đô - một trong những thủ đô có cảnh đẹp và hấp dẫn nhất châu Âu mà khách nước ngoài thường đến thăm thú. Xtôckhôm nằm giữa hồ Mêlar và biển Bantich, trải trên hòn đảo nối liền với nhau bằng vô số những chiếc cầu. Thành phố được viền quanh bằng những bờ kè tuyệt vời; đó đây tấp nập những chuyến tàu thủy qua lại liên tục thay cho những Omnibus (xe ngựa nhiều chỗ ngồi - một loại phương tiện giao thông trong thành phố đã lỗi thời), và nhộn nhịp niềm vui của người dân lao động mến khách, lịch sự và có văn hoá nhất châu Âu. Với những vườn cây lớn trong thành phố, những thư viện, viện bảo tàng, các cơ quan khoa học, Xtôckhôm còn đồng thời là một Afinơ (hay còn gọi là Aten - thành phố cổ Hy Lạp. Afinơ nổi tiếng có nhiều nhà bác học và thợ thủ công. Ở đây tác giả dùng lối diễn đạt ngụ ý so sánh) ở phương Bắc và một trung tâm buôn bán lớn. Trong khi đó, Êrik đang nặng trĩu ấn tượng về cuộc chia tay với Vanđa ở ga đường sắt thứ nhất. Cuộc chia tay của những đứa trẻ tỏ ra nặng nề hơn mức có thể tưởng tượng được ở lứa tuổi của chúng. Chúng đã không thể nào dấu được nhau nỗi xúc động sâu xa. Nhưng khi chiếc xe ngựa đón bác sĩ ở sân ga về đã dừng lại trước ngôi nhà xây lớn, từ trong đó ánh đèn khí sáng rực rỡ qua những khung cửa sổ kép, Êrik lặng đi vì phấn chấn. Quả đấm cửa ra vào bằng đồng chú tưởng như đúc bằng vàng nguyên chất. Phòng tiền sảnh được ốp bằng những phiến cẩm thạch, trang trí nhiều bức tượng toàn thân, nhiều chùm đèn cắm nến bằng đồng thau và những bình hoa lớn của Trung Quốc đã làm cho chú thật sự sửng sốt. Trong lúc người hầu mặc đồng phục giúp bác sĩ cởi áo khoác bằng lông và hỏi thăm sức khỏe của ông một cách lễ phép, Êrik nhìn quanh với một vẻ kinh ngạc. Những tiếng nói ồn ào thu hút sự chú ý của chú và buộc chú quay về phía cầu thang với rất nhiều lan can bằng gỗ sồi nặng nề và trải thảm. Trên cầu thang có hai “yếu nhân" đang đi xuống; những bộ áo váy của họ Êrik thấy đẹp lộng lẫy. Một trong số hai người, bà tóc bạc người tầm thước, nom rất kiêu kỳ, mặc bộ áo váy bằng dạ có nhiều nếp gấp và ngắn, đủ để mọi người nhận thấy đôi tất đỏ với những đường vân và đôi giày có khoá màu vàng. Đằng sau thắt lưng của bà ta lủng lẳng một chùm chìa khoá to đeo bằng sợi dây chuyền bằng thép. Bà ta ngẩng cao đầu một cách trịnh trọng và liếc cặp mắt sắc xảo nhìn chung quanh. Đó là fru (Bà - cách xưng hô với phụ nữ đã có chồng ở các nước vùng Scandinav) Greta Maria, tay hòm chìa khóa của bác sĩ, người được toàn quyền quyết định về phần ẩm thức và công việc nội trợ. Đi sau bà là một cô bé tuổi chừng mười một - mười hai mà Êrik cảm thấy như một công chúa thực sự, đẹp tuyệt trần. Thay vì bộ đồ dân tộc, bộ đồ duy nhất mà chú thấy các cô bé cùng lứa tuổi với cô thường mặc, cô gái mặc bộ váy áo bằng nhung màu nước biển. Mái tóc vàng phủ xuống quá vai thành những búp xoăn như tơ. Cô bé đi tất đen và giày lụa, chiếc nơ to màu huyết dụ giống như một con bướm làm cho gương mặt nhợt nhạt không bình thường của cô bé với đôi mắt xanh lấp lánh như lân tinh tươi hẳn lên. - Thưa bác, được gặp lại bác con mừng quá! Bác đi đường bình an chứ ạ? - Cô bé kêu lên, nhảy đến bá cổ bác sĩ. Lúc ấy cô gái mới đoái hoài nhìn đến Êrik đang khép nép đứng ở đằng xa. Bác sĩ âu yếm cô bé, chìa tay cho bà quản gia, rồi gọi Êrik lại. - Kaisa và Fru Greta! Tôi yêu cầu hai người yêu thương Êrik Hecsêbom mà tôi đã đưa từ Na Uy về đây - bác sĩ nói - Còn cháu, chú bé của bác, chớ có rụt rè - Ông nói thêm với vẻ độ lượng - Fru Greta không đến nỗi nghiêm khắc như thoạt đầu nhìn đâu, còn cô cháu gái Kaisa của bác thì chả mấy chốc sẽ kết bạn với cháu thôi. Có phải thế không nào hả cô bé cưng của bác? Ông vừa hỏi vừa béo yêu vào má “cô tiên” con. Nhưng “cô tiên” con đã chỉ đáp lại bằng một cái nhăn mặt khinh khỉnh. Còn nói về bà quản gia thì bà dường như không tỏ ra vui mừng với cậu bé mới được giới thiệu với bà. - Thưa ngài bác sĩ, có thể biết cậu bé này là thế nào được không ạ? - Bà ta vừa bước lên cầu thang gác, vừa hỏi với giọng không hài lòng lắm. - Tất nhiên, tất nhiên là được chứ, fru Greta, chầm chậm rồi chị sẽ biết rõ cả thôi. - bác sĩ trả lời. - Còn tạm thời bây giờ, nếu chị không phản đối thì hãy cho chúng tôi ăn trước đã. Trong phòng ăn, trên bàn phủ khăn trắng như tuyết, món snorgas đã được bày sẵn trong các đĩa bằng pha lê sang trọng. Êrik thậm chí không tưởng tượng nổi sự sang trọng như thế, bởi vì những người nông dân NaUy không có thói quen dùng khăn bàn. Ngay đến những chiếc đĩa ở đó cũng chỉ mới được quen dùng gần đây thôi. Phần lớn những người nông dân NaUy cho đến bây giờ vẫn ăn cá bằng bánh mì dẹt và cũng chẳng thấy như thế là bất tiện gì. Phải để bác sĩ mời mãi chú bé mới chịu ngồi vào bàn, sự vụng về trong các động tác của chú đã thu hút cái nhìn nhạo báng của “frejken” (cách xưng hô với các cô gái ở các nước bán đảo Scandinav) Kaisa. Tuy nhiên, cảm giác đói đã khiến chàng du khách trẻ phải nén cái tính rụt rè của mình lại. Sau món Snorgas, bữa ăn trưa được dọn ra - một bữa ăn mà có lẽ đến người sành ăn cũng phải cồn cào ruột gan và có khi đến nguyên cả tiểu đoàn bộ binh sau chặng đường dài hành quân ăn no cũng được: súp cá, bánh mì, thịt vịt nhồi hạt dẻ, thịt bò luộc độn các thứ rau, khoai tây nóng, trứng luộc, bánh puđinh với nho khô. Tất cả đều đã được chú bé "tấn công" và “tiêu diệt" gọn. Khi bữa ăn thịnh soạn diễn ra hầu như hoàn toàn yên lặng đã kết thúc, mọi người chuyển sang phòng làm việc của bác sĩ: một căn phòng rộng rãi ốp bằng những miếng gỗ sồi, có sáu cửa sổ, các ô cửa sổ đều lớn và được che bằng bức rèm dạ nặng nề. Giả sử trong tay một kiến trúc sư người Pháp giỏi giang thì với những ô cửa sổ như thế có thể biến căn phòng thành những phòng riêng biệt rồi. Bác sĩ ngồi vào chiếc ghế bành bằng da bên cạnh lò sưởi. Kaisa ngồi thoải mái trên một chiếc ghế băng bên cạnh chân ông. Còn Êrik, lúng túng và cảm thấy mình ở đây chẳng khác nào một người xa lạ, bước lại phía cửa sổ với ý định náu mình trong cái hốc tối khuất sâu trong tường. Nhưng bác sĩ đã ngăn chú lại. - Nào, Êrik, lại đây sưởi, cháu! - Ông kêu lên, giọng sang sảng - Cháu nói xem, cháu có thích Xtôckhôm không? - Phố xá ở đây tối và chật hẹp lắm còn nhà thì cao - Êrik đáp. - Ừ, có cao hơn ở Nôrôê một chút - Bác sĩ nhận xét và cười. - Nhà cao làm vướng mắt, không nhìn thấy sao trên trời - chú bé nói tiếp. - Đấy là vì nhà của chúng tôi ở trong khu giàu sang. - Kaisa nói, tỏ ra tức tối trước lời phê phán ấy - Chỉ cần bước qua cầu là đến ngay những đường phố lớn hơn thôi. - Tôi đã trông thấy những đường phố ấy trên đường từ ga về rồi, nhưng ngay cả đường phố lớn nhất trong số đó cũng không bằng phố xinh ngoằn ngoèo ở Nôrôê - Êrik bác lại. - Ái chà chà! - bác sĩ lắc đầu - đấy là chuyện nhớ nhà rồi. - Không ạ, thưa bác sĩ quí mến - Êrik nói vẻ kiên quyết - cháu chịu ơn ngài nhiều lắm và không hối tiếc gì về việc lên đây cả, nhưng vì tại ngài hỏi cháu nghĩ gì về Xtôckhôm nên cháu mới trả lời như vậy ạ. - Nôrôê, chắc chắn chỉ là một nơi khỉ ho cò gáy gớm ghiếc mà thôi! - Kaisa tuyên bố. - Nơi khỉ ho cò gáy gớm ghiếc à! - Êrik tức giận kêu lên - Những ai khẳng định như vậy là họ không có mắt, freken Kaisa ạ. Giá mà bạn được nhìn thấy vành đai núi đá hoa cương bao quanh phố vịnh của chúng tôi, thấy những cánh rừng thông của chúng tôi in hình đen sẫm trên nền trời nhợt nhạt thì bạn thích phải biết! Còn ở bên dưới đó là biển rộng bao la, lúc thì bão táp hung dữ, lúc lại hiền hòa như muốn ru hời bạn vậy. Và những chú hải âu bay biến hút về nơi xa tắp, rồi lại quay về chao cánh lượn gần như sát ngay trên đầu bạn... Ồ, tất cả những cảnh ấy thật là tuyệt diệu, chắc chắn là hơn ở thành phố nhiều. - Tôi không nói về phong cảnh, mà chỉ nói về những ngôi nhà thôi, Kaisa đáp. Bởi vì ở đó chỉ có những túp nhà nông dân đơn sơ, có phải thế không hả bác? - Phải, cháu của bác ạ, những túp nhà nông dân... Ở nơi ấy đã sinh ra ông và cha cháu đấy, cả bác nữa cũng lớn lên ở đó đấy. Bác sĩ trả lời một cách nghiêm chỉnh. Kaisa đỏ mặt lên và im bặt. - Tất nhiên, nơi chúng tôi là nhà gỗ. Dù là bằng gỗ, nhưng chẳng kém gì những nhà khác đâu. - Êrik nói tiếp - Chiều chiều, chúng tôi thường quây quần cả gia đình, và trong khi bố vá lưới, còn mẹ guồng sợi thì ba anh em chúng tôi: Ôttô, Vanđa và tôi ngồi vắt vẻo trên chiếc ghế băng thấp, có chú cún Klaas trung thành của tôi nằm khoanh dưới chân, chúng tôi bắt đầu cùng nhau nhắc lại những saghi (những truyện dân gian truyền miệng bằng văn xuôi. Saghi vùng Scandinav là những truyện kể dài nói về sự tích trong lịch sử dân tộc, những chiến công của các vị anh hùng hoặc thần thánh xuất hiện đầu thời kỳ Trung cổ) ngày xưa, và theo dõi những cái bóng nhảy múa trên trần nhà. Còn khi nào gió rít ngoài cửa sổ và bạn biết rằng tất cả những người đi đánh cá đều đã trở về bờ rồi thì bạn sẽ thấy dễ chịu và đầm ấm biết bao trong căn nhà ấm cúng của chúng tôi, chẳng kém gì trong căn phòng đẹp đẽ này chút nào đâu! - Mà đây cũng chưa phải là căn phòng đẹp nhất của chúng tôi đâu nhé! - Kaisa nói với vẻ hãnh diện - Giá tôi chỉ cho bạn xem phòng khách lớn thì bạn còn thấy đẹp hơn nữa kia! - Nhưng ở đây có bao nhiêu là sách! Trong phòng khách chắc còn nhiều hơn nữa chứ? - Êrik hỏi. - Hừ, sách ấy à, bạn chưa từng thấy như thế bao giờ! Ở đấy còn có những chiếc ghế bành bằng nhung, những bức rèm bằng đăng ten, những chiếc đồng hồ lớn của Pháp, những bức thảm phương Đông nữa. Việc thống kê toàn bộ sự lộng lẫy ấy hình như chẳng mấy làm Êrik quan tâm. Chú bé đưa mắt nhìn những tủ sách bằng gỗ sồi kê dọc theo căn phòng làm việc với một vẻ thèm khát. - Cháu có thể tìm hiểu thư viện kỹ hơn và lựa chọn bất kỳ cuốn sách nào cũng được - bác sĩ nói. Êrik chỉ mong có thế. Chú lựa một cuốn và ngồi vào một góc dưới đèn, đọc ngấu nghiến. Chú chỉ để ý qua loa hai người đàn ông đứng tuổi, bạn thân thiết của bác sĩ lần lượt xuất hiện; gần như tối nào họ cũng đến đây chơi vist (một kiểu chơi bài). Bằng một giọng thanh lịch, một trong hai người ấy, giáo sư Hostedt, một ông già cao, điệu bộ khoan thai, điềm tĩnh, đã nói lên sự vui mừng của mình được thấy bác sĩ trở về bình an vô sự. Giáo sư vừa kịp ngồi xuống trên chiếc ghế bành từ lâu đã được mang cái tên “ghế của giáo sư" thì lại có tiếng chuông ngắn và dứt khoát vang lên. - Brêđêzhor đấy! Cả hai người bạn cùng kêu lên. Chẳng mấy lúc cánh cửa mở toang, một người không cao lắm, gày gò, rất hoạt bát, ào vào như một cơn lốc. Ông bắt tay bác sĩ bằng cả hai tay, hôn lên trán Kaisa, chào hỏi thân tình giáo sư và nhìn khắp căn phòng bằng đôi mắt sáng quắc, linh lợi, y như mắt một chú chuột con. Đó là Brêđêzhor, một trong những trạng sư nổi tiếng ở Xtôckhôm. - Ủa!... Đây là ai thế? - Bỗng ông kêu lên khi để ý thấy Êrik. Một thanh niên dân chài hay đúng hơn, một ngư phủ thiếu niên vùng Breghen phải không?...Cậu chàng đọc Hybon (Hybon Eduôđ (1737-1794) - nhà sử học người Anh. Tác giả công trình nổi tiếng: “Lịch sử suy tàn và sụp đổ của đế quốc La Mã) bằng tiếng Anh cơ à! Brêđêzhor nói tiếp sau khi liếc đôi mắt tinh đời thấy cuốn sách đang thu hút hết tâm trí cậu bé nông dân - Không lẽ cháu thích cuốn sách này ư, hả cậu bé? - Vâng, thưa ngài, cháu từ lâu đã ước mơ về cuốn sách này. Đây là tập thứ nhất cuốn "Sự suy tàn của đế quốc La mã" - Êrik đáp một cách hồn nhiên. - Thề có thiên lôi chứng giám! Hóa ra những ngư phủ thiếu niên vùng Berghen cũng thích đọc một cách nghiêm túc. Cháu đích thị ở Berghen à? Ông hỏi ngay. - Không ạ, thưa ngài, cháu Ở Nôrôê, nhưng cách Berghen không xa. Êrik đáp. - Thế những chú bé ở Nôrôê cũng đều mắt đen, tóc đen như cháu cả hay sao? - Không ạ, thưa ngài, anh cháu, em gái cháu, và tất cả các bạn đều tóc sáng, gần giống như của tiểu thư đây. Nhưng chỗ chúng cháu người ta không mặc như thế này - Êrik nhoẻn cười nói thêm -Vậy nên các cô bé quê cháu hoàn toàn không giống tiểu thư này. - Tôi không nghi ngờ điều ấy - Brêđêzhor nói - Tiểu thư Kaisa là một đứa con của nền văn minh. Còn ở nơi ấy thiên nhiên thật sự không có tô son điểm phấn gì, trang sức duy nhất của nó là sự giản dị. Thế cháu định làm gì ở Stôckhom, hả chú bé của tôi, nếu điều đó không phải là bí mật? - Ngài bác sĩ rất là nhân hậu, ngài đã hứa cho cháu vào học ở trường trung học ạ. - À ra thế - trạng sư vừa nói, vừa gõ những ngón tay lên hộp đựng thuốc lá của mình. Rồi Brêđêzhor chăm chú nhìn bác sĩ, dường như yêu cầu giải thích vấn đề khó hiểu này đối với ông. Nhưng qua dấu hiệu của bác sĩ ông hiểu rằng ông cần phải hoãn những câu lục vấn lại đã và lái ngay câu chuyện sang hướng khác. Mấy ông bạn chuyện trò với nhau về những tin tức trong các lâu đài và thành phố, về tất cả những gì đã xảy ra trên trái đất từ sau khi bác sĩ đi vắng. Sau đó fru Greta đã đẩy nắp bàn chơi bài ra, đặt lên bàn cỗ bài và những quân xúc xắc. Lát sau, im lặng bắt đầu; ba người bạn hoàn toàn tập trung vào những ngón bài mưu trí của mình. Bác sĩ vốn có tính hiếu thắng và thói quen ăn thua đối với những sơ xuất của đối phương, ông không bỏ lỡ dịp hí hửng reo mừng mỗi khi những sơ xuất ấy đã giúp ông thắng bài, và to tiếng bực bội nếu bản thân ông bị thua. Có một việc ông không thể đừng được là cứ sau mỗi hội bài ông lại giảng giải cho người thua biết nước bài nào ông ta đã đi sai, con bài nào đáng lẽ phải đánh đi và con bài nào cần giữ lại. Các đấu thủ chơi bài cứ luôn luôn bị thua như thế. Họ trở nên đặc biệt khó chịu vì tối nào cũng lại chỉ có họ trở thành "nạn nhân" của bác sĩ. May sao bác sĩ quen những người bạn biết kịp thời xoa dịu tính nóng nảy cay cú của ông: Giáo sư xoa dịu bằng sự thản nhiên thường ngày của mình, còn trạng sư thì xoa dịu bằng thái độ hoài nghi thật lòng. - Như mọi bận, ngài có lý - giáo sư đáp lại những lời trách cứ gay gắt bằng nét mặt nghiêm trang. - Svariênkrôna thân mến, ngài biết rất rõ rằng ngài răn dạy chúng tôi uổng công vô ích - Trạng sư mỉm cười phản ứng - Tôi suốt đời phạm những sai lầm nghiêm trọng trong khi chơi bài và điều đáng sợ nhất là không bao giờ tôi hối hận về chuyện ấy cả. Biết làm sao được với những cố tật như thế! Và bác sĩ buộc phải tự kìm chế những nhận xét phê bình của mình, mặc dù sự kiềm chế của ông không quá được một phần tư giờ. Trong chuyện này thì ông lại là một người chứng nào tật ấy. Chẳng may làm sao đúng tối hôm ấy bác sĩ Svariênkrôna lại bị thua tơi bời. Tâm trạng nặng trĩu của ông đã bị biểu lộ trong những nhận xét làm mất lòng nhiều nhất đối với giáo sư và trạng sư, nhưng giáo sư đã điềm tĩnh xóc những quân xúc xắc của mình, còn trạng sư thì biết lảng tránh những lời trách mắng cay độc nhất bằng những câu nói đùa. - Tại sao ngài lại muốn tôi thay đổi lối chơi một khi tôi thắng, mặc dù tôi chơi dở, trong khi một người chơi bài tài nghệ như ngài thì lại thua? Cứ thế tiếp tục đến mười giờ, lúc ấy Kaisa bắt đầu rót trà từ trong chiếc ấm lò bằng đồng bóng lộn ra. Cô bé ân cần trao những tách trà cho các "đấu thử' rồi lặng lẽ đi ra. Sau đó fru Grêta xuất hiện và đưa Êrik vào căn phòng nhỏ sạch sẽ sơn màu trắng dành cho chú ở tầng hai. Còn lại ba người bạn với nhau. - Cuối cùng thì ngài cũng cho chúng tôi biết chú bé đánh cá ở Nôrôê đọc Hybon bằng nguyên bản này là ai chứ? Brêđêzhor vừa hỏi, vừa bỏ đường vào tách trà thứ hai - Hay có thể đây là điều bí mật không được tiết lộ và câu hỏi của tôi không đúng chỗ? - Ở đây chả có điều bí mật nào hết; tôi sẵn sàng kể cho các ngài về lai lịch của Êrik, nếu như các ngài biết giữ kín cho - bác sĩ đáp. Trong giọng nói của ông vẫn còn lộ ra sự bực tức. - Đó, thấy chưa, tôi biết mà, đằng sau việc này có điều gì ẩn khúc đây! - Trạng sư kêu lên sau khi ngả người ra một cách thoải mái trên chiếc ghế bành - Chúng tôi nghe bạn đây, bạn thân mến, và có thể khỏi phải nghi ngờ chúng tôi sẽ lạm dụng lòng tin của bạn. Phải công nhận là cậu bé này làm cho tôi chú ý chẳng khác nào một Kazus (một trường hợp trong thực tiễn xét xử ở tòa án) thú vị vậy. - Đúng, đây quả thật là một Kazus thú vị - bác sĩ nói tiếp, hả hê về sự quan tâm của bạn mình - Và tôi thậm chí dám nói rằng hình như tôi đã tìm được chiếc chìa khóa để mở ra điều bí mật này. Bây giờ tôi sẽ thuật lại với các bạn tất cả những gì mà tôi biết về cháu, còn sau đó, các bạn sẽ nói xem ý kiến của các hạn có hợp với ý kiến của tôi không nhé. Bác sĩ tựa lưng vào chiếc lò lớn lát gạch men và sau một lúc nghĩ xem nên bắt đầu từ đâu, ông đã kể chuyện thời gian ở Nôrôê ông đã ghé một trường học, đã để ý Êrik và bắt đầu hỏi thăm về cháu như thế nào. Ông cũng đã kể lại không sót một chi tiết nào về tất cả những gì ông đã biết được qua Maljarius và bác Hecsêbom, và chiếc phao cứu hộ với chữ đề "Cintia”, về bộ quần áo hài nhi mà bà Katrina đã cho ông xem, về những chữ thêu trên các đồ dùng của Êrik, về chiếc nhẫn với câu danh ngôn và cuối cùng, về vẻ ngoài khác thường của chú bé phân biệt hẳn với các trẻ em khác ở Nôrôê. - Bây giờ các bạn biết về câu chuyện bí ẩn này đầy đủ cũng như tôi vậy. Tôi muốn trước hết nhận xét rằng trình độ phát triển của đứa bé, cho dù cháu đặc biệt đến đâu, thì cũng chỉ có ý nghĩa thứ yếu, bởi vì cái đó có thể cắt nghĩa bởi sự ảnh hưởng lớn lao của Maljarius, và sự thật ấy không cần phải đánh giá lại nữa. Những khả năng siêu phàm của chú bé đã buộc tôi phải chú ý và quan tâm đến cháu. Nhưng điều quan trọng không phải ở những khả năng của cháu, bởi vì chúng không thể giúp giải quyết nhiệm vụ đặt ra trước mắt là: xác định chú bé này từ đâu đến và cần phải tiến hành những cuộc tìm kiếm ở đâu để phát hiện được gia đình của cháu. Chúng ta hiện mới chỉ có một ít dữ kiện để căn cứ vào đó mà giải quyết vấn đề, cụ thể là: Thứ nhất - những đặc điểm về cơ thể nói lên rằng cháu thuộc một chủng tộc nào đấy. Thứ hai - cái tên "Cintia" trên phao cứu hộ. - Về điểm thứ nhất, - bác sĩ nói tiếp, - không thể còn nghi ngờ gì nữa, cháu bé thuộc chủng tộc Kelt (nhóm các dân tộc cổ xưa sống ở Tây Âu. Về sau đã bị các dân tộc khác loại trừ hoặc đồng hóa với họ. Các thứ tiếng Kelt, nền văn hóa và những đặc điểm dân tộc này ít nhiều còn giữ được về thuần túy ở một bộ phận dân cư bán đảo Brêtanh ở Pháp, Ailen và một số tỉnh của Anh, nói riêng là ở Ivernes thuộc Xcôtlen). Điều này có thể cảm thấy qua toàn bộ hình dạng của cháu. Ta chuyển sang điểm tiếp theo, "Cintia" - không nghi ngờ gì nữa, là tên của một tàu thủy, điều này được chứng minh bởi chữ đề trên phao cứu hộ. Cái tên này có thể thuộc về một tàu Đức hoặc một tàu Anh. Nhưng, vì các mẫu tự không phải là Gôtic nên ta có thể đi đến kết luận, rằng "Cintia" là một tàu Anh, nói đúng hơn là một tàu Ănglêxắcxông (Tức là Anh hoặc Mỹ). Mọi điều đều khẳng định giả thuyết này, bởi vì chỉ có tàu Anh đi về hướng Invernes hoặc đảo Orknây mới có thể bị tai nạn ở những nơi gần Nôrôê. Các bạn cũng cần chú ý là cháu bé nạn nhân của vụ đắm tàu này không thể chịu đựng được lâu trên mặt nước, vì thế nên người ta đã phải tránh cho cháu hiểm họa ấy. Vậy thì, các bạn của tôi, khi các bạn đã biết hết mọi sự thật rồi, ý kiến của các bạn sẽ như thế nào bây giờ? Cả giáo sư lẫn trạng sư đều không trả lời điều ấy như thế nào cả. - Nghĩa là các bạn không thể kết luận được điều gì? Bác sĩ nói tiếp, trong giọng nói của ông cảm thấy có sự hoan hỉ ngấm ngầm - Có thể là ngay các bạn cũng thấy có chỗ nào đó mâu thuẫn chăng? Chú bé thuộc chủng tộc Kelt, còn tàu thì lại là tàu xuất xứ Ănglêxắcxông. Nhưng mâu thuẫn sẽ trở thành chuyện hão, nếu như các bạn nhớ lại một bối cảnh quan trọng là dân tộc gốc Kelt tồn tại trên đảo Ailen kề sát với nước Anh. Tôi lúc đầu chưa nghĩ đến điều ấy, và do đó, nó đã cản trở tôi nhìn nhận vấn đề một cách đúng đắn. Đối với tôi, điều kết luận không thể bác bỏ được là: Đứa bé này là người Ailen. Ngài đồng ý với tôi không, ngài Horstedt? Nếu trên đời này có điều gì đấy mà ngài giáo sư đáng kính thấy khó chịu nhất thì đó là sự phát biểu một kết luận có tính cách khẳng định về một vấn đề này hay vấn đề khác. Và cần phải thừa nhận rằng, điều kết luận của bác sĩ được đưa ra để xem xét một cách vô tư ít ra cũng là quá sớm. Bởi vậy, bằng một cái gật đầu không nói lên điều gì cả. Horstedt chỉ đáp: - Không nghi ngờ gì hết, những người Ailen thuộc nhánh Kelt của chủng tộc Aria. Những lời nói kiểu như vậy tất nhiên không thể kỳ vọng có sự độc đáo gì lắm. Nhưng, bác sĩ Svariênkrôna cũng không yêu cầu gì khác hơn. Ông thấy trong nhưng lời ấy sự khẳng định hoàn toàn lý lẽ của ông. - Vậy là chính ngài đã đồng ý với tôi điều đó! - Ông ta kêu lên vẻ xúc động - Bởi vì những người Ailen thuộc bộ tộc Kelt mà cháu nhỏ có tất cả những đặc tính của bộ tộc này. Còn "Cintia" là một tàu Anh, nên tôi cảm thấy như chúng ta đã có trong tay những đường mối cần thiết để có thể tìm được gia đình của chú bé tội nghiệp. Nghĩa là cần phải tìm ở ngay nước Anh. Chỉ cần vài lần thông báo trên tờ "Times" là chúng ta sẽ tìm được dấu tích ngay thôi! Bác sĩ định trình bày tỉ mỉ một kế hoạch hành động do ông vạch ra, thì lại để ý thấy trạng sư một mực im lặng, nét mặt hơi có vẻ diễu cợt: lúc theo dõi những kết luận của bác sĩ, vẻ mặt của ông la cũng như vậy. - Nếu ngài không đồng ý với tôi thì, ngài Brêđêzhor, xin ngài cứ nói thẳng ra. Ngài biết đó, tôi không sợ tranh luận - bác sĩ nói. - Tôi đâu có nói gì - trạng sư lên tiếng - Có ngài Horstedt làm chứng cho, tôi đâu có nói gì... - Nhưng tôi thấy rất rõ là ngài không đồng tình với những ý kiến của tôi, vì thế mà tôi tò mò muốn biết tại sao? - Bác sĩ hỏi và lại rơi vào trạng thái bực tức như lúc bị thua bài - Bởi vì, "Cintia" là tên tàu Anh! - ông ta nóng nảy nói thêm - Nếu đó là tàu Đức thì chữ phải là kiểu Gôtic chứ. Những người Ailen thuộc bộ tộc Kelt chứ gì? Khỏi phải tranh luận! Ngài vừa nghe một người hiểu biết như ông bạn Horstedt kính mến của chúng ta đã khẳng định như vậy rồi. Đứa trẻ có những đặc điểm của người gốc Kelt ư? Tất nhiên. Bởi vì điều này đã đập ngay vào mắt các ngài từ trước khi tôi bắt đầu nói về đề tài này kia mà. Từ tất cả những điều nói trên, tôi có thể kết luận rằng chỉ có thái độ thiếu thiện cảm một cách công khai và trắng trợn mới cản trở ai đó đồng tình với những kết luận của tôi khẳng định rằng chú bé xuất thân từ một gia đình Ailen mà thôi… - Thái độ thiếu thiện cảm? Nói như vậy có nặng lời quá không? Brêđêzhor phản đối - Nếu điều đó liên quan đến tôi, thì tôi chưa phát biểu câu nào kia mà. - Nhưng ngài đã chứng tỏ quá ư rõ ràng là ngài không đồng ý với tôi còn gì! - Không ai có thể cấm được tôi điều đó. - Trong trường hợp như vậy thì chẳng có ai cản trở ngài đưa ra những chứng cớ xác đáng để bảo vệ cho quan niệm của mình. - Thế ai nói với ngài là tôi có những quan niệm ấy? - Nếu vậy thì điều ấy xuất phát từ khuynh hướng đối lập của ngài, từ nhu cầu của ngài phản đối tôi trong mọi vấn đề, chứ không chỉ riêng trong việc chơi bài! - Ngay cả trong ý nghĩ của tôi cũng không có điều gì như vậy đâu, xin bảo đảm với các ngài! Kết luận của ngài tôi thấy không thể bác bỏ được. Chỉ có thế thôi. - Nhưng tại sao vậy, xin ngài làm ơn nói giùm? Tôi rất muốn biết. - Điều này cần phải giải thích lâu, bây giờ đã mười một giờ rồi. Tôi sẵn sàng đánh cuộc với ngài! Tôi đặt cuốn Kvintilian của tôi xuất bản lần đầu tiên ở Vniz để đổi lấy cuốn Plini của ngài do Alđ Manuxia xuất bản (Kvintilian và Plini - các nhà văn cổ Hy Lạp. Nội dung ở đây nói về những lần xuất bản đầu tiên thời cổ của những người thợ in nước Ý cuối thế kỷ XV - đầu thế kỷ XVI. Những cuốn sách in đầu tiên này cón giữ được mỗi thứ một bản duy nhất và là vật bảo tàng hiếm quý). Tôi cuộc là kết luận của ngài không đúng và đứa trẻ này không phải là người Ailen. - Ngài biết đó, tôi không thích đánh cuộc - bác sĩ nói, bất chợt trở nên dịu dàng do sự thiện cảm của ông bạn - Nhưng tôi sẽ lấy làm vui lòng nhận lời thách thức của ngài. - Tuyệt quá! Vậy có nghĩa là quyết định xong. Ngài cần thời gian bao lâu để tìm kiếm gia đình của chú bé? - Tôi hy vọng vài tháng là đủ, mặc dù tôi đã hẹn với Hecsêbom là hai năm để cho thật chắc chắn. - Được rồi, tôi đồng ý hai năm. Hostedt sẽ làm trọng tài cho chúng ta. Nhưng không được bực mình đâu đấy nhé, đồng ý không? - Đồng ý không bực mình, nhưng tôi thấy là Kvintilian của ngài có nguy cơ bị nhập vào với Plini của tôi mất - bác sĩ nhận xét và bắt chặt tay cả hai người, tiễn họ ra tận cửa.