10. DÃ MAN NHẤT LÀ BÃO TÁP. Trong khi ấy viên chủ thuyền đã cầm lấy cái loa. - Cargate todo, hombrres[74]. Nới nút lèo ra, kéo trục buồm xuống, hạ tất cả trên buồm thấp xuống! Nắm chắc, hướng tây! Lại ra khơi thôi! Hướng thẳng vào phao! Hướng đúng tiếng chuông! Ở đấy có biển khơi. Chưa phải hoàn toàn thất vọng đâu. - Thử xem - lão tiến sĩ nói. Nhân đây chúng tôi cần nói là cái phao chuông ấy, một thứ tháp chuông ngoài biển, đã bị bỏ đi năm 1802. Những nhà hàng hải già còn nhớ đã có lần nghe được tiếng chuông ấy. Nó báo trước, nhưng hơi muộn. Lệnh của viên chủ thuyền được thi hành lập tức. Tên Lăngođốc là một thủy thủ thứ ba. Tất cả đều bắt tay vào. Không phải chỉ hạ buồm, người ta cuốn luôn buồm vào cột; siết chặt tất cả dây trên thuyền lại, thắt nút lèo mũi, lèo đáy và lèo giữa; ngoắc dây buồm phụ vào dây quai chèo vì như thế nó có thể dùng làm thừng chằng buồm ngang; ốp thêm cột buồm, đóng thêm lá chắn vào cửa thuyền, đó là một lối bịt kín thuyền bè. Thao tác tuy thực hiện có hỗn độn nhưng không phải vì thế mà chuệch choạc. Chiếc thuyền con lại bớt nguy ngập. Nhưng thuyền cuốn hết mọi thứ, càng nhỏ lại bao nhiêu thì không khí và nước càng lồng lộn dữ dội bấy nhiêu. Sóng đạt gần đến chiều cao ở địa cực. Cuồng phong như một tên đao phủ vội vã, bắt đầu phanh xác chiếc thuyền. Trong chớp mắt diễn ra một cuộc giằng xé khủng khiếp, buồm đứt hết dây mép, cạp thuyền bị phá bằng, gỗ bị bạt tung, dây chằng bị giật đứt, cột buồm gãy gập, tất cả những thứ gì gẫy nát đều bay tung té. Các dây cáp to đứt hết, mặc dầu múi buộc dài đến bốn sải. Sức căng của từ trường, đặc điểm của bão tuyết, khiến cho thừng chão càng dễ đứt. Chúng đứt vì gió bao nhiêu, thì cũng đứt vì khí âm dương bấy nhiêu. Nhiều sợi xích nhẩy ra khỏi ròng ròng không hoạt động được nữa. Phía trước má thuyền, phía sau, hông thuyền, đều oằn xuống trước những áp lực quá mạnh. Một ngọn sóng bốc mất la bàn, mang theo cả hộp. Một ngọn sóng khác cuốn băng chiếc canô treo ở cột buồm cái, theo phong tục kỳ lạ của người axtuyri. Một ngọn sóng khác cuốn phăng Đức bà ở mũi thuyền và chiếc đèn lồng. Chỉ còn mỗi cần lái. Người ta vội thay thế chiếc đèn hiệu bằng một cái vỏ lựu đạn to nhét đầy bùi nhùi và nhựa đường đốt sáng treo ở khoang mũi. Cột buồm gãy đôi, tua tủa những mẩu giẻ rách bay phần phật, những dây nhợ, ròng ròng và trục buồm, làm cho sàn thuyền ngổn ngang. Lúc đổ, nó đã làm gãy đôi một mảng mạn thuyền bên phải. Viên chủ thuyền vẫn luôn luôn đứng ở cần lái, hét to: - Chừng nào còn lái được là vẫn chưa tuyệt vọng. Phần thuyền ngập nước vẫn tốt nguyên. Rìu! Rìu! Hất cột buồm xuống biển? Giải toả mặt boong. Thủy thủ cũng như hành khách đều say sưa chiến đấu quyết liệt. Chỉ cần mấy nhát rìu. Người ta hất cột buồm qua mạn thuyền. Sàn tàu quang hẳn. - Bây giờ - viên chủ thuyền nói tiếp - lấy dây buồm buộc tôi vào cần lái. Người ta trói ngay y vào càng. Trong lúc được quấn chặt, y cười ha hả, và hét vang với biển cả. - Rống lên, mụ già kia! Rống to lên! Tao đã từng gặp nhiều trường hợp tệ hại hơn thế này ở mũi Masisacô. Và khi đã bị trói gô, hắn liền túm chặt cái càng trong tay với niềm vui kỳ dị do hiểm nghèo truyền tiếp. - Mọi việc đều tốt đẹp, các bạn ạ! Hoan hô Đức bà Bugơlê! Lái sang phía tây ! Một ngọn sóng ngang, rất to, kéo đến đổ ầm ầm xuống phía sau. Trong bão táp luôn luôn có loại sóng cọp, thứ sóng hung dữ và quyết định: Nó đến đúng lúc, bò bò hồi lâu như dán sát bụng trên biển, rồi chồm dậy, rống to, rít lên ập xuống chiếc thuyền lâm nguy và xé tan nó ra từng mảnh. Bọt sóng như nuốt chửng, phủ kín cả đuôi thuyền Matutina; trong cuộc hỗn chiến giữa sóng nước và đêm trường nghe rõ có tiếng tan vỡ răng rắc. Lúc sóng nước tiêu tan, lúc đuôi thuyền lại xuất hiện, thì không còn chủ thuyền, không còn cần lái nữa. Tất cả đã bị giật phăng. Cần lái và con người vừa được trói chặt vào đấy đã đi theo sóng biển trong cái mớ hỗn độn gầm hý của bão táp. Tên đầu đảng nhìn trừng trừng vào bóng tối và hét to: - Te burlas de nosotros?[75] Đáp lại tiếng phản kháng đó, một tiếng khác tiếp luôn: - Vứt neo xuống! Cứu lấy ông chủ. Người ta chạy đến bên trục tời. Người ta thả neo xuống. Thuyền Bixcay chỉ có một neo. Làm như thế chỉ mất toi neo. Đáy biển toàn đá, mà sóng nước lại điên cuồng. Dây cáp đứt phăng như sợi tóc. Neo mắc kẹt dưới đáy biển. Cả mũi thuyền chỉ còn lại có vị thiên thần nhìn qua ống kính. Từ lúc đó, chiếc thuyền con chỉ là một mảnh lều trôi dạt. Thuyền Matutina đã hết phương cứu vãn. Chiếc thuyền vừa mới đây như được chắp cánh và gần như khủng khiếp trong cuộc chạy đua, lúc này đã hoàn toàn tê liệt. Tất cả mọi thứ đều đứt gãy, sai lệch. Nó ngoan ngoãn vâng lời, cứng đờ và thụ động, tuân theo những sự điên cuồng kỳ quặc của sóng nước. Trong có vài phút, một người cụt cả tay chân thay thế một con đại bàng, điều ấy chỉ thấy ở biển cả. Tiếng thở rốc của không gian mỗi lúc một thêm quái đản. Bão táp là một lồng phổi đáng sợ. Nó không ngừng tăng thêm phần thê thảm cho cái không sắc thái, cho màu đen. Cái chuông giữa biển vẫn rền vang một cách tuyệt vọng như một bàn tay hung thần rung lắc. Thuyền Matutina mặc cho sóng nước cuốn trôi; mặc cái nút chai cũng rập rình như thế; nó không lướt bằng chèo lái nữa; nó bồng bềnh tưởng chừng lúc nào cũng sẵn sàng ngửa bụng như một con cá chết. Thoát được khỏi nguy cơ đó, chính là nhờ cái vỏ thuyền còn tốt, hoàn toàn không ngấm nước. Không một tấm ván lót nào dưới ngấn nước bục ra cả. Không có khe hở, không có lỗ thủng, và không một giọt nước nào lọt vào hầm thuyền. Đó là điều hết sức may mắn vì bơm đã hỏng, không dùng được nữa. Chiếc thuyền con múa nhảy nom thật duyên dáng trong cơn lo sợ sóng nước. Boong thuyền quằn quại như người muốn mửa. Tưởng chừng như nó đang cố sức để hất tung mấy người bị đắm ra ngoài. Họ đờ đẫn bám chặt vào thừng chão, và cạp thuyền, và xà ngang, và các đầu nút, roi thừng, vào những chỗ vỡ giữa mép thuyền mà các đầu đinh cào nát cả bàn tay, vào ván lót lòng thuyền bị uốn cong, vào tất cả những chỗ lồi lõm hư nát thảm hại. Thỉnh thoảng họ lại lắng tai. Tiếng chuông mỗi lúc một nhỏ dần. Hình như nó cũng hấp hối. Tiếng thánh thót của nó chỉ còn là một tiếng rên rỉ cách quãng. Rồi tiếng rên đó tắt hẳn. Họ đang ở đâu? Họ đang cách cái phao bao xa? Chuông rung đã làm họ sợ hãi, chuông lặng lại làm cho họ hãi hùng. Gió tây bắc khiến họ phải đi theo một con đường có lẽ không thể cứu thoát. Họ cảm thấy bị lôi cuốn bởi một hơi thở cuồng loạn. Tấm mảng trôi dạt chạy vun vút trong đêm đen. Một tốc độ mù quáng, không còn gì dễ sợ hơn. Họ cảm thấy vực sâu ngay trước mặt, ngay dưới chân, ngay trên đầu. Không phải chạy nữa mà là rơi. Thình lình trong tiếng ồn ào vĩ đại của tuyết mù, một điểm đỏ xuất hiện. - Hải đăng! - những người đắm thuyền cùng reo lên. 11. CAXKÊ Đúng, đúng là ngọn hải đăng Caxkê. Ở thế kỷ mười chín, hải đăng là một hình trụ, chóp xây bằng gạch, trên có máy chiếu sáng, hoàn toàn khoa học. Đặc biệt ngọn hải đăng Caxkê ngày nay gồm ba ngọn tháp màu trắng, đỡ ba cái lầu thắp sáng. Ba nhà lửa ấy xoay chuyển trên một hệ thống bánh xe đồng hồ chính xác đến mức người gác, quan sát hải đăng từ ngoài khơi, bao giờ cũng đi đúng mười bước trên boong tàu lúc đèn sáng và hai mươi lăm bước lúc đèn bị che khuất. Mặt phẳng giao tiêu và vòng xoay của cái trống bát giác gồm tám thấu kính đơn rộng nhiều ngấn và trên dưới lại có hai loạt vòng chiết quang được tính toán kỹ; hệ thống răng bảo đảm chống được gió biển bằng những lớp kính dầy một ly, tuy vậy có lúc vẫn bị vỡ vì chim ưng biển lao vào, đó là giống bướm to của những ngọn đèn khổng lồ kia. Ngôi nhà chứa đựng, chống đỡ và lắp gắn bộ máy kia cũng được tính toán rất kỹ. Mọi thứ ở đấy đều đơn giản, ăn khớp, trần trụi, chính xác, đâu vào đấy. Một ngọn hải đăng là một con số. Ở thế kỷ mười bảy, hải đăng như một chùm lông cắm trên đất liền bên bờ biển. Kiến trúc của một tháp hải đăng thật cầu kỳ tráng lệ. Chỗ nào cũng ban công, bao lơn, tháp nhỏ, hốc con, chuồng chim, hoa gió. Toàn là mặt quỷ, tượng người, hoa lá, trôn ốc, chạm nổi, tượng to, tượng nhỏ, vỏ đạn khắc chữ. Pax in belle[76] ngọn hải đăng Eđixton ghi thế. Nhân thể chúng ta cần nhận xét, lời tuyên bố hòa bình này không phải lúc nào cũng tước được vũ khí của biển cả. Uyxtanlê cũng nhắc lại lời ấy trên ngọn hải đăng do ông bỏ tiền ra xây ở một nơi rất hiểm nghèo, trước Playmơt. Tháp hải đăng làm xong ông đứng vào trong, cho bão táp thử nghiệm. Bão đến và cuốn mất ngọn hải đăng Uyxtanlê. Vả lại những công trình xây dựng quá đáng ấy là mục tiêu cho cuồng phong từ bốn phía giống như những tướng lĩnh lấp lánh huy chương ở trận tiền thu hút tên đạn vào thân. Ngoài những trò cầu kỳ về đá gạch, lại còn những kiểu cách bằng sắt, bằng đồng, bằng gỗ; các ổ khóa đều chạm trổ, kèo, xà đều nổi bật. Khắp nơi, ở mặt bên của ngọn hải đăng, nhô ra, gắn vào tường xen lẫn với những hình chạm trổ kiểu ả rập, đủ loại máy móc, có ích và bỏ đi như tời, pa lăng, ròng rọc, đối trọng, thang, cần cẩu, phao cứu. Trên đỉnh, xung quanh ngọn lửa, có những ổ khóa rất tinh vi đỡ những chân nến bằng sắt, trên đó cắm những khúc cáp dăm nhựa thông, đấy là những cái bấc cháy dai dẳng không một ngọn gió nào thổi tắt được. Và từ trên xuống dưới tháp còn có thêm cờ biển, cờ hiệu, cờ lệnh, cờ nhỏ, cờ to, cờ đuôi nheo, leo dần từng cán cờ, từng tầng một, kết hợp tất cả các dấu hiệu, tất cả các kiểu ngang tàng nghịch ngợm, lên đến tận cái lồng ánh sáng của ngọn hải đăng và trong bão táp tạo thành một cuộc nổi loạn của giẻ rách xung quanh quang cảnh rực cháy kia. Sự trâng tráo ấy của ánh sáng bên bờ vực thẳm, giống như một thách thức, thúc giục những người đắm thuyền phải hăng hái liều lĩnh. Những ngọn hải đăng Caxkê hoàn toàn không thuộc loại đó. Thời kỳ ấy nó chỉ là một ngọn hải đăng già nua, man rợ, đúng như vua Hăngri đệ Nhất đã cho xây sau khi mất chiếc Blăngsơ Nep[77], một thứ dàn lửa cháy trong lưới sắt trên một hòn núi, một đống lửa hồng sau một rào sắt và một mái tóc lửa trong gió lộng. Từ thế kỷ mười hai, việc bổ khuyết duy nhất cho ngọn hải đăng đó là một cái bễ lò rèn vận hành bằng một thứ dây móc sắt có tạ bằng đá, lắp thêm vào cái lồng lửa năm 1610. Đối với những loại hải đăng cổ xưa ấy, trò phiêu lưu của chim biển bi đát hơn đối với những hải đăng hiện nay. Chim chóc xô tới, vì ánh sáng thu hút, lao vào và rơi xuống đống lửa hồng, người ta thấy chúng nhảy nhót qua những linh hồn đen tối dãy chết trong cái địa ngục đó; và đôi lúc chúng lại rơi ra ngoài cái lồng đỏ, rớt xuống núi đá, bốc khói, khập khiễng, mù lòa, như những con ruồi cháy dở bên ngoài một ngọn đèn. Đối với một chiếc tàu đang lúc diễn tập, có đầy đủ thiết bị, và lại dễ vận dụng cho hoa tiêu thì hải đăng Caxkê không có tác dụng; nó quát to; coi chừng! Nó báo hiệu có đá ngầm. Đối với một chiếc tàu lâm nạn, nó chỉ gây khủng khiếp. Vỏ tàu, bị tê liệt và bất động, không có sức chống đỡ với sóng nước lồng lộn điên cuồng, không có tài tự vệ chống áp lực của gió, như cá không vây, như chim không cánh, chỉ còn biết lao đến nơi nào gió bão đẩy tới ngọn hải đăng chỉ cho nó thấy chốn tận cùng, báo hiệu cho nó nơi mất tích, soi sáng cho nó chỗ chôn vùi. Nó là ngọn nến trên phần mộ. Soi sáng cánh cửa tàn khốc, báo trước điều không tránh khỏi, còn nước châm biếm nào bi dát hơn. 12. VẬT LỘN VỚI ĐÁ NGẦM. Sự nhạo báng bí mật ấy, thêm vào cảnh đắm thuyền những con người khốn khổ trên thuyền Matutina hiểu ngay tức khắc. Ngọn hải đăng xuất hiện thoạt tiên khiến phấn khởi, sau lại làm cho họ buồn rầu. Không làm cách nào được, không liều cách nào được. Những điều nói về vua chúa đều có thể áp dụng cho sóng nước. Con người là thần dân của vua chúa, con người là mồi để vua chúa xâu xé. Tất cả những gì vua chúa mê sảng, người ta đều phải chịu đựng. Ngọn gió tây bắc thổi bạt chiếc thuyền con vào bãi Caxkê. Họ đành phải đến đó. Không có cách nào khác. Họ trôi giạt rất nhanh vào bãi ngầm. Họ cảm thấy đáy biển như trồi lên; giá thả được một cái máy đo cho tử tế thì nó đã chỉ không quá ba bốn sải nước. Đoàn người bị đắm lắng nghe tiếng sóng hút ầm ầm vào những chỗ nước ngầm gặp các mỏm núi dưới sâu. Họ nhận thấy dưới ngọn hải đăng, giữa hai phiến hoa cương sắc cạnh như một nhát chém tối đen, có cái eo biển của cái cảng nhỏ man rợ có lẽ chứa đầy xương người và xác tàu. Đó là một miệng hang hơn một lối vào cảng. Họ nghe tiếng nổ lách tách của giàn lửa cao trong lồng sắt, một sắc đỏ hung tàn soi sáng phong ba, lửa hồng gặp mưa đá làm rối loạn lớp sương mù, mây đen giao chiến với khói đỏ, rắn chống cự với rắn, than hồng tung bay trong gió lộng, bông tuyết như trốn chạy trước sức tấn công của tàn lửa tung toé. Những mỏm ngầm lúc đầu còn lờ mờ giờ đây hiện lên rõ nét trước mắt ngổn ngang núi đá với những đỉnh nhọn, những chỏm sắt và sống núi. Các góc cạnh hằn lên với những đường nét đỏ rực, còn các mặt nghiêng thì với những cầu trượt loáng máu. Họ càng tới gần, khu vực đá ngầm càng nổi lên rõ rệt, và cao dần, ghê rợn. Một mụ, cái mụ người Iêchlăng, hốt hoảng lần tràng hạt. Thiếu tên chủ thuyền hoa tiêu, còn tên đầu đảng vốn là thuyền trưởng. Dân Baxcơ ai cũng biết leo núi và đi biển. Họ rất dũng cảm trước tai biến, và rất tháo vát trong thảm họa. Đến nơi rồi, sắp đụng vào rồi. Thình lình họ tới sát ngọn núi to phía bắc Caxkê đến nỗi nó che khuất cả ngọn hải đăng. Họ chỉ còn nhìn thấy núi và ánh sáng phía sau nữa thôi. Ngọn núi sừng sững trong sương mù giống hệt một người đàn bà to cao, mặc đồ đen, đầu đội mũ lửa. Ngọn núi ít người tới lui này tên là Bibơle. Nó chống vào phía bắc bãi ngầm, còn một đỉnh khác, ngọn Êtăcô Ghimê, chống vào phía nam. Tên đầu đảng nhìn ngọn Bibơle và hét to : - Cần một người tình nguyện để buộc một sợi cáp nhỏ vào đá ngầm! Đây có ai biết bơi không? Không ai trả lời. Trên thuyền chẳng có ai biết bơi kể cả thủy thủ; điểm thiếu sót này thế mà lại rất phổ biến của dân miền biển. Một thanh gỗ ốp gần rời khỏi mạn, đu đưa ở cạp thuyền. Tên đầu đảng vội nắm chặt lấy nó bằng cả hai tay và nói: - Giúp tôi nào. Người ta tháo thanh gỗ ốp ra. Thế là có thể sử dụng nó theo ý muốn. Từ một vật để tự vệ nó trở thành một vật tấn công. Đó là một cái sà dài, toàn bằng gỗ sồi lõi, tốt và chắc, có thể dùng làm dụng cụ tấn công và điểm tựa; gặp vật nặng nó là đòn bẩy, gặp thành trì nó là phi thê[78]. - Chuẩn bị! - Tên đầu đảng hô to. Họ đứng hàng sáu, gò người bên cái cột buồm gãy, tay ôm thanh gỗ chìa ra ngoài cạp thuyền và lăm lăm như một ngọn mác trước sườn tảng đá ngầm. Thao tác thật nguy hiểm. Thúc vào núi, một việc làm hết sức táo bạo. Sáu con người đó có thể bị hất tung xuống nước vì sức giật. Đó là những hình thái khác nhau trong cuộc chiến đấu với bão táp. Sau cuồng phong là đá ngầm; sau gió bão là đá hoa cương. Hết đối mặt với cái không sao tóm bắt được, lại vấp phải cái không gì lay chuyển nổi. Có những phút giây tóc người bạc trắng. Đá ngầm và thuyền sắp xáp lại gần nhau. Một mỏm núi là một tội nhân sắp bị hành hình. Đá ngầm vẫn chờ đợi. Một ngọn sóng ào ào xô đến. Nó chấm dứt giây phút đợi chờ. Nó bốc phăng chiếc thuyền từ dưới, nâng bổng lên, đung đưa một lúc như cái máy phóng đá đung đưa hòn đạn. - Chắc vào - Tên đầu đảng hét - Nó chỉ là hòn núi chúng ta là con người. Thanh gỗ đứng im. Sáu con người với thanh gỗ chỉ là một. Những con xỏ trên thanh gỗ cày vào nách, nhưng họ không cảm thấy đau. Con sóng ném chiếc thuyền vào ngọn núi. Cuộc đụng độ diễn ra. Nó diễn ra dưới một đám bọt nước, không có hình dạng, che lấp hết mọi diễn biến. Khi đám mây đổ xuống biển, khi sóng nước lại rời xa vách núi, sáu người lăn lông lốc trên sàn thuyền; nhưng thuyền Matutina thì vun vút chạy trốn dọc theo ngọn đá ngầm. Thanh sà đã đứng vững và tạo ra một chuyển hướng. Trong mấy giây đồng hồ, ngọn sóng được buông lỏng cứ thế lướt đi, Caxkê nằm lại phía sau chiếc thuyền con. Thuyền Matutina lúc này đã thoát khỏi tai nạn trước mắt. Sự việc như thế thường xảy ra luôn. Chính một cú thúc, thẳng bằng cột buồm vào vách biển đã cứu Vut đơ Lacgô ở cửa sông Tê. Trong vùng biển hiểm trở quanh mũi Uyntơtơn, và dưới sự chỉ huy của thuyền trưởng Hamitơn, chính nhờ một cú đòn bẩy tương tự vào ngọn núi Branođu - Um rùng rợn mà tàu Royan - Mari thoát khỏi đắm, mặc dầu nó chỉ là một chiến hạm hạng nhì kiểu Êcôx. Sóng biển là một sức mạnh bị phân giải đột ngột đến nỗi những cách tránh né lại dễ dàng, ít ra thì cũng có thể thực hiện được, ngay cả trong những trường hợp đụng độ dữ dội nhất. Trong bão táp có cái mặt hung thú ; phong ba là con bò mộng, và người ta có thể lừa phỉnh nó. Cố chuyển từ đường cát tuyến sang đường tiếp tuyến, toàn bộ bí quyết tránh đắm là ở đó. Thanh gỗ ốp đã giúp con thuyền trong việc ấy. Nó đã làm nhiệm vụ của mái chèo: nó đã thay thế tay lái. Nhưng một khi thủ đoạn giải thoát thực hiện xong, người ta không thể diễn lại. Thanh sà rơi xuống biển. Thời gian đụng độ làm nó bung ra khỏi tay mấy người đàn ông, văng qua mạn thuyền, và mất tăm trong sóng nước. Tháo gỡ một thanh sà khác tức là phá toang cả sườn tàu. Phong ba lại cuốn chiếc Matutina đi. Tức thì bãi Caxkê giống như một vật trở ngại vô ích ở chân trời. Không gì có vẻ ngỡ ngàng lúng túng như một tảng đá ngầm ở trường hợp như thế. Trong thiên nhiên, trong vô định, nơi cái hữu hình bị cái vô hình làm cho thêm phức tạp, có những hình dáng cau có bất động dường như tức giận vì một miếng mồi phải nhả. Bãi Caxkê trong lúc thuyền Matutina trốn chạy là như vậy. Ngọn hải đăng lùi dần, tái mét xanh nhợt, rồi biến mất. Cảnh tắt ngấm đó thật buồn thảm. Những lớp sương mù chồng chất lên màu lửa rực trở thành khuếch tán. Sức phát quang loãng ra trong bao la ẩm ướt. Ngọn lửa bềnh bồng, chống cự, chúi xuống, mất hẳn hình dạng. Tưởng chừng như bị chết đuối. Dàn lửa, trở thành hoa đèn, lúc này chỉ còn là một ánh lửa bập bùng, le lói, mơ hồ. Xung quanh một vùng ánh sáng tan chảy rộng dần. Tưởng như ánh sáng bị đè bẹp trên nền trời đêm. Tiếng chuông, ban nãy là một mối đe dọa đã lặng; ngọn hải đăng, ban nãy là một mối đe dọa đã tiêu tan.Thế mà khi hai mối đe doạ ấy đã biến mất, lại càng khủng khiếp hơn. Một bên là tiếng nói, một bên là bó đuốc. Chúng có một cái gì của con người. Mất chúng rồi, chỉ còn vực thẳm. 13. MẶT ĐỐI MẶT VỚI ĐÊM TỐI. Chiếc thuyền con lại chìm ngập trong bóng tối mù mịt vô biên. Thoát khỏi bãi Caxkê, thuyền Matutina lại cưỡi hết ngọn sóng này đến ngọn sóng khác. Nghĩ ngợi đấy, nhưng trong tình trạng hỗn mang. Bị gió xô qua đẩy lại, bị sóng giằng giật lôi kéo, bốc lên đè xuống đủ kiểu, nó tuân theo tất cả những dồn dập điên cuồng của ngọn nước. Nó không rình rập theo chiều dọc nữa, đó là dấu hiệu đáng lo ngại của một chiếc thuyền trong giờ phút hấp hối. Những vật trôi giạt chỉ chòng chành theo chiều ngang. Rập rình chiều dọc là cảnh quằn quại trong chiến đấu. Chỉ tay lái mới có thể chịu được gió ngược. Trong bão táp và nhất là trong hiện tượng tuyết sa, biển cả và đêm tối cuối cùng hoà lẫn vào nhau, kết quyện làm một và chỉ thành một thứ khói. Sương mù, lốc xoáy, gió thổi. trôi theo mọi hướng, không một điểm tựa, không nơi căn cứ, không phút nghỉ ngơi, luôn luôn bắt đầu trở lại, hết lỗ hổng này đến lỗ hổng khác, chẳng thấy chân trời đâu cả, một kiểu giật lùi thăm thẳm, chiếc thuyền con bồng bềnh trong đó. Thoát khỏi bãi Caxkê, tránh được bãi ngầm, đối với lũ người bị đắm đã là một chiến thắng rồi. Nhưng là một sự kinh hoàng. Họ không dám reo hò; ở biển khơi không ai phạm những dại dột như thế hai lần. Khiêu khích cái khôn dò là điều nghiêm trọng. Đẩy lùi được đá ngầm là đã hoàn thành được việc phi thường. Họ ngơ ngác. Tuy vậy, dần dần họ cũng trở lại hy vọng. Những ảo ảnh không chìm không đắm được của tâm hồn đều như vậy. Không có nguy khốn nào, ngay trong giây phút hiểm nghèo nhất, trong chốn tận cùng của nó, lại không nhìn thấy sáng lên niềm hy vọng khó tả. Những con người bất hạnh kia không đòi hỏi gì hơn là tự nhận rằng mình đã được cứu thoát. Trong thâm tâm họ đang lắp bắp điều đó. Nhưng thình lình trong đêm tối bỗng lù lù một vật to lớn khủng khiếp. Bên mạn trái nổi lên, rõ mồn một trên nền sương mù, một khối mờ đục cao ngất, sừng sững, vuông góc, một ngọn tháp vuông của vực thẳm. Họ há hốc mồm ra nhìn. Gió đang ào ào đẩy họ tới đó. Họ không biết đấy là gì. Chính là hòn Ortasơ. 14. ORTASƠ Lại đá ngầm. Sau Caxkê đến Ortasơ. Bão táp đâu phải là nghệ sĩ, nó vốn tàn bạo, quyền lực vô cùng, và không thay đổi thủ đoạn. Tăm tối không biết kiệt quệ. Nó không bao giờ hết cạm bẫy và phản trắc. Con người chóng hết phương tiện. Con người tự tiêu hoa, chứ vực thẳm thì không. Lũ người đắm thuyền ngoảnh nhìn tên đầu đảng, niềm hy vọng của họ. Hắn chỉ có thể nhún vai, một thái độ khinh bỉ buồn rầu của bất lực. Ortasơ là một phiến đá lát nằm giữa đại dương. Tảng ngầm Ortasơ, nguyên một khối, dày dạn với bốn bề sóng nước, nhô thẳng lên tám mươi bộ cao. Sóng to và tàu thuyền gặp nó đều tan vỡ. Là một khối lập phương bất di bất dịch, nó cản đứng những cạnh thẳng của nó vào những đường cong lượn ngoằn ngoèo vô tận của biển cả. Ban đêm nó sừng sững như một cái thớt khổng lồ đặt trên những nếp nhăn của một tấm thảm đen to. Trong bão táp nó chờ đợi nhát rìu là sấm sét. Nhưng trong bão tuyết lại không bao giờ có sét. Đúng, chiếc thuyền đã có vải bịt mắt; bao nhiêu tăm tối đều bưng lấy mắt nó. Nó sẵn sàng như một tội nhân đón chịu cực hình. Còn sét, một cái chết nhanh chóng, thì đừng hòng hy vọng đến điều đó. Matutina chỉ là một chiếc thuyền mắc cạn, bồng bềnh, lúc này đang hướng tới tảng đá đó như ban nãy nó đã đi, tới tảng đá kia. Những con người bất hạnh, đã một lúc tưởng được cứu thoát giờ đây lại hồi hộp lo lắng. Cảnh đắm thuyền mà họ đã bỏ lại phía sau, giờ đây lại hiện ra trước mắt. Đá ngầm lại từ đáy biển nhô lên. Chẳng có gì xong, chẳng có gì hết. Caxkê như một cái khuôn bánh nghìn ô. Ortasơ như một bức thành cao ngất. Đắm ở Caxkê thì bị rách tả tơi, đắm ở Ortasơ thì bị nghiền nát vụn. Tuy vậy vẫn còn một điểm may mắn. Trên những mặt phẳng, mà Ortasơ là một, sóng không hơn gì đạn cối nó không nẩy thia lia. Nó thu hẹp vào thế giản đơn. Sóng xô vào rồi sóng lại rút ra! Sóng đến thì mạnh sóng hồi thì êm. Trong những trường hợp như vậy, vấn đề sống chết được đặt ra như sau: nếu sóng đến dẫn thuyền tới sát nút, nó sẽ quật thuyền vào núi vỡ tan và thuyền sẽ không còn nữa; nếu sóng êm trở về trước khi thuyền chạm núi, nó sẽ kéo thuyền ra, vậy là thuyền thoát nạn. Nỗi lo sợ thật thương tâm. Lũ người lâm nạn nhìn thấy trong bóng tối chập chờn ngọn sóng to quyết định đang tiến đến trước mặt. Nó sắp kéo họ đi đâu? Nếu sóng quật vào thuyền, họ sẽ bị cuốn lăn vào núi và tan xương. Nếu sóng luồn xuống đáy thuyền. Ngọn sóng lòn qua đáy thuyền. Họ thở phào nhẹ nhõm. Nhưng họ sẽ gặp cái gì trở lại đây ? Ngọn sóng nhào sẽ làm gì họ đây. Ngọn sóng nhào cuốn họ ra. Mấy phút sau thuyền Matutina đã ở ngoài tầm nước của bãi ngầm. Ortasơ cũng khuất dần như Caxkê đã mờ khuất. Đó là chiến thắng thứ hai. Lần thứ hai chiếc thuyền con đã sắp đắm đến nơi và đã lùi lại đúng lúc. 15. PORTENTOSUM MARE[79] Trong khi ấy một đợt mù dày đặc đã ập xuống những con người bất hạnh đang trôi dạt. Họ không biết họ đang ở đâu. Họ chỉ nhìn thấy lờ mờ vài tầm[80] quanh thuyền. Mặc dầu mưa đá ào ào buộc tất cả họ phải cúi đầu, mấy mụ cũng nhất định không chịu xuống cabin. Không một kẻ thất vọng nào lại không muốn chết đắm giữa trời. Họ gần cái chết đến nỗi thấy có trần trên đầu là thấy mở đầu cho cỗ áo quan. Sóng, mỗi lúc một căng phồng, đã ngắn hẳn lại. Sóng ứ là dấu hiệu của tắc nghẹn; trong sương mù, có những quầng nước báo hiệu có một eo biển. Đúng thế, họ không biết đấy thôi, họ đang men theo Ôrinhi. Giữa Caxkê với Ortasơ ở phía tây, với Ôrinhi ở phía đông, đều bị thắt lại, bị ngăn chặn, và chỗ nào biển khó chịu thì chỗ đó gây nên bão táp. Biển cũng đau đớn như mọi thứ khác; chỗ nào biển đau thì biển nổi giận. Eo biển ấy rất dễ sợ. Thuyền Matutina đang nằm trong eo biển đó. Ta hãy tưởng tượng ở dưới một cái mu rùa to như Haiđơ Pae[81] hay Săng-Êlidê[82], mà mỗi rãnh là một hũng sâu và mỗi chỗ bướu là một chỏm núi. Hướng tiếp cận mặt tây Ôrinhi như thế đấy. Biển cả trùm lên và che kín cái bẫy đắm tàu đó. Trên cái mu toàn đá ngầm đó, sóng bị xé nhỏ, nhảy nhót và sủi bọt. Khi yên tĩnh là tiếng róc rách; trong giông tố là cảnh hỗn mang. Hiện tượng phức tạp mới này, những người đắm thuyền nhận thấy mà không tự giải thích nổi. Rồi đột nhiên họ hiểu ra. Một khoảng trời nhợt nhạt xuất hiện trên thiên đỉnh, một chút mờ xanh tản mạn trên biển cả, cái màu xanh nhợt đó để lộ ra ở mạn bên trái một cái đập chắn ngang phía đông, và gió đuổi thuyền đi đang ào ào thổi vào đó. Cái đập ấy là Ôrinhi. Là gì? Họ run bần bật. Họ còn run hơn nữa nếu có tiếng trả lời họ : Ôrinhi. Không một hòn đảo nào được bảo vệ để chống con người thâm nhập như Ôrinhi. Dưới nước và trên mặt nước, nó có một đội bảo vệ hung dữ, mà Ortasơ chính là tên lính gác. Phía Tây, Buyru, Xôtơriô, Anfrôc, Niangơlơ, Eôngđuy Crôc, LêJuymenm, La Gơrôx, La Clăngkơ, Lêzêkilông, Lơ Vrăc, La Fôx Malie; phía đông Xôkê, Ômmôm, Flôrô, La Brinobote, La Kexlanh, Crôkơlihu, La Fuôcsơ, Lơxô, Noa Puy, Cupi, Crbuy[83]. Tất cả lũ quái vật ấy là gì? Những con giao long, phải không? Phải, thuộc loại đá ngầm. Một trong những hòn đá tên là Buyt, như để chỉ rõ là mọi cuộc hành trình đều kết thúc tại đấy[84]. Loại đá ngầm nằm ngổn ngang đó nhờ có nước và đêm tối hoá ra đơn giản, hiện ra trước mắt đám người lâm nạn dưới hình thức một giải dài tối om đơn giản, một thứ vạch đen ở chân trời. Chìm đắm là chỗ tận cùng của bất lực. Gần đất liền mà không đến được đất liền, nổi lềnh bềnh mà lại không chèo không lái được, đặt chân lên một vật có vẻ chắc chắn mà lại mong manh, cùng một lúc tràn đầy sức sống và chết chóc, là tù nhân giữa trời biển bao la, bị bao vây giữa trời mây và biển cả, mang trên người cả cái vô cùng như một hầm tối, quanh mình là gió lộng và sóng nước mông mênh vì bị tóm chặt, trói gô, liệt vị, cái cảnh hành hạ đó khiến phải sừng sờ và phẫn nộ. Tưởng như thấp thoáng ở đó có nụ cười chế nhạo của người chiến sĩ không ai tới gần được. Cái giam giữ anh chính lại là cái tháo bỏ cho chim cá được tự do bay lội. Cái đó hình như chẳng là gì hết mà lại là tất cả, phải phụ thuộc vào lớp không khí mà người ta làm vẩn đục bằng mồm, phải phụ thuộc vào làn nước mà người ta có thể vốc trong lòng bàn tay. Hãy múc đầy cốc thứ bão táp đó, nó chỉ là một mớ đắng cay. Ngụm nước, đó là sự ghê tởm; sóng biển, đó là sự tuyệt diệt. Hạt cát trong sa mạc, chút bọt sóng của đại dương là những hình ảnh choáng ngợp; toàn năng không cần che giấu hạt nguyên tử của mình, nó lấy cái yếu làm sức mạnh, nó lấp đầy hư không bằng cái toàn thể của nó, và cái lớp vô biên nghiền nát anh bằng chính cái nhỏ vô cùng. Chính bằng những giọt nước mà đại dương bóp nát anh. Con người tự cảm thấy mình là một thứ đồ chơi. Đồ chơi, ôi từ ngữ đó sao mà khủng khiếp! Thuyền Matutina ở phía trên Ôrinhi một tí, đó là điểm thuận lợi; nhưng trôi giạt đến mũi bắc thì rất nguy hại. Ngọn gió bấc tây bắc, như một cánh cung căng thẳng buông một mũi tên, bắn chiếc thuyền vào mũi bắc. Ở chỗ cái mũi ấy, ở bên này cảng Corbơlê một tí, có cái mà thuỷ thủ quẩn đảo Normăngđi gọi là “Con khỉ”. Con khỉ - swinge - là một dòng nước thuộc loại hung dữ. Một tràng phễu ở đáy biển tạo thành một chuỗi xoáy trong sóng nước. Cái này buông ra, cái kia tóm lại. Một con thuyền, bị khỉ tóm, cứ thế lăn từ xoáy ốc này sang xoáy ốc khác cho đến khi một mỏm núi nhọn phá toang vỏ thuyền. Lúc ấy chiếc thuyền vỡ dừng lại, phía sau nhô lên khỏi sóng, phía trước chúi xuống, vực thẳm kết thúc vòng quay, phía sau chìm nghỉm và tất cả khép lại. Một đám bọt sóng loang rộng và trôi lềnh bềnh, trên mặt sóng chỉ còn thấy đây đó mấy cái bong bóng, từ những hơi thở tắc nghẹn dưới nước nổi lên. Trong toàn bộ biển Măngsơ, ba con khỉ nguy hiểm nhất là con khỉ ở gần bãi cát nổi tiếng Gơcđơlơ Xen, con khỉ ở Giocxây giữa Pinhonê và mũi Noamông, và con khỉ Ôrinhi. Một hoa tiêu địa phương, giá có mặt trên thuyền Matutina, đã báo hiệu cho những người bị đắm về nguy cơ mới này. Thiếu hoa tiêu, họ có bản năng; trong những hoàn cảnh cuối cùng, vẫn có nhãn quan thứ hai. Bọt nước quằn quại bắn lên rất cao, bay dọc theo bờ, trong cảnh phá phách điên cuồng của gió. Đó là những thứ con khỉ khạc nhổ ra. Biết bao thuyền bè đã mất tích trong cái ổ phục kích này. Không biết ở đó có gì, họ cứ hãi hùng tiến lại gần. Làm thế nào để vượt qua mũi này? Không có cách nào cả. Cũng như ban nãy họ đã thấy xuất hiện Caxkê, rồi xuất hiện Ortasơ, giờ đây họ lại thấy nhô lên cái đỉnh Ôrinhi, toàn núi đá cao. Giống hệt những tên khổng lồ, hết tên nọ đến tên kia. Một loạt trận quyết chiến rùng rợn. Sarip và Xinla[85] chỉ mới hai; Caxkê, Ortasơ và Ôrinhi những ba. Lại vẫn hiện tượng đá ngầm đầy dẫy chân trời với vẻ đơn điệu vĩ đại của vực thẳm. Những trận chiến ngoài đại dương bao giờ cũng lặp đi lặp lại một cách oai hùng như những trận chiến của Hôme[86]. Họ càng đến gần thì mỗi đợt sóng lại tăng thêm hai mươi khuỷu[87] vào cái mũi đá được khuếch đại khủng khiếp trong sương mù. Việc giảm dần quãng cách dường như không thể nào tránh khỏi. Họ đang men đến gần con khỉ. Ngọn sóng đầu tiên tóm được họ sẽ cuốn băng họ đi. Một con sóng nữa là hết cả. Thình lình chiếc thuyền con bị hất lùi ra sau như bị một quả đấm của khổng lồ. Ngọn sóng hồi lồng lộn dưới lòng thuyền lật nhào nó, vứt trả vật trôi giạt vào cái bờm bọt nước. Nhờ sức đẩy đó, thuyền Matutina rời khỏi vịnh Ôrinhi. Thứ đồ chơi trẻ con đó của thần chết lại ra khơi. Nhờ đâu có sự cứu thoát đó. Nhờ gió. Luồng gió của phong ba vừa chuyển hướng. Sóng nước đã đùa giỡn với họ, bây giờ đến lượt gió. Họ đã tự gỡ ra khỏi Caxkê; nhưng trước Ortasơ sóng hồi đã dắt dẫn kịch biến; trước Ôrinhi là gió bấc. Gió đã đột ngột trở từ hướng bắc xuống hướng nam. Gió tây nam đã tiếp theo sau gió tây bắc. Triều lưu là gió quện trong nước; gió là triều lưu quện trong không khí; hai sức mạnh đó vừa mới đối chọi nhau, và gió đã giở chứng cướp mất mồi của triều lưu. Những hành vi thô bạo của đại dương vẫn tối tăm. Có lẽ chúng vẫn thường xuyên như thế. Đã nằm trong tay chúng thì không thể hy vọng, mà cũng không thể thất vọng. Chúng thắt rồi chúng lại mở. Đại dương đùa bỡn. Tất cả mọi cung bực của tàn bạo dã thủ đều có trong biển cả nham hiểm mà Jăng Bar gọi là “tên đần độn”. Đó là cái cào cấu cố tình, cách quãng bằng những cái tát khẽ. Đôi khi bão táp chỉ đánh đắm qua loa, đôi khi nó lại làm rất chu đáo; hầu như có thể nói là nó vuốt ve mơn trớn cái trò đánh đắm. Biển cả có thừa thời gian. Những kẻ đang hấp hối nhận rõ điều ấy. Phải nói rằng đôi khi những việc trì hoãn cực hình đó lại báo hiệu sự giải thoát. Những trường hợp như thế hiếm thôi. Dù sao kẻ hấp hối cũng vẫn dễ tin vào sự thoát nạn, bão táp chỉ hơi bớt đe doạ là đủ, họ tự khẳng định đã thoát khỏi nguy cơ, sau khi tưởng bị chôn vùi họ lại tin chắc vào việc hồi sinh, họ cuống cuồng đón nhận cái chưa nắm trong tay, tất cả những gì vận rủi chứa đựng đã tiêu tan hết, hiển nhiên là thế, họ tự nhận là thoả mãn, là đã thoát nạn, họ xem như sạch nợ với Chúa. Chớ có vội trao giấy biên nhận cho Đấng Vô danh. Gió tây nam bắt đầu bằng một cơn lốc xoáy. Người bị đắm bao giờ cũng chỉ có những kẻ cứu vớt cáu kỉnh. Thuyền Matutina bị cuốn ra khỏi một cách thô bạo nhờ những thứ còn lại trên thuyền, y như một người chết bị túm tóc lôi đi. Giống như việc phóng thích mà Tibe ban cho, sau khi hãm hiếp. Gió lại đối xử tàn bạo với những kẻ được nó cứu thoát. Nó làm ơn một cách giận dữ. Đó là sự cứu vớt không có lòng thương xót. Mảnh rểu, trong sự ngược đãi mang tính giải thoát này, tan rã hoàn toàn. Những hạt mưa đá, to và cứng đến mức có thể nhồi vào súng thần công được, rơi ầm ầm lên thuyền. Mỗi lần sóng giật, những hạt mưa đá lại lăn trên mặt boong như những hòn bi. Chiếc thuyền con, hầu như đứng giữa, mất hết hình dạng dưới những lớp sóng nhào và những lớp bọt tan. Trên thuyền người nào cũng chỉ nghĩ đến bản thân. Mạnh ai bám được vào đâu thì bám. Sau mỗi lần sóng biển trào lên thuyền, họ lại ngạc nhiên thấy vẫn còn đầy đủ. Nhiều người toạc cả mặt vì bị dăm gỗ quất. Cũng may thất vọng có những nắm tay vững chắc. Trong hãi hùng bàn tay con trẻ thường bấu chặt như tay khổng lồ. Lo lắng thường biến ngón tay phụ nữ thành gọng kìm chắc. Một thiếu nữ sợ hãi có lẽ với những móng tay hồng có thể cấu thủng được cả sắt. Họ bấu vào nhau, túm lấy nhau, giữ chặt lấy nhau. Nhưng tất cả các ngọn sóng đều làm cho họ kinh hoàng, sợ bị quét băng. Thình lình họ thấy nhẹ hẳn người. 16.TÍNH CHẤT HIỀN LÀNH ĐỘT NGỘT CỦA BÍ ẨN Phong ba vừa dừng hẳn. Trong không khí không còn gió tây nam, cũng chẳng còn gió tây bắc. Tiếng kèn của không trung đã lặng. Cây nước từ trên trời nhô ra không thu nhỏ trước, không chuyển dần, cứ như chui tuột xuống vực thẳm. Không biết nó ở đâu nữa. Bông tuyết bỗng thay thế mưa đá. Tuyết lại bắt đầu rơi thong thả. Không còn sóng cuộn. Mặt biển phẳng lì. Những đợt ngừng tắt đột ngột ấy là đặc điểm của bão tuyết. Luồng điện đã hết, tất cả đều lắng xuống. Kể cả sóng nước vốn hay xáo động khá lâu trong những trận bão bình thường. Ở đây hoàn toàn không thế. Không có phút phẫn nộ nào kéo dài trong nước. Như một người lao động sau một lúc mệt nhọc, sóng lặng ngay tức khắc, điều đó hầu như mâu thuẫn với những định luật của tĩnh lực học, nhưng không làm cho các hoa tiêu lão luyện ngạc nhiên, vì họ biết cả những gì bất ngờ đều có trong biển cả. Hiện tượng này cũng xảy ra, nhưng rất hiếm, cả trong những trận bão táp thông thường. Cho nên ngày nay, trong trận phong ba đáng ghi nhớ hôm 27 tháng 7 năm 1867, ở Giecxê, sau mười bốn tiếng đồng hồ lồng lộn, gió bỗng lặng hẳn. Sau mấy phút, xung quanh chiếc thuyền con chỉ có mặt nước lặng lờ. Đồng thời, vì giai đoạn cuối thường giống giai đoạn đầu, người ta không nhìn thấy gì nữa. Tất cả những cái có thể nhìn thấy trong cơn quằn quại của mây khí tượng đều trở lại mù mịt, những bóng dáng xanh nhợt đều tan ra, loãng ra tản mạn, và cái mầu tối sẫm của bao la từ bốn phía cứ tiến gần đến con thuyền. Bức tường đêm đó, sự bao quanh đó, cái bên trong hình ống đó mà đường kính cứ từng phút từng phút thu hẹp dần, bao bọc lấy thuyền Matutina, và từ từ, ác hiểm như một núi băng khép lại, cứ nhỏ dần một cách khủng khiếp. Trên thiên đỉnh chẳng có gì hết, một cái vung sương mù, một bức rào. Chiếc thuyền con như nằm trong đáy giếng của vực thẳm. Trong cái giếng ấy, một vũng chì nước đó là biển cả. Nước không xao xuyến nữa. Một trạng thái bất động thảm đạm. Đại dương có bao giờ hung ác hơn hồ ao. Tất cả đều tĩnh mịch, lắng đọng, mù quáng. Sự im lặng của vạn vật có lẽ là tính lầm lì. Những tiếng róc rách cuối cùng trườn theo cạp thuyền. Mặt boong nằm ngang với độ nghiêng không đáng kể. Một đôi chỗ nứt vỡ khẽ rung rung. Cái vỏ lựu đạn, dùng làm kèn hiệu, trong đó bùi nhùi cháy lẫn với nhựa đường, không đung đưa ở cột buồm cái nữa; và cũng không bắn những giọt lửa xuống biển nữa. Những gì còn lại của hơi thở trong mây trời không phát ra tiếng động nữa. Tuyết rơi mau, mềm mại, hơi chênh chếch. Không còn nghe tiếng bọt nước của một mỏm đá ngầm nào cả. Cảnh thanh bình của tăm tối. Giây phút nghỉ ngơi này, sau những cơn phẫn nộ và cao điểm vừa qua, đối với những kẻ khốn khổ đã bị dồn dập quá nhiều, là một hạnh phúc khó tả. Họ thấy hình như họ không còn bị hành hạ nữa. Họ thoáng thấy xung quanh và trên đầu họ có một sự đồng tình để cứu thoát họ. Họ lại tin tưởng. Tất cả những gì ban nãy lồng lộn điên cuồng thì bây giờ yên tĩnh. Họ thấy như đó là một hiệp ước hòa bình đã được ký kết. Những lồng ngực khốn khổ của họ căng phồng lên. Họ có thể buông mẩu dây hay mảnh ván đang cầm trong tay ra, nhổm dậy, vươn mình, đứng thẳng đi lại cử động. Họ cảm thấy yên tâm một cách khó nói. Trong chốn sâu kín tối tăm, có những hiệu quả thiên đường như vậy, chuẩn bị cho một cái gì khác. Rõ ràng là họ đã dứt khoát thoát khỏi cuồng phong, thoát khỏi bọt sóng, thoát khỏi gió dập, thoát khỏi những sự điên khùng, họ đã được giải thoát. Từ lúc này họ có đủ mọi may mắn cho bản thân. Trong ba bốn tiếng đồng hồ nữa, mặt trời sẽ mọc, một chiếc thuyền nào đó đi qua sẽ trông thấy và thế là họ sẽ được cứu vớt. Phút gay go nhất đã qua. Họ đang trở lại với cuộc đời. Điều quan trọng là đã đứng vững được trên mặt nước cho đến lúc hết bão. Họ tự nhủ: lần này thế là hết. Thình lình họ nhận thấy quả là hết thật. Một trong số thuỷ thủ, tay người Baxcơ miền bắc, tên là Galđizum, đi xuống khoang để tìm dây cáp, trở lên nói: Khoang đầy ắp. Đầy gì? Tên đầu đảng hỏi. - Nước - người thuỷ thủ đáp Tên đầu đảng hét to: - Thế nghĩa là thế nào? - Thế nghĩa là - Galđizum nói tiếp - trong nửa giờ nữa, chúng ta sẽ chìm nghỉm. 17. PHƯƠNG SÁCH CUỐI CÙNG. Ở sống thuyền có một kẽ nứt. Nước cứ theo đó rò Vào. Từ lúc nào? Điều đó không ai có thể nói được. Có phải lúc đến gần hòn Caxkê không? Có phải lúc đứng trước Ortaso không? Có phải lúc nước róc rách ở bãi ngầm phía tây Ôrinhi không? Có lẽ đúng nhất vì họ đã chạm vào Con khỉ. Họ đã nhận một cú thúc ngầm của lợn lòi. Giữa cơn cuồng phong lồng lộn quăng quật, họ đã không nhận thấy cú húc. Trong cơn sài uốn ván con người không cảm thấy mũi tiêm. Tay thuỷ thủ kia, anh chàng người Baxcơ miền nam tên là Avê Maria, cũng lần xuống khoang, trở lên và nói: Nước trong khoang cao đến hai varo. Quãng sáu piê[88] - Đúng. - Phải một người đưa chúng tôi vào - tên đầu đảng lại nói. - Chúng tôi không có hoa tiêu - Galđizun nói. - Mày cầm lấy cần lái đi. - Làm gì còn cần lái. - Ta làm tạm một cái với thanh xà nào vậy. Lấy Đinh. Lấy búa. Lấy dụng cụ ra đây mau! - Thùng thợ mộc đã rơi xuống nước rồi. Không còn dụng cụ nữa. - Dù sao thì cũng phải chèo lái chứ, đi bất cứ đâu! - Chúng tôi không còn tay lái nữa. - Canô đâu? Ta cứ nhảy xuống canô. Ta chèo! - Chúng tôi không còn canô nữa. - Ta chèo mảng vậy. - Chúng tôi không còn bơi chèo. - Thế thì dùng buồm. - Chúng tôi không còn buồm, không còn cột buồm. - Ta lấy thanh gỗ ốp làm cột buồm, lấy bạt che hàng làm buồm. Phải thoát khỏi đây chứ! Cứ phó mặc cho gió! - Làm gì còn gió. Quả thật gió đã rời bỏ họ. Bão táp đã đi rồí, và việc ra đi ấy, họ những tưởng cứu thoát họ, lại dẫn họ vào chỗ chết. Ngọn gió tây nam, giá còn sẽ điên cuồng đẩy họ tới một bến bờ nào đó, sẽ thẳng lỗ rò về tốc độ, có lẽ sẽ đưa họ đến một bãi cát nào thuận tiện, và giạt họ lên bờ trước khi họ bị chìm nghỉm. Bão cuốn nhanh có thể đưa họ đặt chân lên đất liền. Không có gió, không còn một hy vọng nào nữa. Họ sẽ chết vì thiếu phong ba. Hoàn cảnh tối hậu hiện ra. Gió, mưa đá, cuồng phong, cuốn lốc, là những đấu thủ vô trật tự mà người ta có thể chiến thắng được. Không có vũ khí vẫn có thể thắng được bão táp. Người ta có nhiều lối đánh trả kẻ hùng hổ lúc nào cũng sơ hở, vận động nhầm, thường đánh hụt. Nhưng chống lại kẻ bình tĩnh thì chịu. Không có chỗ mấu nào để có thể tóm được. Gió là một kiểu tấn công của người Côzắc; cứ giữ cho vững, tự nó khắc phân tán. Bình tĩnh là gọng kìm của đao phủ. Nước không vội vã, nhưng không lúc nào ngừng, lại nặng và không ngăn giữ được, cứ dâng lên trong khoang, mà nước càng lên thì thuyền càng xuống. Sự việc đó tiến rất chậm. Những con người bị đắm thuyền Matutina cảm thấy dưới chân cứ hé mở dần dần cái tai biến vô vọng nhất, cái tai biến đần độn vô tình. Tính thực tế lặng lẽ và thảm đạm của sự việc vô ý thức đó nắm chắc lấy họ. Không khí không dao động, biển cả không xao xuyến. Bất động là cái không thể van nài. Việc nuốt chửng lặng lặng làm họ tiêu tan dần dần. Qua lớp nước dày; câm lặng, không giận dữ, không say mê, không muốn thế, không biết thế, không có lợi gì trong đó, cái trung tâm ác nghiệt của quả đất cứ cuốn hút họ. Hãi hùng, cứ thảnh thơi, quện lẫn với họ. Đây không còn là cái mõm toang hoác của ngọn nước, là cái hàm đôi của gió trời và sóng biển đe doạ một cách hung dữ, là cái nhếch miệng của con rồng lấy nước, là con sóng đòi ăn đang sùi bọt mép; dưới những con người khốn khổ kia, đây là cái miệng ngáp đen ngòm nào đó không biết của vô biên. Họ tự cảm thấy đang bước vào một nơi sâu thẳm thanh bình là cái chết. Phần mép thuyền con nhô lên trên mặt nước cứ mỏng dần, có thế thôi. Có thể tính được đến phút nào thì nó sẽ biến mất. Điều này trái ngược hẳn với lối nhận chìm của thuỷ triều. Nước không dâng lên phía họ, mà họ lại đi dần xuống nước. Việc đào mồ của họ do họ tiến hành. Trọng lượng của họ là người đào huyệt. Họ bị hành quyết không phải bởi luật pháp của con người, mà vì qui luật của vạn vật. Tuyết cứ rơi, và do mảng thuyền không chòng chành nữa, nên thứ xơ trắng xoá đó hình thành một lớp khăn trải trên sàn tàu và phủ kín thuyền như một tấm vải liệm. Khoang thuyền ngày càng nặng. Không có cách nào khắc phục lỗ rò. Họ không có cả xẻng múc, vả lại nếu có cũng tạm bợ và không sử dụng được vì thuyền có boong. Phải tìm cách soi sáng; họ thắp ba bốn ngọn đuốc, cắm bừa vào những lỗ thủng, Galđizun mang đến mấy cái xô cũ bằng da; họ định múc cạn khoang thuyền và làm theo lối dây chuyền; nhưng xô không dùng được nữa, da chiếc này bục chỉ, đáy chiếc kia thủng lỗ, nên dọc đường nước chảy hết. Thế chênh lệch thật là hài hước, giữa phần nhận và chỗ trả, một tấn nước tuôn vào một cốc nước múc ra. Không có cách nào khác có hiệu quả. Một kiểu chi tiêu của anh chàng keo kiệt định một xu, xu một, tiêu xài cho hết một triệu. Tên đầu đảng nói: - Ta làm cho nhẹ bớt mảng đi. Trong cơn bão họ có buộc mấy cái thùng trên boong. Chúng vẫn bị cột chặt vào chân cột buồm. Họ vội tháo bỏ dây và lăn số thùng xuống nước qua một chỗ vỡ của cạp thuyền. Trong số đó có một thùng của mụ người Baxcơ, mụ ta không nén được tiếng thở dài; - Ôi! cái áo choàng mới, lót gấm đỏ của tôi! Ôi! mấy đôi bít tất đăng-ten bằng vỏ phong của tôi! Ôi! đôi hoa tai bằng bạc để tôi đi lễ thánh Đức Bà! Sàn thuyền đã dọn sạch, còn cái buồng con. Ở đây rất ngổn ngang. Ta còn nhớ, nó chứa các thứ hành lý của hành khách và những balô của cánh thuỷ thủ. Họ lôi hành lý ra và vứt hết các của đó qua chỗ mép thuyền vỡ. Họ kéo balô lên và đẩy tất xuống đại dương. Việc dọn quang cái buồng con thế là xong. Đèn, sà gỗ, thùng gỗ, bao bị, thùng chậu đựng nước ngọt, cái nồi đầy xúp, tất cả đều tung hê xuống nước hết. Họ vặn những đai ốc của cái lò sắt tắt ngấm từ lâu, họ tháo lò ra, lăn nó trên mặt sàn, kéo nó đến tận chỗ mép vỡ, vứt nó ra khỏi thuyền. Họ quẳng xuống nước tất cả những gì có thể giành giật ra được của lớp ván lót, ván cạp, của dây chằng và của các thứ thuyền cụ bị giập vỡ. Chốc chốc tên đầu đảng lại cầm một ngọn đuốc đưa qua đưa lại trên những con số chỉ mức nước, sơn ở mũi thuyền, để xem tai hoạ đã tới đâu rồi. 18. PHƯƠNG KẾ TỐI HẬU Tấm mảng, sau khi được giảm nhẹ, chìm có hơi chậm hơn nhưng vẫn cứ chìm. Hoàn cảnh tuyệt vọng không còn phương kế gì nữa, cũng không có cách trì hoãn nữa. Họ đã dùng đến sách cuối cùng rồi. - Còn gì vứt được xuống biển nữa không? - tên đầu đảng hét to. Lão tiến sĩ, không được ai nghĩ đến nữa, từ một góc nóc cabin bước ra và nói: - Có. - Cái gì - tên đầu đảng hỏi. Lão tiến sĩ đáp: - Tội ác của chúng ta. Mọi người đều rùng mình và tất cả đều rống lên. - Amen. Lão tiến sĩ, đứng yên, mặt tái nhợt, chỉ một ngón tay lên trời và nói: - Quì xuống. Tất cả lảo đảo, chuẩn bị quì gối. Lão tiến sĩ nói tiếp: - Hãy vứt bỏ tội ác của chúng ta xuống biển. Chúng nặng trĩu trên người chúng ta. Chính vì vậy mà thuyền chìm. Chúng ta đừng nên nghĩ đến chuyện thoát khỏi đây nữa, mà hãy nghĩ đến việc cứu rỗi linh hồn. Nhất là cái tội ác cuối cùng của chúng ta, cái tội ác mà chúng ta vừa gây nên, hay để nói cho đúng hơn, thêm vào ban nãy, hỡi những con người khốn khổ đang lắng nghe ta nói, nó đoạ đày chúng ta. Định thách thức vực thẳm khi đã dụng tâm để lại sau lưng một tội ác, là một hành vi vô đạo láo xược. Chống lại một trẻ thơ tức là chống lại Chúa. Ta biết là buộc phải ra đi, nhưng việc đó dẫn đến cảnh trầm luân không thể tránh khỏi. Bão táp đã đến vì nó được bóng tối báo cho biết hành vi của chúng ta. Tốt thôi. Tuy nhiên, các người đừng luyến tiếc gì hết. Đây kia không xa lắm, trong cảnh tối tăm này, chúng ta có những bãi cát Vôđovin và mũi Hugơ. Đó là nước Pháp. Chỉ có một chỗ ẩn náu được, nước Tây Ban Nha. Đối với chúng ta nước Pháp cũng không kém nguy hiểm hơn nước Anh. Chúng ta có thoát khỏi biển khơi thì cũng chỉ để kết thúc trên giá treo cổ. Hoặc chết treo, hoặc chết chìm, chúng ta không có cách lựa chọn nào khác. Chúa đã chọn giùm chúng ta. Chúng ta hãy biết ơn Chúa. Người đã ban cho chúng ta nấm mồ để rửa sạch. Hỡi các người anh em, điều không thể tránh khỏi đã kia rồi. Các người hãy nghĩ rằng chính chúng ta ban nãy đã làm hết sức mình để gửi lên trời cao một kẻ là đứa bé đó; và chính lúc này, lúc ta đang nói đây, có lẽ trên đầu chúng ta có một linh hồn đang tố cáo chúng ta trước một vị quan tòa nhìn thẳng chúng ta. Chúng ta hãy lợi dụng cái án treo cuối cùng. Nếu còn có thể, chúng ta hãy cố gắng đền bù tội lỗi của chúng ta, trong chừng mực tùy thuộc chúng ta. Nếu đứa bé sống sót, chúng ta hãy cứu giúp nó. Nếu nó chết, chúng ta hãy cố làm cho nó tha thứ chúng ta. Chúng ta hãy cất bỏ cái tội đại ác trên đầu. Chúng ta hãy trút bỏ cái gánh nặng ấy khỏi lương tâm. Chúng ta hãy cố sao cho linh hồn chúng ta khỏi bị chìm ngập trước Chúa Trời, vì đó mới là nạn đắm khủng khiếp. Thể xác dành cho cá, linh hồn dành cho ma quỉ. Các người hay thương lấy các người. Quì xuống, ta bảo với các người như vậy. Lòng hối hận là con thuyền không chìm đắm. Các người không còn la bàn nữa sao? Sai lầm. Các người có kinh cầu nguyện. Những con sói dữ kia bỗng trở thành cừu non. Những thay đổi đó hiện rõ trong lo sợ. Có trường hợp hổ báo liếm thánh giá. Khi cánh cửa đen ngòm hé mở, tin cũng khó, mà không tin cũng không được. Những hình thức khác nhau về tôn giáo mà con người thử phác hoạ, dù không hoàn chỉnh đến mấy, ngay cả khi tín ngưỡng không thành hình, ngay cả khi đường viền ngoài của giáo điều không khớp tí nào với những nét đặc biệt của vĩnh cứu cảm đoán, thì vào giây phút lâm chung vẫn có một chút rung động của linh hồn. Sau cuộc sống có một cái gì đó bắt đầu, áp lực đó đè lên giờ phút lâm chung. Hấp hối là một kỳ hạn. Vào giây phút cuối cùng này, người ta cảm thấy trách nhiệm mơ hồ đè lên người. Việc đã qua làm phức tạp thêm điều sẽ tới. Quá khứ quay trở lại và đi sâu vào tương lai. Chốn đã tường cũng như chỗ chưa biết trở thành vực thẳm, và hai vực sâu ấy, một nơi người ta phạm tội lỗi, một nơi người ta được chờ đợi, hòa lẫn ánh phản quang với nhau. Chính sự kết quyện đó của hai vực thẳm khiến cho kẻ hấp hối phải hãi hùng. Họ đã tiêu phí lần cuối cùng niềm hy vọng trong cuộc sống. Vì vậy mà họ quay lại phía kia. Họ chỉ còn tìm may rủi trong bóng tối đó thôi. Họ hiểu như vậy. Đó là một lóe sáng ảm đạm, tiếp ngay bằng một nỗi hãi hùng mới. Điều chợt hiểu trong phút giây hấp hối giống cái thấy được trong tia chớp. Tất cả, rồi thẳng có gì hết. Người ta thấy rồi người ta không thấy nữa. Sau khi chết, mắt lại mở ra, và cái trước đây là tia chớp sẽ trở thành mặt trời. Họ gào to với lão tiến sĩ: - Ngài! Ngài! Chỉ còn có ngài. Chúng tôi xin nghe theo ngài. Phải làm gì đây? Ngài nói đi! Lão tiến sĩ đáp: - Vấn đề là phải đi qua cái vực thắm vô định và tới cho được bờ bên kia cuộc sống, nó ở phía bên kia nấm mồ. Là người biết nhiều nhất nên tôi nặng tội nhất. Các người nên nhường boong thuyền cho kẻ mang nặng nhất. Lão nói thêm: - Hiểu biết đè nặng lương tâm. Rồi lão lại nói: - Chúng ta cỏn bao nhiêu thời gian nữa? Galđizun nhìn vào vạch đo mức nước và đáp: Hơn mười lăm phút một tí. - Tốt - lão tiến sĩ nói. Cái mái thấp lè tè của nắp cabin, chỗ lão đang chống khuỷu tay làm thành một thứ bàn. Lão tiến sĩ moi ở túi lọ mực, cái bút và cái ví rồi rút ra một tờ giấy da, vẫn tờ giấy lão đã viết ở mặt trái, mấy giờ trước, độ hai mươi dòng ngoằn ngoèo chi chít. - Cho ánh sáng đây - lão nói. Tuyết rơi như bọt thác, đã lần lượt làm tắt hết các bó đuốc. Chỉ còn có một bó. Avê Maria rút nó lên cầm chặt trong tay và đến đứng bên cạnh lão tiến sĩ. Lão tiến sĩ lại bỏ ví vào túi, đặt lên nắp cabin cái bút và lọ mực, giở tờ giấy da ra và nói: - Các người nghe đây. Thế là, giữa biển cả, trên cái cầu nối thu hẹp đó, một thứ sàn rung rinh của mộ địa, bắt đầu giọng đọc trang nghiêm của lão tiến sĩ được toàn bộ bóng tối dường như lắng nghe. Tất cả những con người bị kết án kia cúi đầu xung quanh lão, ánh sáng đỏ rực của ngọn đuốc càng tăng vẻ tái mét của họ. Những điều lão tiến sĩ đọc, viết bằng tiếng Anh. Từng lúc, khi một trong những con mắt thảm hại kia có vẻ như yêu cầu một điều giải thích, lão tiến sĩ lại dừng và nhắc lại, hoặc bằng tiếng Pháp, hoặc bằng tiếng Tây Ban Nha, hoặc bằng tiếng Baxcơ, hoặc bằng tiếng Ý, đoạn văn lão vừa đọc xong. Có tiếng nức nở nghẹn ngào và tiếng đấm ngực thình thịch. Tấm mảng tiếp tục chìm dần. Đọc xong, lão tiến sĩ đặt tờ giấy lên nóc cabin, cầm lấy bút và trên lề trắng chừa ở dưới chỗ đã viết, lão ký: TIẾN SĨ GIECNAĐU GIEXTÊMUNĐÊ. Rồi ngoảnh lại phía mấy người kia, lão nói: - Đến đây, rồi ký vào. Mụ người Baxcơ đến gần, cầm bút và ký Axunxi ông. Mụ chuyển bút cho mụ người Iêclăng. Mụ này không biết viết, làm một dấu chữ thập. Lão tiến sĩ, viết vào cạnh dấu chữ thập: BACBARA FECMOA, ở đảo Tirip, trong Ebuyđơ. Rồi lão chìa bút cho viên đầu đảng. Tên thủ lĩnh ký GAIĐORA, Captan[89]. Tên người Giên, dưới tên thủ lĩnh, ký Giăngirat. Tên Lăngơđốc ký GIĂNG CATUÔCZƠ, tức Nacbone. Tên Prôvăng ký LUYC PIE CAPGARUP, nhà tù Mahông. Dưới những chữ ký đó, lão tiến sĩ chú thích thêm: - Trong ba thủy thủ, người chủ thuyền đã bị sóng hất xuống biển, chỉ còn hai, và đã ký. Hai thủy thủ ghi tên dưới câu chú thích đó; tay Baxcơ miền Bắc ký GALĐIZUN. Tay Baxcơ miền nam ký AVE MARIA, ăn trộm. Đoạn lão tiến sĩ nói: - Capgarup. - Có - tên Provăng nói. - Anh có cái bầu rượu của Acquanen phải không? - Vâng. Đưa nó cho tôi. Capgarup uống nốt ngụm rượu cuối cùng và đưa cái bầu cho lão tiến sĩ. Nước tràn vào khoang càng mạnh. Tấm mảng càng lún sâu xuống biển cả. Các mép boong chênh chếch bị phủ một lớp sóng mỏng, cứ lấn dần, cứ lớn dần. Tất cả đều tập hợp trên phần thuyền vểnh cong. Lão tiến sĩ hơ khô mực chữ ký trước ngọn lửa đuốc, gập tờ giấy lại cho nhỏ hơn đường kính cổ bầu, và nhét nó vào trong bầu rượu. Lão quát: - Nút. - Tôi không biết nó đâu rồi - Gapgarup nói. - Có mẩu thừng đây - Giăc Catuôzơ nói. Lão tiến sĩ nút bầu rượu với mẩu thừng và nói: - Lấy ít nhựa đường. Galđizun đi tới phía trước, ấn một nắm bùi nhùi vào cái vỏ lựu đạn, làm nó tắt ngấm; hắn tháo khỏi khoang mũi và đưa đến cho lão tiến sĩ cái vỏ lựu đạn vẫn đầy đến một nửa nhựa đường nóng sôi. Lão tiến sĩ nhúng cổ bầu vào nhựa đường rồi rút ra. Bầu rượu, đựng tờ giấy da có chữ ký của tất cả mọi người, như vậy là được nút kỹ và gắn nhựa đường. - Xong - lão tiến sĩ nói. Từ tất cả mấy cái miệng kia thoát ra, ấp úng mơ hồ, bằng một thứ ngôn ngữ, tiếng lao xao ảm đạm của hầm mộ. Xin được như nguyện: - Mea Culpa![90] - Asi Sea![91]. - Aro rai[92]. - A men! Người ta có cảm giác như, trước sự từ chối hãi hùng của thượng đế không muốn nghe, đấy là những giọng nói buồn bã của Baben[93] đang tung tán vào tăm tối. Lão tiến sĩ ngoảnh lưng lại các bạn đồng phạm tội ác và đồng cảnh hoạn nạn, bước mấy bước về phía mạn thuyền. Đến mép mảng lão nhìn vào cõi vô biên và nói bằng một giọng âm thầm sâu sắc: - Bis du bei mir[94]. Chắc hẳn lão nói với bóng ma nào đó. Tấm mảng vẫn chìm dần. Sau lưng lão tiến sĩ, tất cả mọi người đều trầm ngâm. Cầu nguyện là việc bất đắc dĩ. Họ không cúi đầu, họ gập cả người lại. Trong ăn năn hối lỗi của họ có cái gì miễn cưỡng. Họ khuất phục như một mảnh buồm thiếu gió rủ xuống, và lũ người dữ tợn kia, dần dần, chắp tay và đập trán, tỏ thái độ khác nhau, nhưng đau khổ ê chề, phó mặc cho Chúa một cách tuyệt vọng. Không rõ một ánh sáng đáng tôn kính nào đó, từ vực thẳm đến, đang rạng dần trên những bộ mặt gian ác kia. Lão tiến sĩ trở lại với họ. Mặc dù quá khứ của lão thế nào đi nữa, trước lúc kết thúc lão già này cũng vĩ đại. Cảnh im lặng bao la không nói hết xung quanh làm lão bận tâm, nhưng không làm lão bối rối. Đó là con người không bị bất ngờ. Trong lão có sự hãi hùng bình tĩnh. Trên gương mặt lão là vẻ uy nghiêm của Chúa Trời được thấu hiểu. Tên cướp già và trầm tư này có cái tư thế của một vị giáo hoàng mà không biết. Lão nói: - Chú ý. Lão quan sát trời biển hồi lâu rồi nói thêm: - Bây giờ chúng ta sẽ chết. Rồi lão cầm lấy bó đuốc từ tay Avê Maria, lắc lắc. Một ngọn lửa bắn ra, bay vào đêm tối. Lão tiến sĩ quăng bó đuốc xuống biển. Bó đuốc tắt ngấm. Mọi nguồn sáng đều tan biến. Chỉ còn bóng tối mông mênh vô định. Một cái gì như nấm mồ khép kín. Trong cảnh mù mịt đó vang lên tiếng lão tiến sĩ: - Chúng ta hãy cầu nguyện đi. Tất cả mọi người đều quì xuống. Họ quì gối không phải trên tuyết nữa, mà trong nước. Họ chỉ còn có mấy phút. Chỉ một mình lão tiến sĩ vẫn đứng. Những bông tuyết dừng lại trên người lão, lốm đốm như những vì sao, như những giọt lệ trắng, khiến lão hiện rõ trên nền trời đêm. Tưởng như đó là pho tượng biết nói của u minh. Lão tiến sĩ làm dấu thánh giá, và cất tiếng, trong khi dưới chân lão đang bắt đầu cái dao động, gần như không nhận thấy, báo hiệu giây phút một mảnh rều sắp chìm nghỉm. Lão nói: - Pater noster qui es in Coelis. Tên Prôvăng nhắc lại bằng tiếng Pháp : - Lạy Cha chúng con ở trên trời. Mụ Iêclăng láy lại bằng tiếng xứ Galơ, được mụ người Baxcơ hiểu. - Ar nathair ata neamh. Lão tiến sĩ tiếp: - Sancti ficetur nemen tuum. Chúng con nguyện danh Cha cả sáng - tên Prôvăng nói. - Naomhthar hainm - mụ Iêclăng nói. - Adveniat regnum tuum - lão tiến sĩ tiếp. - Nước Cha trị đến - tên Provăng nói. - Tigeadh de rioghachd - mụ Iêclăng nói. Nước đã lên đến vai người quì gối rồi Lão tiến sĩ lại đọc: - Fiat voluntas tua. - Vâng ý cha - tên Prôvăng ấp úng. Mụ Iêclăng và mụ người Baxcơ rống lên - Beuntar do thoil ar an Hhalàmb! - Sicut in coclo, et in terra - lão tiến sĩ nói. Không giọng nói nào đáp lại lão. Lão nhắm mắt. Tất cả mọi cái đầu đã ở dưới nước. Không một ai đứng dậy. Họ đã cam chịu chết đắm trong tư thế quì gối. Lão tiến sĩ đưa tay phải ra cầm lấy cái bầu rượu mà lão đã đặt trên mui, và giơ lên trên đầu. Tấm mảng chìm hẳn. Vừa chìm xuống, lão tiến sĩ vừa lầm rầm nốt đoạn cuối bài kinh. Nửa người trên của lão còn ở ngoài nước một lúc, rồi đầu lão, rồi chỉ còn cánh tay cầm cái bầu như đưa cho cõi vô biên nhìn. Cánh tay biến mất. Biển sâu không gợn tăm hơn một thùng dầu. Tuyết vẫn tiếp tục rơi. Một vật gì đó nổi lềnh bềnh và theo sóng nước đi vào bóng tối. Đó là cái bầu rượu có nhựa đường nhờ có lớp vỏ mây nâng lên. ---------------- [74] Tiếng Tây Ban Nha: anh em xuống hết [75] Tiếng Tây Ban Nha: Mày chế giễu chúng ta chứ? [76] Hòa bình trong chiến tranh. [77] Tên một chiếc tàu [78] Dụng cụ để phá thành, đầu chạm trổ giống hình đầu cừu. [79] Tiếng La tinh: Biển cả khủng khiếp. [80] Một phần mười hải lý [81] Hai đơ-pac (Hydep-ark): công viên lớn ở phía Tây Luân đôn. [82] Săng-Êlidê ( Champs Elyskes): một lâu đài cổ của nước Pháp, nay dùng làm dinh tổng thống. [83] Trên đây là tên các hòn đảo nhỏ, các tảng đá ngầm. [84] Buyt ( But, tiếng Pháp) có nghĩa là: đích. [85] Sarip và Xinla (Charybde et. Scylla) tên ngọn giố lốc và hòn đá ngầm nguy hiểm ở eo biển Messine mà các thuỷ thủ ngày xưa rất sợ. Ý nói: tránh được tai hoạ này là gặp tai hoạ khác lớn hơn. [86] Hôme (Homère): Đại thi hào cổ Hy lạp, tác giả các thiên anh hùng ca Iliat, Ôđyxê. [87] Khuỷu (codée): đơn vị chiều dài ngày xưa bằng quãng 50 cm. [88] Pi-ê (pied): đơn vị chiều dài ngày xưa, là đơn vị foot của Pháp, bằng 0,32484m. Bên Anh 1 foot = 0,3048m [89] Thủ lĩnh. [90] Tiếng Tây Ban Nha [91] Tiếng Baxcơ. [92] Tiếng La tinh. [93] Baben: theo Thánh Kinh là cái tháp do con Nôê định xây cao thấu trời để tránh nạn hồng thuỷ, nhưng chúa đã khiến cho những người làm nói khác tiếng nhau, không hiểu nhau, nên việc xây tháp không thành. [94] Tiếng Đức: Người có ở bên con không?