Chương 5 - Ăn dặm và sữa mẹ

29. Vì sao cần tập cho trẻ ăn dặm sau 4-6 tháng tuổi?
Bé được bú mẹ hoàn toàn ít nhất cho đến khi tròn 4 tháng tuổi mà không cần cho uống thêm nước hay bất kỳ một loại thức ăn nào khác trong thời gian này. Sau đó, trẻ lớn nhanh hơn và sữa mẹ thường không đủ cho sự phát triển của trẻ. Vì vậy, mẹ cần tập cho trẻ ăn dặm khi trẻ được 4 đến 6 tháng tuổi.
Tuy đã ăn dặm, trẻ vẫn rất cần sữa mẹ để tiếp tục lớn. Do đó, nên cho bú mẹ tiếp tục cho đến khi trẻ được 2 tuổi (trong suốt năm thứ hai, sữa mẹ cung cấp được một phần ba số năng lượng và chất đạm mà trẻ cần). Trẻ không thể lớn và có sức khỏe tốt nếu chỉ ăn thức ăn khác mà không có sữa mẹ hoặc chỉ bú mẹ mà không ăn dặm.
30. Bắt đầu cho trẻ ăn dặm lúc nào là tốt nhất?
Không thể quy định cụ thể một thời điểm cố định để cho trẻ bắt đầu tập ăn những thức ăn mới (hay còn gọi là ăn dặm hoặc ăn sam), vì mỗi cơ thể trẻ đều khác nhau và các bà mẹ cũng khác nhau. Nhiều bà mẹ có đủ sữa cho con bú tới 6 tháng tuổi hoặc hơn nữa (có thể đến 9, 10 tháng), nhưng cũng có trẻ cần phải bổ sung thức ăn khác ngoài sữa mẹ khi được 4 đến 5 tháng tuổi. Tuy vậy, phần lớn trẻ em cần được tập cho ăn thêm thức ăn khác ngoài sữa mẹ là khi trẻ tròn 4 đến 6 tháng tuổi.
Bà mẹ bắt đầu nghĩ đến việc cho con ăn dặm khi trẻ được 4 tháng tuổi. Nếu trẻ bú mẹ và tăng cân tốt thì có thể chưa cần tập ăn dặm, cho đến khi nào thấy trẻ có dấu hiệu không tăng cân hoặc chậm tăng cân, thì dù đang bú mẹ tốt vẫn phải bắt đầu cho ăn dặm. Việc này là để giúp cho trẻ luôn nhận đủ thức ăn.
° Làm thế nào để biết trẻ đang nhận đủ thức ăn?
Nên cân và đánh dấu vào biểu đồ tăng trưởng của trẻ thường xuyên mỗi tháng, nối các điểm lại tạo thành "đường biểu diễn cân nặng" để đánh giá sự phát triển của trẻ:
- Trẻ tăng cân tốt: đường biểu diễn cân nặng của trẻ chạy chếch lên và song song với đường cong tăng trưởng in trong biểu đồ (xem câu 40), chứng tỏ trẻ đang nhận đủ thức ăn so với tuổi của trẻ.
- Trẻ chậm tăng cân hoặc không tăng cân: Đường tăng trưởng đi lên rất ít, nằm ngang hoặc đi xuống cho thấy trẻ phải cần nhiều thức ăn hơn:
+ Nếu trẻ dưới 4 tháng tuổi: Cần cho bú mẹ thường xuyên hơn và kéo dài thời gian, cữ bú.
+ Trẻ trên 4 tháng tuổi: Vẫn cho trẻ bú mẹ và cần tập cho trẻ ăn dặm ngay.
Tuy vậy, mặc dù trẻ 4-6 tháng tuổi đang tăng cân tốt với sữa mẹ, vẫn nên tập cho trẻ ăn dặm cho quen bằng một ít bột dinh dưỡng ngọt nấu loãng. Trẻ vẫn phát triển chủ yếu nhờ sữa mẹ, còn ăn dặm chỉ là tập thêm cho quen.
° Những dấu hiệu cho thấy trẻ đã có thể bắt đầu ăn dặm:
- Trẻ được 4 đến 6 tháng tuổi.
- Bắt đầu mọc răng.
- Có thể ngồi dựa vào chỗ tựa.
- Bốc đồ vật trước mặt đưa vào miệng ngậm.
- Trẻ vươn tay tới đĩa thức ăn của mẹ đang ăn...
Ở trẻ 6 tháng tuổi, cơ thể đủ men tiêu hóa cho phép trẻ ăn các loại thức ăn khác ngoài sữa mẹ.
31. Tập cho trẻ ăn dặm với những thức ăn nào?
Bột loãng là loại thức ăn mềm nhất mà trẻ có thể nuốt. Trẻ càng lớn thì làm bột đặc dần, sau đó dần dần cho thêm dầu, thịt, cá, rau... với nguyên tắc từ loãng đến đặc, từ ít đến nhiều, từ một loại đến nhiều loại.
- Khẩu phần ăn của trẻ phải đảm bảo 4 nhóm thực phẩm (bột đường, đạm, rau củ và dầu mỡ) với sự thay đổi món đa dạng, đủ lượng và đủ chất. Nếu trẻ ăn thiếu một trong 4 loại thực phẩm này đều làm cho trẻ không phát triển tốt được.
+ Chất bột đường: có trong các loại gạo, bột mì, khoai mì, khoai lang, bắp, đường ăn các loại...
+ Chất đạm: nhiều trong các loại thịt động vật, cá, tôm, cua, gan, trứng, các loại đậu như đậu nành (đậu hũ), đậu phộng, đậu xanh, đậu đen...
+ Chất béo: các loại dầu ăn, mỡ động vật, trong đậu phộng, mè...
+ Vitamin: các loại rau có lá màu xanh, trái cây tươi. Mặt khác, rau quả còn có chất xơ giúp trẻ không bị táo bón.
- Cần ghi nhớ là trẻ chỉ nhận được chất bổ dưỡng trong miếng thịt, lá rau... khi trẻ ăn cả phần cái (phần xác), còn nước hầm xương, luộc thịt, luộc rau thì có rất ít chất bổ dưỡng.
- Vào khoảng 8 đến 12 tháng tuổi, trẻ có thể ăn cháo và một số loại thức ăn mềm của người lớn. Đến khi trẻ mọc đủ răng hàm (khoảng 2 tuổi) thì có thể ăn cơm được.
Lượng thức ăn cần thiết của trẻ:
+ Trẻ từ 4 đến 6 tháng tuổi: Tập dần từ vài muỗng một ngày, chia làm 2 lần rồi tăng dần dần 6 tháng thì đạt 2 chén bột loãng 5% một ngày (kèm bú mẹ).
+ Trẻ từ 7 đến 12 tháng tuổi: ăn 3 chén bột đặc 10-15% một ngày. Trẻ 8 tháng tuổi có thể cho ăn cháo (thay món với bột). Bé bú mẹ và cho ăn thêm trái cây, yaourt...
+ Trẻ từ 13 đến 24 tháng tuổi: Ăn 3 đến 4 chén bột, cháo mỗi ngày (kèm bú mẹ). Có thể cho ăn những loại thức ăn mềm khác như phở, bún, nui, mì... để đổi món cho trẻ (kèm bú mẹ).
+ Trẻ khoảng 24 tháng thì có thể cho ăn cơm nát rồi cơm hạt như người lớn và 2-3 bữa phụ (1 ly sữa, hũ yaourt, trái chuối, trái bắp...).
- Trẻ nhỏ thì dạ dày trẻ cũng nhỏ. Vì vậy, cần chia nhỏ các bữa ăn của trẻ, hay nói cách khác trẻ cần ăn nhiều bữa hơn (khoảng 5 đến 6 bữa trong một ngày). Nếu bà mẹ không đủ thời gian, phải chuẩn bị sẵn tẻt thì không có vấn đề gì, bé vẫn có thể ngậm vú sâu và mút được nhiều sữa. Một số núm vú không co giãn tốt trong lúc mang thai nhưng sau khi sinh, do được trẻ mút và kéo dài ra thêm nên vẫn có thể cho bú mẹ được. Rất hiếm gặp loại núm vú bị thụt vào.
Xử trí loại núm vú này có thể thực hiện như sau:
- Kéo giãn hai bên quầng vú thì núm vú sẽ lồi ra và trông dài hơn.
- Nhẹ nhàng kéo đầu vú và quầng vú để tạo thành một cái núm vú. Nếu núm vú kéo ra dễ dàng là co giãn tốt. Nếu kéo ra được ít là co giãn kém. Nếu kéo không ra mà còn thụt vào thì đó là núm vú thụt.
- Nếu núm vú co giãn dễ dàng, như vậy người mẹ đã có núm vú rất tốt để cho con bú dù có thể ngắn một chút.
- Núm vú co giãn ít và núm vú thụt đều xử lý giống nhau. Tuy nhiên những bà mẹ có núm vú thụt cần được giúp đỡ trong thời gian dài hơn.
- Trước và trong khi mang thai, bà mẹ có thể tập vê đầu vú mỗi ngày 2 lần, mỗi lần 5 phút, núm vú sẽ giãn tốt hơn. Khoảng một tháng trước ngày sinh thì không nên tập nữa vì có thể gây sinh sớm.
- Sau khi sinh, cho trẻ mút thật mạnh và càng sớm càng tốt. Bảo đảm cho trẻ bú đúng cách, núm vú sẽ giãn tốt.
- Nếu vú bị ứ sữa, mẹ phải nặn bớt sữa ra cho vú mềm để dễ dàng cho con bú.
- Người mẹ cần hiểu rằng trẻ phải tập ngậm đầu vú và một phần quầng vú trong miệng, như vậy giúp cho trẻ bú được các loại núm vú ngắn, co giãn kém hoặc núm vú thụt.
20. Cho bé bú như thế nào khi núm vú mẹ quá dài?
Vài bà mẹ có núm vú dài hơn bình thường (riêng với trẻ sơ sinh đẻ non, một núm vú bình thường cũng có thể là quá dài đối với bé). Nếu núm vú dài quá, trẻ chỉ mút vú mà không ngậm được quầng vú vào miệng. Như vậy, trẻ sẽ không bú được đủ sữa vì không ngậm vú được sâu.
Mẹ cần kiên nhẫn cho trẻ tập bú. Sau khi bú xong, vắt hết sữa ra cho uống bằng ly (cốc) và muỗng. Khi trẻ lớn hơn sẽ tự mút vú dễ hơn.
21. Khi đi làm mẹ bị chảy sữa ướt cả áo. Thật bất tiện!
Những bà mẹ có tia sữa rất mạnh, thường thấy chảy sữa trong những tuần đầu sau khi sinh. Ở những bà mẹ đang cho con bú, vú chảy sữa ngoài lúc cho con bú là chuyện bình thường. Vú cũng có thể tự nhiên chảy sữa khi mẹ nghĩ đến con một cách âu yếu.
Việc chảy sữa nhiều và liên tục làm cho các bà mẹ khó chịu, ngượng ngập và lúng túng không biết làm thế nào. Tuy nhiên, điều đó cho thấy mẹ có nhiều sữa và thường thì sau vài tuần, sữa sẽ tự chảy điều hòa hơn.
Người mẹ bị chảy sữa cần biết:
- Sau vài tuần sữa sẽ ngừng chảy nhưng vẫn tạo sữa dồi dào.
- Người mẹ nên để vài lớp vải sạch hoặc khăn mặt nhỏ dưới áo để thấm sữa. Cần thay vải đó thường xuyên và giặt sạch sẽ.
- Trong thời gian đi làm, mẹ có thể vắt sữa ra nhờ người khác mang về, hoặc để cất ở nơi mát mẻ, hợp vệ sinh và cho trẻ uống khi về nhà. Vú được vắt sữa ra sẽ tạo nhiều sữa hơn.
22. Mẹ phải làm sao khi bé không chịu bú?
Bé không chịu bú mẹ thường làm cho các bà mẹ cai sữa sớm và luôn cảm thấy bị tách rời khỏi con, bị thất bại trong việc nuôi con bằng sữa mẹ. Một số cách biểu hiện từ chối bú mẹ như sau:
- Bé ngậm vú nhưng không chịu bú hoặc bú rất yếu.
- Đôi khi bé khóc và chống lại mẹ cố gắng cho bú.
- Bé ngậm vú đang bú nhưng sau đó nhả vú ra và khóc hoặc bị ho sặc.
- Có một số trẻ chỉ bú một bên vú và từ chối bú ở vú bên kia.
Những nguyên nhân và cách xử trí khi trẻ từ chối bú mẹ:
- Bé bị đau do sang chấn, vết thương hay bầm máu... sau cuộc đẻ: Giúp mẹ tìm cách bế mà không chạm vào vùng bé bị đau.
- Bé bị bệnh: Điều trị cho bé theo từng bệnh:
+ Đẹn lưỡi (tưa, nấm): đến bác sĩ để được chữa trị bằng tím Gentian hoặc Nystatine.
+ Bé mọc răng: Uống thuốc hạ sốt, kiên nhẫn tiếp tục cho bú.
+ Bé bị ngạt tắc mũi: Mẹ làm thông mũi bé bằng cách hút mũi, lấy mũi bằng tampon, dụng cụ hút mũi hoặc hút bằng miệng, giữ ấm trẻ. Bà mẹ nên cho trẻ bú những lần bú ngắn và bú nhiều lần hơn bình thường.
Khi trẻ bị bệnh, nếu trẻ không thể bú được thì giúp mẹ vắt sữa ra ly, chén và cho trẻ ăn bằng muỗng.
- Do tư thế bú sai: Mẹ sửa lại cách cho con bú đúng.
- Nếu tia sữa qúa mạnh làm bé ngộp, sặc: Mẹ dùng hai ngón tay trỏ và giữa đặt trên và dưới núm vú, kẹp nhẹ lại để giảm bớt lượng sữa chảy ra. Nếu sữa mẹ qúa nhiều, có thể vắt bớt sữa đầu ra ly, cho bú hết sữa cuối trước rồi cho uống phần sữa trong ly sau nếu bé còn uống được.
- Những thay đổi làm trẻ khó chịu: Cần cố gắng làm giảm sự ngăn cách mẹ con, giảm thiểu những thay đổi nếu có thể. Mẹ nên ngưng sử dụng loại xà phòng, nước hoa hoặc thức ăn mới lạ làm bé khó chịu.
Giúp đỡ mẹ cho bé bú lại:
- Mẹ luôn gần gũi với bé.
- Cho bú bất cứ lúc nào bé muốn.
- Giúp bé ngậm vú đúng cách.
- Cho bé uống sữa mẹ bằng ly hoặc muỗng: khi phải vắt sữa ra ly hoặc những trường hợp cần thiết phải vắt sữa ra ly hoặc những trường hợp cần thiết phải cho uống sữa ngoài (sữa bột, sữa hộp) thì nên cho bé uống bằng ly hoặc bằng muỗng.
Tránh sử dụng bình và đầu vú cao su vì có thể làm bé bỏ bú mẹ sau này.
23. Làm thế nào để biết mẹ có đủ sữa cho con bú?
Các bà mẹ thường phàn nàn:
- Ngực của tôi không thấy căng sữa và hình như hai vú đã ngừng chảy sữa.
- Con tôi khóc qúa nhiều.
- Con tôi đòi mút vú nhiều.
Đây là những lý do phổ biến mà các bà mẹ nêu ra để cho con mình ăn dặm qúa sớm, mặc dù vẫn có đủ sữa cho con bú. Do đó, cần xem lại thật sự trẻ có đói không và tại sao trẻ khóc.
Sữa mẹ có đủ cho trẻ không?
- Xem số lượng nước tiểu: Nếu trẻ chỉ bú mẹ, không uống thêm bất kỳ một thức uống nào mà đi tiểu 6 đến 8 lần mỗi ngày thì trẻ đã nhận được đủ lượng sữa mẹ cần thiết.
- Kiểm tra cân nặng: Cân trẻ hàng tuần hoặc mỗi nửa tháng. Nếu trẻ tăng trên 125g trong mỗi tuần thì bà mẹ đủ sữa.
24. Mẹ có nên ngưng sữa khi bé bị bệnh không?
Khi bé bị bệnh, các bà mẹ thường không cho ăn vì các lý do:
- Bé bệnh không muốn ăn và mẹ cũng chiều theo ý muốn đó.
- Khi bé bệnh dễ bị ói, hoặc cho là thức ăn làm tăng sự tiêu chảy của bé.
- Mẹ nghĩ rằng bé bệnh thì không nên cho bú vì khó tiêu...
Nhưng sau khi ngưng sữa, bé sẽ không chịu bú mẹ trở lại và dẫn đến suy dinh dưỡng.
Vì vậy, khi bé bệnh thì mẹ nên:
- Cố gắng cho bú được bao nhiêu hay bấy nhiêu và điều này rất quan trọng.
- Bé cần thức ăn để phục hồi bệnh tật. Bé được bú thì sẽ mau hết bệnh hơn.
- Sữa mẹ là thức ăn dễ tiêu hóa nhất đối với bé.
- Sữa mẹ có thể giúp bé bớt tiêu chảy.
- Một trẻ bệnh cần được cho bú mẹ càng nhiều càng tốt.
 Cho bé dưới 6 tháng tuổi bị bệnh bú như thế nào?
- Bé cần bú mẹ tiếp tục, bú càng nhiều càng tốt.
- Bé tiêu chảy cần được bú nước và điện giải với dung dịch ORS (cho uống bằng muỗng qua đường miệng).
- Tiếp tục cho bú mẹ sau khi bình phục. Nếu lúc đầu bé từ chối, mẹ phải tập lại cho bé và giữ nguồn sữa đầy đủ và liên tục.
- Nếu bé không thể bú, cần vắt sữa cho uống bằng muỗng.
Cho trẻ trên 6 tháng tuổi bị bệnh ăn như thế nào?
- Tiếp tục cho bú mẹ.
- Nếu trẻ tiêu chảy, cho uống dung dịch ORS cùng với sữa mẹ.
- Trong vài ngày đầu, chỉ nên cho trẻ ăn những thức ăn nhẹ, dễ tiêu, chia thành nhiều bữa (5 đến 6 bữa một ngày).
- Ngay khi vừa bình phục, cần cho trẻ ăn tăng dần từ ít đến nhiều và thường xuyên hơn. Trẻ cần thức ăn giàu năng lượng, giàu đạm để phát triển lại bình thường.
 Theo dõi trẻ sau khi bệnh:
Điều này rất quan trọng cho sức khỏe của trẻ. Người mẹ ngoài việc tiếp tục cho bú mẹ và cung cấp thêm một số thức ăn cần thiết cho trẻ, còn phải cân trẻ thường xuyên, mỗi tuần hoặc mỗi tháng và ghi vào biểu đồ tăng trưởng. Nếu dinh dưỡng đúng, trẻ sẽ lấy lại số cân đã mất khi bệnh và tiếp tục phát triển, không bị suy dinh dưỡng.
25. Bé khóc nhiều làm mẹ lo lắng!
Bé thường khóc khi có điều gì khác thường như đói, ướt bẩn, bị kiến cắn... hoặc bệnh. Vì vậy, khi bé khóc, cần tìm hiểu các nguyên nhân sau:
Bé khóc vì không đủ sữa mẹ: Bé bị đói thường ngủ ít sau mỗi lần bú, chừng 1 giờ rồi thức giấc và khóc đòi bú ngay. Nguyên nhân có thể do:
- Thiếu sữa mẹ do mẹ phải đi làm. Mẹ cần cho bú mỗi khi gần con và vắt sữa để lại nhà. Nếu vẫn chưa đủ thì cho bé vừa bú mẹ vừa uống thêm sữa ngoài.
- Bé chỉ bú sữa đầu, không được bú sữa cuối nhiều chất bổ. Mẹ nên cho bú hết bầu vú này rồi hãy chuyển sang bú vú bên kia. Cần cân bé đều đặn để phát hiện bé có nhận được đủ sữa không.
Bé khóc vì bệnh, không khóc nhiều nhưng đột ngột và lớn. Nguyên nhân có thể do bị viêm tai giữa, đau bụng tiêu chảy, lồng ruột...
Bé khóc vì cơ thể tạm thời tăng nhu cầu sữa:
- Thường xảy ra khi bé được 2 đến 3 tháng tuổi, bé khóc và đòi bú thường xuyên. Đó là khi cơ thể bé đột ngột phát triển nhanh trong khi lượng sữa mẹ cung cấp không đủ. Nếu mẹ cho bú nhiều lần hơn trong vài ngày thì lượng sữa mẹ sẽ tăng và đủ cho nhu cầu của bé.
- Khi thời tiết nóng, bé khóc đòi bú vì khát. Không cần phải cho bé uống thêm nước vì có thể dẫn đến tiêu chảy, chỉ cần cho bé bú mẹ nhiều hơn.
Bé khóc vì đau bụng:
- Có thể là do các chất trong thức ăn của mẹ được đưa vào sữa, và không hợp với bé (ví dụ như cà phê, sữa bò...). Mẹ nên thử ngừng những thức ăn trên trong 2 tuần lễ. Nếu bé hết đau bụng, mẹ nên ngừng ăn những thức này cho tới khi trẻ được 4 đến 6 tháng tuổi. Còn nếu trẻ không hết đau bụng thì mẹ vẫn có thể tiếp tục ăn thức ăn trên.
- Một số trường hợp bé bị đau bụng "colic" chưa rõ lý do vì sao. Khi bị cơn đau bụng này, bé thường khóc dai dẳng và co hai đầu gối gập vào bụng. Thường cơn đau xảy ra vào một thời điểm nào đó trong ngày, nhất là buổi tối. Bé khóc cho tới khi được 3 đến 4 tháng tuổi rồi tự nhiên hết. Tuy bé khóc và đau bụng nhưng vẫn lên cân tốt. Do đó, nên cân trẻ đều đặn hàng tháng và khám bệnh tại cơ sở y tế.
Bé khóc vì bú không ra sữa: có thể do tư thế bú không đúng. Mẹ nên sửa lại cách cho con bú ngay.
Bé nhõng nhẽo: có thể do cá tính của bé. Bé muốn được bú nhiều, được bế và chăm sóc nhiều hơn những trẻ khác. Mẹ nên bồng bế, cố gắng làm thỏa mãn ý thích của bé và cho bú nhiều hơn. Có thể bé sẽ nín khóc khi được người cha bế sát vào ngực, đầu bé tựa vào cổ cha và được nghe giọng trầm ấm của người cha.
26. Cho bé bú như thế nào khi mẹ đi làm trở lại?
Một trong những lý do thường gặp làm mẹ không thể cho con bú là khi mẹ phải đi làm. Mẹ cần chủ động thu xếp thời gian của mình để có thể tranh thủ cho con bú.
- Cho bé bú sữa mẹ càng lâu càng tốt. Không nên nghĩ rằng vì phải làm việc lại, cần phải cho bé bú bình với ý định tập cho quen dần với thức ăn nhân tạo. Trước khi trở lại làm việc 2-4 ngày, mẹ nên giành thời gian để hướng dẫn cho người thân hay người giúp việc cách cho ăn và chăm sóc bé.
- Mẹ nên tranh thủ cho bé bú sữa mẹ vào ban đêm, sáng sớm và bất cứ lúc nào ở nhà, sẽ giúp duy trì lượng sữa mẹ. Như vậy bé sẽ nhận được thêm sữa mẹ ngay cả khi bắt đầu cho ăn bổ sung.
- Vắt sữa trước khi mẹ đi làm và để lại cho người nhà cho bé uống bằng ly.
- Nên thu xếp thời gian để vắt sữa, có thể cần thức dậy sớm hơn nửa giờ để kịp vắt sữa và cho bú.
- Cho trẻ bú ngay khi trẻ thức dậy.
- Vắt càng nhiều sữa vào trong ly sạch có miệng rộng càng tốt. Nhiều bà mẹ có thể vắt được cả ly đầy. Đậy ly sữa bằng một tấm vải sạch hay đĩa sạch và để ở nơi mát hay trong tủ lạnh. Sữa mẹ có thể để lâu hơn sữa bò vì có chất chống nhiễm khuẩn.
- Không cần phải hâm nóng sữa trước khi cho bé uống.
- Nếu không vắt sữa thường xuyên, lượng sữa sẽ giảm. Vắt sữa giúp cho mẹ được thoải mái và bớt chảy sữa. Có thể vắt sữa ở nơi làm việc, cho vào bình sạch có nắp đậy mang theo và đem về nhà cho bé bú. Nếu không thể bảo quản, mẹ có thể tận dụng để uống hoặc bỏ đi, sữa sẽ lại được tiết ra. Nhiều bà mẹ vẫn tiếp tục cho con bú sữa mẹ trong khi họ phải làm việc cả ngày và bé vẫn khỏe mạnh.
27. Bé chậm tăng cân có phải do sữa mẹ "nóng" không?
Bé không tăng cân có thể do hay bị bệnh (viêm phổi, tiêu chảy...) ăn không hấp thu, hoặc do một trong những nguyên nhân sau đây:
° Mẹ không cho bé bú đủ số bữa trong ngày:
Đó là khi mẹ cho bú ít hơn 5 lần mỗi ngày và không cho bú ban đêm. Như vậy, bé sẽ không nhận được đủ sữa và châm tăng cân. Tốt nhất nên cho bú mẹ thường xuyên và bú cả vào ban đêm. Cho bé bú như vậy một vài ngày sau lượng sữa mẹ sẽ tăng lên và bé sẽ lên cân.
° Bé bú chưa đủ thời gian trong mỗi cữ bú:
- Nếu bé bị ngừng cho bú khi chưa bú xong, bé sẽ không nhận được đủ sữa ở cuối cữ bú nhiều chất béo, do vậy bé thấy đói và bú nhiều hơn nhưng không lên cân. Hãy để cho trẻ bú lâu cho đến khi trẻ tự nhả vú (xem câu 9).
28. Làm thế nào để tăng lượng sữa và phục hồi sữa mẹ?
Có nhiều cách để mẹ tạo nhiều sữa hoặc tiết sữa lại. Tiết sữa lại là khi sữa của mẹ giảm đi và mẹ cần tăng lượng sữa cho con bú; hoặc mẹ đã ngừng cho con bú nay lại muốn có sữa để cho con bú trở lại. Dưới đây là những lý do thường gặp:
+ Bé mắc bệnh hoặc mẹ bệnh nên bé không được cho bú trong một thời gian.
+ Bé đã được nuôi bằng sữa ngoài, bây giờ mẹ lại muốn nuôi con bằng sữa mẹ.
+ Bé kém phát triển do ăn thức ăn không phải là sữa mẹ.
+ Bà mẹ muốn nhận con nuôi.
° Dù các nguyên nhân ít sữa mẹ có khác nhau nhưng cách khắc phục đều giống nhau. Mẹ nên nhập viện hoặc thẩm vấn các cộng tác viên dinh dưỡng tại địa phương để được hướng dẫn cụ thể:
+ Mẹ cần có niềm tin là sẽ có đủ sữa cho con bú.
+ Mẹ nên nghỉ ngơi và thư giãn tinh thần trong khi cho con bú.
+ Mẹ nên ăn uống nhiều loại thức ăn cho đủ chất, ngoài 3 bữa ăn chính nên ăn thêm 2-3 bữa phụ. Không nên kiêng cữ quá. Cần nhớ rằng sữa mẹ sẽ tạo nhiều và chất lượng sữa tốt nếu mẹ được ăn tốt và đủ chất. Ở nhiều địa phương, các bà mẹ dùng đu đủ nấu với chân giò heo, cháo sườn... để tăng tạo sữa. Đây là những thực phẩm dinh dưỡng có tác dụng tốt cho sữa mẹ và làm mẹ tin tưởng vào việc cho con bú sữa của mình.
+ Mẹ nên ở gần và bế bé nhiều hơn để có thể cho bé bú ít nhất 10 lần trong ngày và cho bú bất cứ khi nào bé muốn. Yếu tố quan trọng nhất để tăng tạo sữa mẹ là phải cho bé ngậm vú càng nhiều càng tốt (xem câu 3).
+ Đảm bảo bé được bú mẹ ở tư thế đúng và bú thường xuyên. Mẹ nên ngủ cùng với bé và cho bú cả ban đêm.
+ Nên cho bé bú lâu ở mỗi vú trong mỗi cữ bú, bú hết vú này mới chuyển sang vú kia.
+ Trong khi chờ đợi tiết sữa lại hoặc tăng lượng sữa, mẹ có thể cho bé uống thêm sữa ngoài. Với sữa hộp, mẹ không nên sử dụng bình sữa và đầu vú cao su mà nên pha sữa trong ly rồi cho uống bằng muỗng hoặc bằng ly (xem câu 41). Khi sữa mẹ đã tăng nhiều hơn trước, mẹ có thể giảm lượng sữa ngoài dần dần.
+ Nên kiểm tra sự tăng cân của bé để biết bé có nhận được đủ sữa không. Nếu bé vẫn chưa tăng cân tốt (cân bé mỗi tuần hoặc nửa tháng) thì không được giảm sữa ngoài. Nếu thấy cần thiết có thể tăng lượng sữa ngoài trong vài ngày.
+ Mẹ cố gắng cho bé ngậm vú bú cả khi chưa có sữa hoặc ít sữa. Lúc này, mẹ có thể cho bé ngậm vú chung với một ống dây dẫn sữa pha sẵn bên ngoài, để bé vừa ngậm vú mẹ vừa mút được sữa, hoặc pha sữa ngoài trong bình nhựa mềm, khi bé ngậm vú bú thì bóp bình nhỏ giọt sữa lên chỗ vú mẹ gần miệng để bé mút vào. Làm như vậy rất có lợi vì chỉ khi nào vú mẹ được ngậm bú nhiều thì sữa mới tiết ra nhiều. Trong một số trường hợp, có thể phải nhờ đứa bé lớn hơn hoặc cha của bé ngậm mút vú để tăng tạo lượng sữa mẹ.
+ Mẹ nên uống nhiều nước để có đủ cho việc tạo sữa và cho nhu cầu của cơ thể, đặc biệt là khi khát thì phải uống nước ngay.
+ Khi nghĩ là mình không có đủ sữa cho con bú, mẹ nên đến cơ sở y tế khám bệnh, uống thuốc làm tăng lượng sữa...
° Khoảng thời gian để làm tăng lượng sữa và tiết sữa lại rất khác nhau tùy theo từng trường hợp. Mẹ dễ tiết sữa lại nếu bé còn nhỏ, còn được bú mẹ dù 1 đến 2 lần trong ngày hoặc chỉ bú đêm... Nếu bé đã ngừng bú mẹ, có thể sẽ mất 1 đến 2 tuần hoặc lâu hơn trước khi sữa xuống nhiều (tùy theo thời gian ngưng bú). Tuy nhiên, mẹ vẫn có thể tiết sữa lại nếu kiên trì co bé ngậm vú thường xuyên. Việc tiết sữa lại cũng không khó đối với những bé đã ngừng #273;ưa lên
vào ngày: 14 tháng 6 năm 2004


---~~~mucluc~~~---