Những con lạc đà lông trắng hay màu hạt dẻ đang quì gối thành một hàng; những quai hàm của chúng luôn động đậy để nhai một cách nhịp nhàng và những cái đầu diễm lệ của chúng quay về bên phải hay bên trái với một bộ điệu õng ẹo. Đó là đặc điểm của phần lớn những con vật cao quí, là những con vật chính cống để chạy ở nước Ả Rập, chúng có những cái chân mảnh dẻ và cái cổ nhỏ là những thứ chứng thực cho chủng loại của chúng. Nhưng chúng cũng được kèm theo một vài con vật chậm chạp hơn, năng nề hơn, được nuôi nấng tồi tệ và trên da những con vật này ta còn nhìn thấy những vết sẹo đen của những trận đánh nhau từ trước. Lúc đi thì chúng chuyên chở lương thực và những túi da đựng nước uống của bọn kẻ cướp, được trút bỏ các vật nặng trên mình, các vật này được san sẻ ngay cho những con lạc đà khỏe mạnh, chúng lặng lẽ tiếp nhận những tù nhân. Chỉ có một mình ông Stuart là bị trói tay thôi: bọn người Ả Rập đã biết rằng đó là một giáo sĩ và vốn có thói quen liên kết tôn giáo với bạo lực, chúng thấy cơn nóng giận của ông là hoàn toàn bình thuờng thôi, tuy nhiên chúng đã coi ông như một kẻ nguy hiểm nhất và liều lĩnh nhất trong toán tù nhân của chúng. Ngược lại, những người khác không phải là đối tượng của một biện pháp phòng ngừa nào, hơn nữa sự chậm chạp của những con vật họ cưỡi sẽ ngăn cản mọi hy vọng đào thoát của họ. Trước những lời quát tháo của bọn Ả Rập, những con lạc đà đứng lên và đám rước dài chuyển động, quay lưng về phía con sông hiền hậu, đám rước hướng về phía đám sương mù tím lóng lánh bao quanh bãi sa mạc vừa rùng rợn vừa xinh đẹp, với màu sắc sặc sỡ như một tấm da cọp có màu đen và vàng ửng. Đại tá Cochrane là người duy nhất trong đám du khách đã từng nếm mùi di chuyển trên lưng lạc đà. Những người bạn đường của ông thấy mình bị nhấc bổng lên khá cao bên trên mặt đất, với sự lắc lư quái dị của con vật, cộng với sự thiếu vững vàng của cái yên làm họ nôn mửa, và sợ hãi. Nhưng sự khó chịu về thể xác này không thấm thía gì so với cơn lốc trong đầu óc họ, một cái vực thẳm vừa được đào ra giữa quá khứ và hiện tại của họ. Được đào ra một cách mau lẹ quá, bất ngờ quá! Trước đây chưa đầy một giờ họ còn ở trên đỉnh núi Abousir cười nói huyên thuyên hay càu nhàu với sự nóng bức hay lũ ruồi. Headingly đã công kích dữ dội những màu sắc thái quá của tạo hóa, làm sao mà có khi nào họ sẽ quên được sự tái nhợt của đôi má của ông ấy khi ông ấy bị đánh chết nằm bất động trên núi đá đen xì? Sadic đã thuyết giảng về những chiếc áo dài và những quần áo, lúc này thì nàng đang bám chặt lấy cái núm của cái yên bằng gỗ, gần như phát điên cuồng, với tất cả hy vọng chỉ còn là ngôi sao đỏ của sự tự sát đang mọc lên trong bộ não non trẻ của nàng. Về lòng nhân đạo, về sự hợp lý, về cách lập luận, những điểm đó không còn là vấn đề nữa: chỉ có sự hạ nhục phũ phàng của bạo lực là còn lại. Trong lúc này tàu thủy của họ đang đậu phía sau mỏm đá thứ nhì, đang đợi họ ở nơi đó, tàu thủy của họ, những căn phòng của họ, quần áo tinh khiết, những cái cốc óng ánh, quyển tiểu thuyết sau cùng hợp thời trang, những tờ báo ở Luân Đôn. Họ không cần phải có một cố gắng lớn lao về trí tưởng tượng để hình dung ra cái lều vải trắng, bà Shlesinger dưới cái mũ màu vàng của bà ấy, và bà Belmont nằm duỗl dài trên cái ghế dài! Phải, nó gần như hiện ra trong tầm mắt của họ, cái mảnh nhỏ bé đang nổi bập bềnh này của tổ quốc họ, và cứ mỗi bước chân không đều đặn, lặng lẽ là những con lạc đà lại làm cho họ cách xa con tàu một cách tuyệt vọng. Ngay cả buổi sáng hôm ấy, hình như đấng tối cao đã tỏ ra tốt bụng với họ! Và đời sống thoải mái biết bao! Có thể là hơi nhàm một chút, nhưng rất thư thái, rất an nhàn, còn bây giờ thì... Cái khăn đỏ, những cái áo với nhiều mảnh chắp nối, những đôi giày vàng đã báo cho ông đại tá biết rằng những người này không hợp thành một bọn cướp của dân du mục, mà chúng thuộc về đạo quân chính qui của Quốc Vương. Càng đi vào sâu trong sa mạc, chúng càng tỏ ra là chúng có một kỷ luật thô bạo cần thiết cho nhiệm vụ của chúng. Cách môt ngàn năm trăm mét về phía trước và ở mỗi bên sườn, những tên xích hầu của chúng lặn vào và lại hiện ra ở giữa những cồn cát vàng. Ail Wad lbrahim dẫn đầu đoàn người, viên phụ tá của hắn chỉ huy toán hậu vệ. Đám rước kéo dài trên hai trăm mét, với nhóm nhỏ những tù nhân ở quãng giữa. Vì bọn Ả Rập không tìm cách cách li họ với nhau, ông Stephens đã có thể lướt con lạc đà của ông vào giữa những con lạc đà của hai cô gái. "Chớ nản lòng, cô Adams ạ!" ông nói. "Rõ ràng đây là một sự lăng nhục không thể tha thứ được, nhưng không nghi ngờ gì là sẽ có những biện pháp thích ứng để dàn xếp công việc. Tôi tin chắc rằng chúng ta sẽ không phải chịu đựng một thứ gì trầm trọng hơn là một vài sự bực bội tạm thời. Nếu không có tên đạo tặc Mansoor, thì không ai phát hiện ra các cô!". Chỉ trong thời gian một giờ đồng hồ cô gái già ở thành phố Boston đã thay đổi một cách đáng thương: cô đã trở thành một bà lão rất già. Cặp má nâu của cô hõm xuống, cặp mắt cô long lanh một cách dữ tợn và không ngừng nhìn vào Sadie với sự lo sợ, những tai hoạ thường thường gây ra các kỳ tích của sự bất tư kỷ: tất cả những con người này đang đi tới số mạng của họ, đều đã vứt bỏ tất cả sự phù phiếm, tất cả lòng vị kỷ, mỗi người chỉ nghĩ tới người khác. Sadie thì nghĩ tới bà cô của nàng, bà này lại nghĩ tới Sadie. Bọn đàn ông nghĩ tới những phụ nữ, Belmont nghĩ tới bà Belmont, nhưng ông cũng nghĩ tới việc khác nữa, vì ông đã dẫn con lạc đà của ông tới độ cao bằng con lạc đà của cô Adams. "Tôi có một điều muốn nói với cô", ông thầm thì nói. "Chúng ta có nguy cơ là sắp phải xa nhau, do đó ta nên thực hiện những sự xếp đặt mà không để mất thì giờ". "Xa nhau!" cô Adams rên rỉ. - Nói nhỏ chứ, vì cái thằng quỉ Mansoor kia có thể phản bội chúng ta một lần nữa. Tôi hy vọng rằng chúng ta sẽ không phải xa nhau, nhưng đó là một việc có thể xảy ra. Chúng ta phải chuẩn bị cho sự tệ hại nhất. Thí dụ chúng sẽ có thể quyết định trừ khử những đàn ông và giữ các cô lại. Cô Adams rùng mình: - Tôi phải làm gì? Cầu xin Thuợng đế, ông hãy nói cho tôi biết là tôi phải làm gì, ông Belmont! Tôi là một phụ nữ già, tôi đã sống. Nếu chỉ có một mình tôi bị liên luỵ tôi sẽ có thể chịu đựng tất cả. Nhưng còn Sadie! Tôi đã hoàn toàn phát điên lên khi tôi nghĩ tới nó, mẹ nó đang chờ nó ở nhà, và tôi thì... Cô chắp hai bàn tay nhỏ nhắn, gầy gò vào nhau trong một sự lo âu không thể diễn tả được. "Hãy luồn một tay vào trong áo choàng của cô", Belmont nói trong khi cho con lạc đà của ông đứng sát vào con lạc đà của cô gái già người Mỹ. "Chớ để nó rơi mất. Đó! Bây giờ hãy giấu nó bên trong áo dài của cô. Cô sê luôn luôn có một cái chìa khóa để mở cho cô bất kỳ một cái cửa nào". Cô Adams sờ vào cái vật mà ông ta mới đưa cho cô và thoạt đầu cô nhìn ông với sự kinh hoàng. Rồi cô cắn môi và lắc cái đầu khắc khổ của cô với sự bất đồng ý. Cuối cùng thì cô nhét khẩu súng nhỏ dưới áo dài của cô, và cô tiếp tục tiến lên, tâm hồn trong một cơn bão tố. Có phải đúng là cô ấy không, cô Eliza Adams ở Boston, người đã sống một cuộc đời chật hẹp nhưng sung sướng giữa căn nhà êm ấm của cô ở Đại lộ Commonwealth và giáo đường trưởng lão phái ở Tremont không? Kia kìa, cô đang ngồi chót vót trên một con lạc đà, bàn tay úp chặt trên một cái báng súng lục, và đang cân nhắc trong đầu sự biện minh cho một vụ sát nhân. Hỡi ôi cõi đời, cõi đời phản phúc, làm thế nào để đặt lòng tin vào mi? Khi mi phô bày những bộ mặt tồi tệ của mi với chúng ta thì chúng ta có thể đối phó được, nhưng khi mà mi làm ra bộ dịu dàng nhất và trơn tru nhất là khi mà chúng ta phải e sợ mi nhiều hơn. "Cô Sadie ạ, cùng lắm thì chỉ là vấn đề tiền chuộc thôi", Stephens nói trong khi diễn tả sự trái ngược với điều mà ông đang thật sự suy nghĩ. Ngoài ra chúng ta vẫn còn ở rất gần Ai Cập và ở xa xứ sở bọn thầy tu Hồi giáo. Cô có thể tin chắc rằng sự truy lùng sẽ được thực hiện một cách ráo riết. Điều cần thiết là cô phải cố sức đừng để mất lòng can đảm, và phải hy vọng rằng mọi sự rồi sẽ qua đi một cách tốt đẹp". "Không, ông Stephens ạ, tôi không sợ!" Sadie trả lời trong lúc quay về phía ông một bộ mặt trắng bệch, sự kiện này đã phủ nhận những lời nói của cô. "Chúng ta đang nằm trong tay Thuợng đế, và chắc chắn là Ngài sẽ không độc ác với chúng ta. Khi các sự việc diễn tiến tốt đẹp thì người ta dễ dàng nói chắc rằng người ta tin tưởng ở Ngài, nhưng bây giờ sự thử thách có tính chất quyết định đang tới gần, nếu Ngài có ở trần cao kia, đằng sau khoảng trời xanh... "Ngài ở trên cao kia!" một tiếng nói ở phía sau họ đáp lời. Đó là vị mục sư ở Birmingham, người vừa theo kịp nhóm họ. Hai bàn tay bị trói của ông bám chặt lấy cái yên và ông lắc qua, lắc lại cái thân hình béo xị ở mỗi bước đi của con lạc đà, máu chảy nhỏ giọt ở cẳng chân bị thương của ông, và những con ruồi bám chặt vào đó, ánh nắng thiêu đốt của sa mạc giội lên đầu ông vì trong lúc đánh lộn ông đã đánh mất cái mũ và cái dù của ông. Sự khởi dầu của cơn sốt nóng lạnh đã làm hơi ửng hồng cặp má đồ sộ xanh mét của ông, mắt ông long lanh, với các bạn đồng hành của ông thì bao giờ ông cũng có vẻ với tầm thuờng. Lúc này thì ông đã biến đổi, ông đã trở thành thanh khiết, linh diệu và hăng say. Ông đã trở thành dũng mãnh một cách quá kỳ lạ khiến cho chỉ cần nhìn vào ông mà những người khác cũng cảm thấy dũng mãnh hơn lên. Ông nói về sự sống và sự chết, về hiện tại và về những hy vọng về tương lai của họ, đám mây đen của sự khốn khổ của họ đã bắt đầu thủng rách và để một tia ánh sáng lọt qua. Cecil Brown nhún vai, vì không phải chỉ trong một giờ đồng hồ mà ông thay đối được các tín niệm của cả đời ông, nhưng số người còn lại của cái nhóm nhỏ này, kể cả Fardet, đều cảm thấy động tâm và tăng thêm nghị lực. Mọi người đều bỏ mũ ra khi ông cầu nguyện. Ông đại tá lấy khăn quàng cổ bằng lụa đỏ của mình làm ra môt cái khăn đội đầu và nài nỉ ông Stuart hãy quấn nó lên đầu. Với bộ y phục tăng lữ và cái khăn sặc sỡ này, trông ông giống như một người nghiêm nghị mà lại hóa trang để đùa với lũ trẻ con. Rồi sự hành hạ bất khả kháng của sự khát nước tới góp thêm vào với những cơn nôn mửa do bước đi của những con lạc đà gây ra, nắng như thiêu đốt; ánh nắng phản chiếu trên bãi cát vàng; cánh đồng rộng lớn sáng long lanh đến độ mà họ có cảm tưởng là cỡi ngựa đi trên một lớp kim loại đang bị nung chảy thành chất lỏng. Môi họ khô queo như bị nóng cháy, và lưỡi họ thì như là một tiếng da khô. Khi họ nói chuyện với nhau, họ nói một cách cứng đơ kỳ quặc vì họ chỉ phát âm được các nguyên âm là không cần cố gắng thôi. Cô Adams cúi đầu xuống, cái mũ lớn đã che khuất bộ mặt của cô. Sadie nói: - Cô tôi sẽ ngất xỉu nếu người ta không cho cô ấy uống nước. Ông Stephens ơi, chúng ta không thể làm được một việc gì cả à? Bọn thầy tu Hồi giáo đang ở gần đó đều là bọn bagarras, ngoại trừ một tên da đen mà bộ mặt còn mang dấu vết của một bệnh đậu mùa mới lành. Hắn có vẻ ít hung ác hơn lũ bạn người Ả Rập của hắn, do đó Stephens đã đánh liều chạm vào khuỷu tay hắn và lần lượt chỉ cho hắn cái túi da đựng nước và cô gái già. Tên da đen lắc đầu một cách không đồng ý, nhưng hắn ném một cái nhìn đầy ý nghĩa vào những tên Ả Rập như thể muốn nói rằng nếu không có chúng ở đó thì hắn sẽ xử sự một cách khác. Rồi hắn đặt ngón tay trỏ đen đúa của hẳn lên ngực hắn. "Tippy Tilly" hắn nói. "Là cái gì?" đại tá Cochrane hỏi. "Tippy Tilly", tên da đen nhắc lại, hạ thấp giọng như thể hắn không muốn để cho lũ bạn của hắn nghe thấy. Ông đại tá lắc đầu. "Rõ ràng là tiếng Ả Rập của tôi quá tệ. Tôi không hiểu hắn muốn nói gì", ông càu nhàu. "Tippy Tilly. Hicks Pacha", tên da đen nhắc lại. "Tôi nghĩ rằng hắn không muốn làm hại chúng ta, nhưng tôi không hiểu một tiếng nào trong ngôn ngữ của hắn", ông đại tá nói với Belmont. "Ông không nghĩ rằng hắn muốn nói tên hắn là Tippy Tilly và hắn đã giết chết Hicks Pacha chứ?" Tên da đen nhe những cái răng lớn, trắng ởn ra khi hắn nghe thấy nhắc lại những từ mà hắn đã dùng. Hắn nói: - Aiwa, Tippy Tilly, Bimbashi Mormer... Boum! "Đúng rồi! tôi hiểu rồi"' Belmont nói lớn. Hắn cố sức nói tiếng Anh Tippy Tilly, đó là gần như tiếng pháo binh Ai Cập. Hắn đã phục vụ trong pháo binh Ai Cập dưới quyền Bimbashi Mortimer. Hắn đã bị bắt làm tù binh khi Hicks Pacha bị tiêu diệt và hắn đã trở thành thầy tu Hồi giáo để giữ lấy mạng sống của hắn. Hãy hỏi hắn xem tôi có lầm không!". Ông đại tá nói vài tiếng và nhận được một câu trả lời nhưng hai tên Ả Rập tiến lại gần, tên da đen im tiếng và thúc lạc đà bước nhanh. "Ông nói đúng", ông đại tá nói. "Tên da den này không muốn làm hại chúng ta một chút nào, và hắn thích chiến đấu cho Phó Vương Ai Cập hơn là cho Quốc Vương. Tôi không biết là bằng cách nào hắn sẽ có thể giúp đỡ chúng ta, nhưng tôi đã từng ở trong những tình thế tệ hại hơn trong hợp này, tuy nhiên tôi vẫn thoát nạn được. Tóm lại, không phải là chúng ta đã ở ngoài tầm tấn kích, và những người truy kích còn có thể bắt kịp chúng ta trong bốn mươi tám giờ nữa ". Belmont làm những con toán với sự chính xác thường lệ của ông. "Khi chúng ta ở trên núi thì vào khoảng gần trưa", ông nói. "Ở trên tàu người ta bắt đầu lo lắng khi thấy chúng ta không trở về vào lúc hai giờ" "Đúng", ông đại tá ngắt lời. "Chúng ta phải ăn điểm tâm lúc hai giờ. Tôi nhớ rằng tôi đã nói là khi trở về tôi sẽ uống rượu... Ồ, lạy Chúa, tốt nhất là đừng nghĩ tới chuyện đó nữa!". "Viên thiếu tá là một ông già nhu nhược", Belmont nói tiếp. "Nhưng tôi có lòng tin tuyệt đối vào sự mẫn nhuệ và tinh thần cương quyết của vợ tôi. Bà ấy sẽ đòi phải ban hành lệnh báo động. Giả thiết là họ đã lên đường lúc hai giờ rưỡi, thì họ sẽ tới Ouadi-Halfa lúc ba giờ, vì họ di theo dòng nước. Phải mất bao nhiêu thì giờ để cho đoàn quân cỡi lạc đà rục rịch di chuyển?". - Ta hãy tính là một giờ đi. - Thêm vào một giờ để chúng qua sông. Chúng sẽ tới núi Abousir vào lúc sáu giờ, và chúng sẽ thấy đường đi ngay tức thì. Vào lúc đó là sự truy lùng sẽ bắt đầu. Chúng ta chỉ đi trước có bốn giờ, và trong những con lạc đà này một vài con đã mệt lử. Chúng ta còn có thể được giải thoát, Cochrane ạ! - Phải, có thể một vài người trong bọn chúng ta. Nhưng tôi không nghĩ rằng ông mục sư còn sống đuợc tới sáng mai, cả cô Adams nữa. Không phải họ được sinh ra cho cái loại phiêu lưu, mạo hiểm này. Hơn nữa, chớ quên rằng bọn người này thường có thói ám sát các tù nhân khi những người này tìm cách trốn khỏi tay chúng. Belmont này, trong trường hợp mà ông thoát hiểm, chớ không phải là tôi, tôi có một vấn đề để áp mà tôi sẽ nhờ ông thanh toán thay tôi. Họ tiến lại gần nhau để nói rõ hơn về các chi tiết của công việc. Tên da đen tự đặt tên mình là Tippy Tilly đã tìm cách lén đưa một mảnh vải ướt sũng nước vào tay ông Stephens và cô Adams có thể làm ướt cặp môi. Một vài giọt nước này đã ban cho cô một sức mạnh mới, một khi qua khỏi sự chấn động đầu tiên, cái bản chất hăng hái, dẻo dai của cô lại y nguyên như trước. "Ông Stephens này, những người này không có vẻ muốn làm hại chúng ta", cô nhận xét. "Họ phải có một tôn giáo giống hệt như chúng ta; chắc chắn là họ cũng thấy là xấu những gì mà chúng ta coi là xấu...". Stephens lắc đầu không trả lời. Ông đã chứng kiến sự tàn sát những tên dắt lừa, việc mà cô gái già người Mỹ không nhìn thấy. "... có lẽ" cô nói tiếp, "chúng ta được cử tới chỗ họ để dẫn dắt họ theo một con đường tốt hơn. Có lẽ chúng ta được cử ra để hoàn thành một công trình tốt đẹp trong nước họ". Nếu cô cháu gái không có mặt tại đó thì cái tính tình dũng cảm, táo bạo của cô đã tìm được sự ủy lạo trong cái khả năng thực hiện một cuộc truyền giảng phúc âm rực rỡ ở Khartoum, hay sự biến đổi Omdurman thành cái mẫu nhỏ của một thành phố ở Nouvelle-Angleterru với những đại lộ rộng lớn. "Cô có biết cháu đang không ngừng nghĩ tới một điều gì không?" Sadie hỏi. "Cô có nhớ tới ngôi đền mà chúng ta đã xem vào lúc nào nhỉ? Phải rồi, đó là vào sáng hôm nay!" Cả ba người đều thốt ra một tiếng kêu kinh ngạc. Phải, họ đã xem ngôi đền đó ngay buổi sáng hôm nay, vậy mà ký ức hình như xuất hiện từ một quá khứ xa xôi, mờ mịt, biến cố xảy ra trong đời họ càng đột ngột và sâu đậm, thì những ý nghĩ của họ càng đi theo một chiều huớng khác biệt. Họ ngồi trên lưng lạc đà di chuyển trong sự yên lặng, cho tới lúc Stephens nhắc nhở Sadie là nàng chưa nói hết câu nói của nàng. - À phải! Tôi muốn nói về những hình chạm nổi ở ngôi đền. Ông có nhớ đoàn tù nhân khốn khổ bị kéo lê dưới chân vị Đại Vương không? Và hình như họ bị hạ sát giữa bọn chiến binh dẫn giải họ thì phải? Ai có thể nghĩ rằng chưa đầy ba giờ nữa chúng ta sẽ gặp cùng một số phận như vậy! và ông Headingly... Nàng lấy tay che mặt và khóc òa. "Sadie, cháu đừng buồn tủi như thế!" người cô thì thào nói. "Cháu có nhớ những điều mà ông mục sư đã nói không, tất cả chúng ta đều nằm trong lòng bàn tay của thượng đế. Ông Stephens, ông nghĩ rằng chúng sẽ dẫn chúng ta tới đâu?" Cái mép đỏ của cuốn sách chỉ nam còn thò ra trên cái túi của ông luật sư, vì bọn người dã man đã không cho nó là đáng quan tâm. Ông vuốt ve nó bằng một cái nhìn. - Nếu chúng để tôi giữ nó cho tới chặng dừng chân sau tôi sẽ chỉ cho cô xem vài trang. Trong khi chờ đợi tôi có một kiến thức tổng quát về nước này, vì hôm kia tôi đã vẽ một bản đồ nhỏ. Sông Nil chảy từ Nam tới Bắc. Vậy là chúng ta phải đi thẳng tới phía Tây. Tôi cho là khi đi dọc theo quá gần bờ sông chúng sợ bị truy kích. Tôi nhớ là có một con đường cho các đoàn xe, con đường này chạy song hành với sông Nil, vào khoảng một trăm cây số ở bên trong đất liền. Nếu chúng ta tiếp tục đi theo huớng này trong một ngày nữa thì chúng ta sẽ gặp con đường đó. Nếu tôi không lầm thì nó chảy ngang qua một dãy giếng nước khởi đầu từ Asslout, về phía Ai Cập, để chảy tới mạn bên kia trong lãnh thổ của bọn thầy tu Hồi giáo, cũng có thể... Ông bị cắt ngang bởi một giọng nói sắc nhọn bất thần tuôn ra một tràng những từ ngữ không có mạch lac, mà cùng chẳng có ý nghĩa. Hai má của ông Stuart trở nên đỏ hồng, cặp mắt thất thần của ông sáng rực và vừa di chuyển trên lưng lạc đà, ông vừa nói những lời lảm nhảm không ai hiểu được. Đấng tạo hóa từ mẫu! Ngài không để cho lũ con của ngài phải chịu đựng quá nhiều sự hành hạ. "Thế là đủ rồi! ngài nói. Cái chân bị thuơng này, những cái vảy trên môi này, sự kinh sợ này, sự chán chường này... Này, hãy thoát ra một chốc lát, cho tới khi thể xác người lại trở thành nơi cư ngụ được!" Và ngài dẫn dắt linh hồn vào cảnh Nát bàn của sự nhiệt cuồng, trong lúc các tế bào chỉnh trang vá víu bên trong ngõ hầu mọi thứ được ở tình trạng hoàn hảo hơn để đón linh hồn trở về. Khi bạn nhìn thấy tấm màn của sự hung ác mà tạo hóa dựng lên, thì bạn hãy cố gắng kéo nó lên, khi đó bạn sẽ kinh ngạc phát hiện ra một bộ mặt khả ái và rất từ bi. Bọn Ả Rập quan sát cơn đột biến bất ngờ của ông mục sư với vẻ hoài nghi, thật ra nó đi gần tới chỗ điên cuồng mà đối với họ bệnh điên là một điều siêu nhiên và đáng sợ. Một tên trong bọn chúng tách khỏi hàng để đi nhận lệnh của tù trưởng. Khi hắn trở lại, hắn nói với những tên bạn của hắn, rồi hai tên Ả Rập đi vây quanh gần con lạc đà của ông mục sư để giữ cho ông này khỏi ngã. Anh chàng da đen tốt bụng lướt tới bên ông đại tá và nói thì thầm vào tai ông hai hoặc ba câu. "Belmont này, chúng ta sắp dừng chân đó", Cochrane loan báo. - Cám ơn Thượng đế! Chúng sẽ cho bọn ta uống nước. Chúng ta không thể tiếp tục như thế này! Tôi đã nói với Tippy Tilly là nếu y giúp đỡ chúng ta, chúng ta sẽ cho y làm bimbashi khi chúng ta đưa y trở lại Ai Cập. Tôi nghĩ là y không đòi hỏi gì hơn đâu, mà y cũng sẽ phải có quyền hành chứ. Này Belmont, hãy quay đầu lại và nhìn con sông kìa! Cho tới lúc này con đường của họ đã đi qua một khoảng bãi cát có rải rác những núi đá với các sông núi đen xì và lởm chởm; bây giờ thì nó chạy tới một cánh đồng khô cằn, chia thành nhiều thung lũng, phủ đầy những đá cuội tròn vo, những đợt sóng trập trùng lên xuống của địa hình kéo dài tới những ngọn đồi tím ngắt tận chân trời; chúng đều đặn quá, dài quá, nâu quân, khiến ta có thể tưởng chúng là những đợt sóng tối om của một cơn sóng khổng lồ đã bị đông đặc lại. Thỉnh thoảng một túm cỏ xanh nhỏ bé của lạc đà mọc lên giữa những tảng đá. Phía trước các tù nhân, không còn gì khác ngoài cái cánh đồng màu nâu và những ngọn đồi màu tím này. Đằng sau họ, trước hết là những núi đá lởm chởm đen xì mà họ vừa đi qua với những thung lung cát vàng ối, nhưng xa hơn, xa hơn rất nhiều, một đường màu xanh nhỏ nhắn chỉ rõ dòng sông Nil. Bên cạnh sự đơn điệu hoang dã này, đối với họ màu xanh lục ấy có vẻ tươi mát và kỳ diệu biết bao! Họ cũng nhận ra ngọn núi cao Abousir, ngọn núi mắc dịch đã gây ra sự tổn thất của họ. Ở đằng xa kia, con sông vạch ra những khúc quanh co óng ánh của nó. Ôi, cái thứ chất lỏng long lanh này. Ôi, những bản năng thô cục, sơ khai đã trỗi dậy ngay trong tâm hồn họ! Họ đã đánh mất gia đình, đánh mất tổ quốc, đánh mất tự do, nhưng họ đã quên tất cả để chỉ còn nghĩ tới thứ nước này. Trong cơn mê sảng, ông Stuart kêu lớn đòi những quả cam, nghe tiếng ông kêu thật là rùng rợn. Chỉ có một mình anh chàng thô lỗ người Ái Nhĩ Lan là vượt được lên trên con thú vật: cái đoạn sông mà ông đang ngắm chắc phải ở gần Ouadi-Halfa và chắc chắn là vợ ông đang ở chỗ đó. Ông kéo chụp mũ xuống bên trên mắt và miệng nhằn sợi râu mép đã bạc. Mặt trời chậm chạp ngả về phương Tây, bóng của họ kéo dài ra trên con đuờng hẹp. Trời đã mát hơn, gió sa mạc đã nổi lên và thổi vi vu bên trên cánh đồng. Tên tù trưởng gọi tên phụ tá, cả hai đều nhìn kỹ các nơi phụ cận, lấy bàn tay che lên hai mắt, chắc chắn là chúng đang tìm một nơi để nghỉ chân. Rồi, thốt lên một tiếng gầm gừ thỏa mãn, con lạc đà của tên chỉ huy quì xuống trên các đầu gối, rồi tới trên các cổ chân và để bụng của nó lên mặt đất. Tất cả những con lạc đà đi tới chỗ cao của nó đều bắt chước nó, và đều nằm xuống trên cùng một hàng ngang. Các kỵ binh đặt chân xuống đất và bày ra trước mắt những con lạc đà các thức để ăn, nhưng trên các miếng vải, vì một con lạc đà giống tốt không bao giờ ăn trên mặt đất ngay chỗ nó đứng. Trong những con mắt hiền lành của các con vật, trong cung cách điềm tĩnh khi ăn, trong điệu bộ khoan đại của chúng, có một thứ gì là duyên dáng, là thuộc vẻ nữ tính: chúng gợi ra một cách không thế chối cãi được hình ảnh một buổi cắm trại của những cô gái già ở giữa bãi sa mạc của nước Libye. Những tù nhân được để tự do trong các cử động của họ, làm sao mà họ có thể nghĩ tới việc đào thoát ở giữa cánh đồng bao la này? Tên tù trưởng bước lại gần, nhìn họ với những con mắt hắc ám, trong khi lấy các ngón tay chải chòm râu của y. Trong lúc run lẩy bẩy, cô Adams phát hiện ra là cái nhìn của tên chỉ huy quay trở lại dính chặt vào Sadie. Rồi, thấy rõ tình cảnh thể chất của họ, y phát ra một mệnh lệnh, một tên da đen mang tới một túi nước và rót cho mỗi người một nửa chén. Nước thì nóng, đầy bùn, nó có mùi vị của da thuộc, nhưng với khẩu-cái khô queo của họ, nó có vẻ ngon ngọt biết bao! Tên tù trưởng nói một vài tiếng khô khan với gã thông ngôn rồi đi khỏi. "Thưa quí bà quí ông!... " Mansoor bắt đầu. Hắn định tự ý lấy lại vẻ quan trọng của hắn, nhưng trước một thứ tia sáng nào đó trong cặp mắt của ông đại tá hắn khởi đầu một bài biện hộ dài cho cách cư xử của hắn. Hắn rên rỉ: -... Làm thế nào mà tôi có thể hành động khác đi được, với lưỡi gươm kề vào cổ họng? "Nếu một ngày nào chúng ta trở lại Ai Cập, tôi hứa là sẽ cho anh một sợi dây thừng quấn vào cổ?" ông đại tá làu bàu một cách hung hãn. Trong khi chờ đợi... "Đúng lắm thưa ông đại tá!" Belmont cắt ngang. "Nhưng vì lợi ích của bản thân chúng ta, chúng ta phải biết là tên chỉ huy đã nói những gì". - Đối với riêng tôi, tôi không còn muốn dính líu gì với đồ chó má này nữa! - Tôi nghĩ đó là ta đi quá xa rồi. Chúng ta không thể tự cho phép mình làm ngơ những điều mà tên chỉ huy đã nói. Cochrane nhún vai. Những sự thiếu thốn, đói khát đã làm cho ông trở nên hay bực bội. Ông phải cắn môi lại để kìm lại một câu trả lời chua chát. Ông đi xa ra một cách thong thả. - Tôi thấy rằng hắn có vẻ dễ chịu hơn trước đôi chút. Hắn nói rằng khi nào còn có nước thì các vị sẽ có phần của các vị, nhưng nước đã không có nhiều. Hắn cũng nói rằng ngày mai chúng ta sẽ tới các giếng nước ở Selimah, và rằng mọi người sẽ có nhiều nước để uống, kể cả những con lạc đà. - Hắn không nói rõ với anh là chúng ta sẽ ở lại nơi này bao lâu à? - Một sự nghỉ chân rất ngắn, hắn nói với tôi, rồi sau đó lại lên đường! Ồ, ông Belmont!... "Im lặng!" anh chàng người Ái Nhĩ Lan càu nhàu nói. Belmont lại bắt đầu tính toán những thời hạn và những khoảng cách. Nếu tất cả mọi việc đều diễn ra như đã dự trù, nếu bà vợ ông đã rũ sạch được sự biếng nhát của viên thuyền trưởng để cho sự báo động được ban hành ở Ouadi-Haffa, thì những người truy lùng đã được tung ra theo dấu vết của bọn họ. Đạo quân cưỡi lạc đà hay đoàn kỵ binh Ai Cập di chuyển tốt và nhanh dưới ánh trăng hơn là dưới ánh sáng mặt trời. Ông biết rằng ở Ouadi-halfa người ta có tục lệ là lúc nào cũng giữ ít nhất một nửa trung đội kỵ binh trong tình trạng báo động. Ông đã ăn uống thâu đêm suốt sáng ở câu lạc bộ, và các sĩ quan đã giảng giải cho ông biết cách thức mà bán trung đội ky binh này trong trường hợp khẩn cấp có thể đánh xuyên thẳng ngay tức thì. Họ đã chỉ cho ông thấy những nơi dự trữ nước, thức ăn làm sẵn ở bên cạnh mỗi con vật và ông đã cảm phục sự chu đáo dành cho các việc chuẩn bị này mà không lúc nào nghĩ rằng ông sẽ có thể cần tới chúng. Muốn cho cả một đội đến trú cùng di chuyển thì phải tính tới một giờ sớm sủa. Có thể là sáng ngày hôm sau... Những sự suy tư của ông bị cắt ngang một cách thê thảm, vùng vẫy như một thằng điên, ông đại tá xuất hiện trên đỉnh một cồn cát ở gần nhất, với một tên Ả Rập đeo cứng ở mỗi cổ tay ông. Mặt ông đỏ bừng vì giận giữ và lo sợ. "Lũ sát nhân khốn kiếp!" ông la lớn. "Belmont ơi, chúng đã giết chết Cecil Brown rồi!" Đây là sự việc đã xảy ra. Trong con tức giận, ông đại tá đã đi tới ngọn đồi gần nhất, trong thung lũng nhỏ ông chợt nhìn thấy một toán lạc đà và nhiều người đang tức giận nói lớn tiếng. Brown đang đứng ở giữa đám chiến binh; ông xanh mét, có một cái nhìn nặng nề, nhưng lúc nào ông cũng xoắn bộ ria mép và ông giả bộ ra một tư thế lơ là. Ông đã bị lục soát, nhưng bây giờ chúng có vẻ quyết định lột hết quần áo của ông với hy vọng tìm ra một vật gì mà ông còn dấu diếm. Một tên da đen xấu xí với những chiếc khoen đeo tai, nhăn mặt một cách giận dữ trước vẻ mặt bất động của nhà ngoại giao trẻ. Trong thâm tâm của mình, ông đại tá cho sự trầm tĩnh không thể lay chuyển được này là phi nhân tính và anh hùng. Quần áo của Cecil Brown đã bị cởi hết cúc, cái bàn tay kếch xù của tên da đen bay tới cổ ông ta và xé tung áo sơ mi của ông cho tới thắt lưng. Nghe tiếng rách soạt này và thấy sự đụng chạm của những ngón tay thô kệch đó, người thị dân này, cái sản phẩm hoàn thiện của thế kỷ thứ mười chín bèn đoạn tuyệt ngay với các nguyên tắc của ông: ông trở thành một tên man rợ trước mặt một tên man rợ khác. Mặt ông đỏ bừng, môi ông mím lại, răng ông nghiến kèn kẹt, mắt ông đỏ ngầu. Ông chồm lên tên da đen và đánh vào mắt y nhiều lần. Ông đánh như một cô con gái, cánh tay tròn trĩnh và bàn tay xòe ra. Thoạt đầu bị hoảng sợ vì cơn điên dại bất chợt đó, tên da đen lùi lại, rốt hắn bật ra một tiếng cười gằn, rút một con dao từ ống tay áo thùng thình của hắn ra và phạt từ dưới lên trên dưới cái cánh tay đang quay cuồng. Brown ngã người xuống và bắt đầu ho, ông ho như một người bị nghẹn trong bữa ăn, hết cơn này tới cơn khác, không thể ngừng được. Cặp má của ông mà sự phẫn nộ đã làm đỏ ửng đã dần dần phủ màu tái nhợt của chết chóc. Cổ họng ông để lọt ra vài tiếng "ong-óc". Ông đặt một bàn tay lên miệng và nằm lăn xuống. Tên da đen phát ra một tiếng gầm gừ khinh bỉ và nhét con dao vào tay áo trong lúc ông đại tá điên cuồng trong cơn thịnh nộ bất lực đã để cho lũ người đứng xem nắm lấy và dẫn trở lại chỗ các bạn đồng hành đang hoang mang của ông. Chúng trói tay ông lại và ông ngồi gần bên vị mục sư bất cần ước lệ lúc nào cũng mê sảng. Như vậy là Headingly đã chết, và Cecil Brown cũng đã chết. Những người sống sót nhìn nhau với những con mắt đờ đẫn, như thể cố sức dò tìm những quyết định của số phận và tiên đoán xem người nào trong bọn họ sẽ là nạn nhân sắp tới. Trong mười du khách thì hai người đã chết và một người điên. Nhất định là những ngày nghỉ của họ đã kết thúc rất tệ. Fardet, anh chàng người Pháp ngồi riêng một mình. Ông tì cằm trên hai bàn tay và những khuỷu tay trên đầu gối ông đang ngắm nhìn bãi sa mạc. Đột nhiên Belmont nhìn thấy ông ta giật nảy người và dỏng tai lên như một con chó nghe thấy tiếng bước chân của một kẻ lạ, Rồi, đan những ngón tay vào nhau, Farđet khom mình về phía trước và mắt nhìn ngấu nghiến những ngọn đồi đen xì ở mạn Đông mà họ vừa vượt qua, Belmont trông theo hướng nhìn của ông ta, và... Đúng, đúng! một vật gì đang động đậy ở phía đó? Kim loại lóng lánh, một cái áo trắng bay phấp phới, một tên thầy tu Hồi giáo đi tuần tra bên hông doanh trại quay con lạc đà của hắn trở lại hai lần ra hiệu báo động, rồi bắn một phát súng chỉ thiên. Trống vang của phát súng chưa tắt lịm hẳn mà tất cả những tên Ả Rập và tất cả những tên da đen đều đã nhảy lên yên và thúc những con lạc đà đứng dậy, chúng thong thả đi về phía mà lệnh báo động đã được phát ra. Nhiều người có võ trang vây quanh các tù nhân, không quên lắp những bì đạn vào những khẩu súng trường của chúng để khuyên họ hãy đứng yên. "Lạy trời, đó là những người cưỡi trên lưng lạc đà!" Cochrane kêu lên, trong ông tất cả mọi ưu lo đều tan biến. "Chắc chắn là những người của chúng ta!" Trong sự hoang mang đều khắp, ông đã tự cởi trói cho hai bàn tay. "Tôi không tin rằng họ lại nhanh chóng đến như thế" Belmont lẩm bẩm nói, hai mắt ông sáng rực lên. "Tôi không trông đợi họ ít nhất là trước hai hay ba giờ. Hoan hô ông Fardet, như thế tốt hơn, phải không?" "Hoan hô! Hoan hô! Tốt một cách kỳ diệu! người Anh muôn năm! người Anh muôn năm!" anh chàng người Pháp kêu to, toàn thân bị kích động. Một đoàn lạc đà từ trong các núi đá mà ra. "nghe đây, Belmont" ông đại tá nói lớn, "Chắc chắn là lũ kẻ cắp này sẽ muốn hạ sát chúng ta nếu công việc của chúng không trôi chảy. Tôi biết phong tục của chúng, và chúng ta phải chuẩn bị sẵn sàng. Ông có muốn nhảy tới tấn công thằng chột mắt không? Tôi, tôi sẽ bắt thằng da đen cao lớn, nếu hai cánh tay tôi có thể ôm vòng thân mình nó. Stephens, ông sẽ làm việc gì ông có thể làm được. Còn ông, Fardet, ông đã hiểu lời tôi nói chứ? Phải hoàn toàn đặt những tên cướp này ra ngoài tình trạng làm hại chúng ta trước khi chúng có thể làm tổn thương chúng ta. Còn anh, anh thông ngôn, hãy nói cho hai người lính Soudan biết... nhưng, nhưng... " Giọng ông trảm xuống, ông nuốt nước miếng. " Đó là những tên Ả Rập" ông nói. Và không ai nhận ra giọng nói của ông nữa. Trong tất cả cái ngày khủng khiếp này, đây là lúc khủng khiếp nhất. Ông Stuart, con người vui vẻ, nằm dài trên những hòn đá sỏi, tựa lưng vào hông con lạc đà của ông và ông nín những tiếng cười nhỏ mỗi khi các tế bào bên trong người ông bận rộn một cách vui vẻ để tái lập trật tự trong thân thể ông. Bộ mặt hồng hào, tươi tắn của ông toát ra vẻ thánh thiện nhưng với những người khác sự tuyệt vọng thật vô cùng! những người đàn bà oà lên khóc thổn thức, những người đàn ông thì núp náu trong một sự yên lặng còn tệ hơn là khóc lóc. Ông Fardet thì khổ sở vì những cơn nấc cụt, ngã sụm xuống, mặt úp xuống đất. Bọn Ả Rập bắn súng chỉ thiên để chúc mừng sự may mắn cho các bạn của chúng. Bọn này phi lạc đà chạy trên cánh đồng trống, đáp lại bằng những loạt súng và vung vẩy những cây giáo của chúng. Cái toán mới này không đông bằng toán thứ nhất; nó không có tới quá ba mươi ky binh, chúng mang cùng một thứ khăn đỏ và những chiếc áo chắp nối nhiều mảnh. Một tên trong bọn chúng vác một lá cờ trắng nhỏ có trang hoàng một bản văn thêu màu đỏ. Nhưng sự chú tâm của các du khách, bất thần bị lôi cuốn bởi một vật khác. Lòng họ có cùng một điều lo sợ như nhau, cùng một sự xung động đã chế ngự sự im lặng. Ở giữa đám chiến binh của sa mạc một bóng trắng lảo đảo trên một con lạc đà. "Chúng có ai đi với chúng vậy?" cuối cùng Stephens nói lớn. "Hãy nhìn kìa, cô Adams! Ta phải nói đó là một phụ nữ!". Quả thực một hình dáng người hình như được đặt trên một con lạc đà, nhưng khó mà đặt cho hình dáng đó một cái tên. Khi hai toán người gập nhau, những kỵ binh tan hàng. Lúc đó thì các tù nhân mới hiểu. - Đó là một người đàn bà da trắng! - Tàu thủy đã bị tấn công. Belmont thốt ra một tiếng kêu như xé rách màn đêm. Ông gào lên, - Norah, em yêu của tôi! Chớ để mất lòng can đảm! Tôi ở đây và mọi sự đều tốt đẹp.