Thứ ba, ngày mười tám tháng Chạp năm 1559 tức là sáu tháng sau lễ hội Lăngđi, vào hồi ba giờ chiều trong một buổi hoàng hôn tuyệt đẹp hằng mong ước có được ở kì gần cuối năm này, ngài Ăngtoan Mina, một trong số cố vấn của Pháp viện cưỡi trên lưng con la thật gầy guộc yếu ớt đã tố giác tính keo kiệt đáng phỉ nhổ của chủ nó. Ngài Ăngtoan Mina – chúng tôi lưu ý độc giả để mắt đến ông một chút – là một người sáu mươi tuổi, béo tốt và má phị, làm dáng bằng cách để những lọn tóc giả bay phất phơ trước gió. Bộ mặt ngài lúc bình thường biểu lộ sự toàn phúc nhất: chắc chắn không một nỗi buồn nào làm u tối được vầng trán bóng láng không một nếp nhăn; không một giọt lệ nào khơi được dòng dưới đôi mắt to hầu như quá mức; cuối cùng là sự vô tư lự ích kỉ và niềm vui tầm thường đã phết một lớp sơn trên bộ mặt đỏ au được chống đỡ một cách oai vệ bằng chiếc cằm có ba lớp. Nhưng ngày này, bộ mặt ngài chánh án Mina còn xa mới rạng rỡ ánh hào quang thường nhật của ngài; bởi vì chỉ cách nhà ngài không quá bốn trăm bước và ta thấy rõ khoảng cách này không lớn nhưng ngài không tin chắc có về tới nhà được không; vì thế mà bộ mặt ngài, tấm gương của những cảm xúc lay động bên trong đang biểu lộ nỗi lo âu sâu sắc nhất. Quả nhiên, dân chúng hợp thành đoàn hộ tống vị chánh án đáng trọng còn xa mới đem đến cho ngài niềm vui: ngay từ lúc ngài ra đi, ngài đã bị một đám dân chúng rất đông đi theo, hầu như thật sự thích hộ tống ngài; hầu như tất cả những kẻ ưa hò reo, la ó, gào thét ở cái thủ đô của cái vương quốc thuần công giáo này đều hẹn nhau trên quảng trường pháp viện để hộ tống ngài đến tận nhà ngài. Vậy những lý do nào đã kích động số đông đồng hương của ngài chống lại ngài Mina đáng trọng? Chúng tôi cố gắng kẻ vắn tắt chuyện này. Ngài Mina vừa kết án tử hình một người trung thực mà nói:- được mến mộ nhất ở Pari, người đồng sự với ngài chánh án ở pháp viện, người anh em trong Chúa của ngài, ông pháp quan đức độ Anơ Đuybuôc. Vậy Đuybuôc đã mắc tội gì? Cùng một tội như Atêniêng Aritit. Người ta gọi ông là Công lý. Đây là những nguyên nhân của vụ án kéo dài từ sáu tháng nay và vừa kết thúc thật rủi ro cho viên pháp quan khốn khổ. Tháng sáu, năm 1559, Hăngri đệ nhị bị hồng y giáo chủ Loren và anh ông ta là Frăngxoa Đờ Ghidơ kích động rằng giới tăng lữ ở Pháp được mệnh danh là những thiên sứ của Chúa để bảo vệ và gìn giữ thiên Chúa giáo, toà thánh và La Mã; Hăngri đệ nhị liền ban bố một đạo luật buộc pháp viện kết án tử hình không loại trừ,không miễn thứ đối với mọi người theo giáo phái cách tân Luyte. Vậy mà, bất kẻ đạo luật ấy, vài pháp quan đã phóng thích khỏi nhà tù một tín đồ Canvanh. Quận công Đờ Ghidơ và hồng y giáo chủ Loren không sờn lòng đối với việc loại trừ toàn bộ những tín đồ Tin lành, đã thuyết phục nhà vua, ngày mùng mười tháng sáu đến chủ toạ phiên họp trọng thể tại đại nghị viện tổ chức tại tu viện Ôguytstanh là nơi Tối cao Pháp viện tập hợp lúc này vì trụ sở pháp viện đã dành cho việc cưới giữa vua Philip đệ nhị với bà Êlidabet và giữa tiểu thư Macgơrit với hoàng thận Êmanuyen Filibe. Ba hoặc bốn lần mỗi năm trong đó một lần là phiên họp của Tối cao pháp viện mà người ta gọi là đại nghị hội và cuộc họp này được gọi là định kì thứ tư vì nhất thiết phải họp vào thứ tư. Vậy là nhà vua đến chủ toạ pháp hội định kì thứ tư và khai mạc phiên họp bằng việc hỏi vì sao người ta tự cho phép tha bổng những tín đồ Tin lành và do đâu mà người ta không phê chuẩn đạo luật xử tội họ. Năm pháp quan cùng lúc đứng bật dậy với cùng một tình cảm rồi, nhân danh cá nhân và thay mặt các đồng sự của mình, Anơ Đuybuôc nói giọng cương nghị: - Bởi vì người đó vô tội và giải thoát một người vô tội dù người đó có là tín đồ Tin lành thì chính là hành động theo lương tri con người. Năm pháp quan đó là Đuyfô, La Fuymê, Đờ Poa, Đờ la Pooc và Anơ hoặc Ăngtoan Đuybuôc. Chính Đuybuôc, như chúng tôi đã nói tới, là người được uỷ nhiệm trả lời. Vậy là ông nói thêm: - Đối với đạo luật, thưa bệ hạ, thần không khuyên bệ hạ cho phê chuẩn nó, trái lại, thần yêu cầu người ta đình những vụ kết án ghi trong đạo luật cho đến khi nào mà những ý kiến về những kẻ mà người ta dễ dàng dẫn tới nhục hình được cân nhắc chín chắn và tranh luận lâu dài trước một hội đồng. Vào lúc ây, chánh án Mina can thiệp đề nghị được đặc biệt nói với nhà vua. “Theo những hồi kí của Côngđê, thì đây là một con người xảo trá, quỷ quyệt, phóng đãng và ngu dốt nhưng là một kẻ nhiều mưu mô và phản loạn. Muốn làm hài lòng nhà vua và những nhân vật chính của nhà thờ La Mã, e sợ những ý kiến của những người thuộc nhóm Đuybuôc hẳn mạnh mẽ hơn và cần phải kết luận theo văn bản vì thế ông ta làm cho nhà vua lọt tai rằng những pháp quan của tối cao pháp viện hầu như tất cả đều là những tà đạo theo giáo phái Luyte; rằng thật ghê tởm đi nghe một số người trong bọn nói về lễ nguyện; rằng họ muốn phế truất quyền lực và vương miện của nhà vua; rằng họ hết sức huênh hoang, dè bỉu những đạo luật và lệnh chỉ ấy; rằng họ ăn mặc như người Morơ(1); rằng (1)một vùng ở Bắc phi mặc quần rất rộng bằng vải nhẹ số lớn trong bọn họ thường lui tới những cuộc họp nhưng không bao giờ đi lễ nguyện và rằng, nếu không cắt bỏ những cái xấu xa tận gốc rễ thì từ cuộc họp định kì thứ tư này, nhà thờ vĩnh vng tâm trí tôi. - Những kỉ niệm u buồn nào có thể tới trong tâm trí mình, ông chông thân yêu của tôi, vào cái lúc tốt đẹp nhất của thắng lợi của mình chứ?- bà chánh an hỏi. - Vào lúc tôi nâng cốc chúc thọ ngài Đờ Ghidơ và anh ông ta, tôi có nghĩ tới chuyện ngày hôm qua có một người bị ám sát chết khi các ngài ấy cho tôi vinh dự là cử người ấy đến gặp tôi. - Một người ư?- Toàn thể gia đình ngài kêu lên. - Một viên lục sự- Mina nói tiếp. - Thế nào! một người trong số lục sự của các vị bị giết hôm qua à? - Ôi! Lạy Chúa tôi, phải. - Đúng thế sao? - Các người có biết rõ Duyliêng Fretsnơ không?- chánh án Mina hỏi. - Duyliêng Fretsnơ? - Một thân nhân kêu lên - Chắc chắn chúng tôi biết ông ta. - Một con chiên sùng tín- Người thứ hai nói. - Một người trung thực - người thứ ba nói. - Tôi đã gặp ông ta hôm qua ở Phố Barrow-đuy-Bêch từ lâu đài Đờ Ghidơ tới và theo ông ta nói là đến pháp viện. - Thế thì đúng rồi: đúng lúc ông ta tới cầu đức bà để mang cho ngài hồng y giáo chủ một công hàm của em ông là quận công Đờ Ghidơ mà công hàm này sẽ phải chuyển cho ta thì ông ta bị giết. Bà chánh án kêu lên: -Ôi! Khủng khiếp quá. - Bị giết! - cả gia đình nhắc lại - bị giết ư: lại một người tử vì đạo. - ít ra người ta đã bắt giữ kẻ giết người rồi chứ?- bà chánh án hỏi Mina. - Người ta không biết nó là ai - người này trả lời. - Người ta có những nghi vấn chứ? – bà chánh án lại hỏi. - Còn hơn thế, những sự khẳng định hẳn hoi. - Những sự khẳng định ư? - Phải; vậy bà muốn nó là ai, nếu không phải là một bạn thân của Đuybuôc? - Chắc chắn đó là một bạn thân của Đuybuôc - cả gia đình nhắc lại - vậy bà bác muốn nó là ai nào, quỷ thật! Nếu không phải là một bạn thân của Đuybuôc. - Người ta đã bắt giữ một ai rồi chứ? – Bà chánh án hỏi. - Một trăm người, gần như thế. Về phần tôi, tôi chỉ định ba mươi người trong số đó. - Người ta sẽ rất rủi ro - Một tiếng nói cất lên- nếu kẻ giết người không có trong số đó. - Nếu nó không có trong số đó – viên chánh án nói - người ta sẽ bắt giữ một trăm, hai trăm, thậm chí ba trăm người khác. - Bọn ác nhân!- Một tiểu thư trẻ độ tuổi mười tám nói- người ta hẳn sẽ thiêu tất cả bọn chúng. - Người ta đã nghĩ đến chuyện này- Ngài chánh án trả lời – và cái ngày mà người ta quyết tội chết hàng loạt những kẻ tín đồ đạo giáo Tin lành thì đó là ngày tốt đẹp đối với ta. - Ôi! Mình thật là con người chính trực xiết bao! Bạn thân thiết của tôi! – Bà chánh án nói, nước mắt lưng tròng. Hai con gái ngài Mina đến ôm bố. - Người ta có biết nội dung bức thư của quận công không? – Bà chánh án hỏi. - Không – Mina trả lời – Và chính điều đó đã làm cho Tối cao pháp viện quan tâm sâu sắc ngày hôm nay, nhưng ngày mai người ta sẽ biết vì chiều nay ngài hồng y giáo chủ Loren sẽ phải tới thăm ông em nổi tiếng của ngài. - Vậy là bức thư bị đánh cắp ư? - Chắc thế; cũng có thể gã Duyliêng Fretsnơ khốn khổ bị ám sát chỉ vì gã là kẻ mang bức thư ấy. Kẻ sát nhân đã đoạt bức thư và bỏ trốn, người ta cử các xạ thủ săn đuổi nó; mọi đơn vị cảnh bị và mọi người của ông Đờ Muxi(1) đã tiến hành chiến dịch khủng khiếp lùng bắt từ sáng nay, nhưng đến năm giờ chiều nay, người ta vẫn chưa có tin tức. - Đúng lúc ấy, một người đầy tớ gái vào báo cho ngài Mina có một người lạ mặt mang lá thư đã bị kẻ sát nhân lấy cắp của Duyliêng Fretsnơ hôm trước khẩn khoản muốn nói với ngài chánh án ngay lúc này. - Ồ! Cho vào nhanh lên! Ngài chánh án reo lên rạng rỡ niềm vui. Chính Chúa thưởng cho tôi về sự sùng kính của tôi bằng cách cho rơi vào tay tôi bức thư công hàm quý giá ấy do sự thiếng liêng của Người. Năm phút sau, cô hầu gái đưa người lạ vào và ngài Mina thấy bước vào một người trạc hai mươi bốn hoặc hai mươi (1) Đờ Muxi: thống chế nước Pháp, tước vị quận công, sinh tại Pari. Lăm, tóc hung nâu, ria hung, mắt nhìn tinh anh sắc sảo nhưng bộ mặt tái xanh. Theo lời mời của chánh án, chàng đến ngồi ở cạnh bàn phía đối diện ngài. Đây vẫn là người đàn ông trẻ đã nói với những kẻ giết người bạn thân Mêđa của chàng khi rút khỏi bờ sông trong ngày lễ hội Lăngđi rằng, có thể một ngày nào đó người ta được nghe nói tới chàng. Đó là Rôbơc Stuya. Chàng trai mỉm cười lịch thiệp, chào tất cả mọi người rồi chàng ngồi vào chiếc ghế, trước mặt là ngài chánh án, sau lưng là cửa ra vào. - Thưa ngài - Rôbơc Stuya nói với ngài chánh án – có phải tôi được hân hạnh nói với chính ngài chánh án Mina không? - Vâng, thưa ông – ngài chánh án trả lời hết sức ngạc nhiên thấy làm sao qua nhận diện, người ta có thể ngu ngốc đến mức không đọc được trên bộ mặt ngài là chỉ riêng ngài mới có thể và đang là ngài Mina nổi danh –Vâng, thưa ông, chính tôi là ngài chánh án Mina. - Rất tốt, thưa ngài - Người lạ nói tiếp - nếu tôi hỏi ngài như vậy ngay từ đầu, có lẽ đối với ngài hầu như bất cẩn, nhưng ngài sẽ thấy đó là do tôi rất mong muốn tránh mọi sự không minh bạch. - Điều đó quan hệ gì thưa ông?- viên quan toà hỏi- người ta nói với tôi rằng ông muốn trao tôi bức công hàm mà kẻ khốn khổ Duyliêng Fretsnơ mang đi khi gã bị giết chết. - Có thể người ta đã đi hơi xa, thưa ngài- chàng trai nói với vẻ lẽ độ vô biên- khi báo cho ngài rằng tôi sẽ trao cho ngài bức công hàm ấy.Tôi chưa có một lời hứa nào thuộc loại này, còn tôi có trao cho ngài bức công hàm hoặc giữ nó lại tuỳ thuộc vào câu trả lời của ngài về câu hỏi mà tôi có hân hạnh đưa ra cho ngài ; ngài có hiểu rằng, thưa ngài, để trở thành kẻ có được một tờ giấy thật quan trọng ấy, tôi đã phải liều mạng. Một người sẽ không liều mạng, ngài hẳn biết điều này, thưa ngài, ngài đã quen đọc lòng người ; nếu không có một quyền lợi lớn để buộc phải liều mạng. Vậy tôi hân hạnh nhắc lại với ngài, cũng để tránh có sự không rạch ròi như trên, tức là tôi chỉ trao cho ngài bức công hàm ấy nếu tôi hài lòng về câu trả lời của ngài đối với câu hỏi của tôi. - Vậy câu hỏi đó thế nào, thưa ông? - Thưa ngài chánh án, ngài hẳn biết hơn ai hết rằng, trong một cuộc thẩm vấn có trình tự, mỗi việc có lượt của nó. - Tuy nhiên, ông có trong tay bức công hàm đó chứ? - Nó đây, thưa ngài. Chàng trai rút trong túi ra một tờ giấy có dấu ấn, giơ ra cho ngài chánh án Mina. Ý nghĩ đầu tiên của người này, cần phải thừa nhận là ý nghĩ bất lương: ngài nghĩ rằng sẽ ra hiệu anh em họ và các cháu của ngài đang nghe câu chuyện trao đổi một cách ngạc nhiên, là lao vào người lạ chiếm lấy bức thư công hàm và tống người này vào ngục Xatơlê với trăm người đã bị bắt giữ về tội mưu sát viên lục sự Duyliêng Fretsnơ. Nhưng nét cương nghị in dấu ấn trên gương mặt chàng trai mang đầy đủ tính cách của ý chí đẩy tới cứng rắn làm ngài chánh án nhụt chí, không đủ sức mạnh vật chất để chiếm lấy tờ giấy, ngài nghĩ rằng với sự khéo léo và sự tinh tế kì lạ của ngài, tốt nhất là dẫn dắt chàng trai bằng mưu kế hơn là bằng bạo lực; vậy là, trước dáng vẻ thanh lịch của chàng trai, cách ăn mặc chải chuốt của chàng, dẫu rằng nghiêm khắc, ngài buộc phải sửa chữa trước, ngài liền mời chàng trai dùng bữa tối với họ để có dư thời gian cần thiết kéo dài cuộc nói chuyện rồi tính nhau. Chàng trai lễ phép cảm ơn nhưng từ chối lời mời của ngài. Chánh án liền mời chàng ít ra là dùng nước giải khát nhưng chàng trai lại cảm ơn và khước từ. - Vậy ông hãy nói đi thưa ông – Mina nói- Vì ông không muốn nhận bất cứ thứ gì thì tôi xin phép ông cho tôi tiếp tục dùng bữa tối của tôi bởi vì, tôi thành thật thú nhận với ông là tôi đói chết đi được. - Xin ngài cứ tự nhiên thưa ngài- chàng trai đáp – và ăn ngon miệng! Câu hỏi mà tôi đặt ra cho ngài thật hết sức quan trọng mà để hiểu rõ cần có những câu hỏi trước đó. Ngài cư ăn đi, thưa ngài chánh án, tôi sẽ hỏi. - Xin ông cứ hỏi, thưa ông – tôi ăn đây. Và thiết thực ra hiệu cho số người của gia đình theo dõi ngài, ngài ăn vẻ ngon lành không hề mâu thuẫn với chương trình dự kiến của ngài. - Thưa ngài - Người lạ nói chậm dãi giữa tiếng lách cách của dao nĩa, nhưng mọi người dều từ tốn không hề bỏ sót một lời của câu chuyện kể mà họ sắp được nghe. - Thưa ngài, hẳn với ngữ âm của tôi hẳn phải nhận ra tôi là một người ngoại quốc. - Đúng thế thưa ông – chánh án nói, miệng phồng lên –trong giọng nói của ông tôi hiểu có cái gì đó của người Anh. - Đúng thế thưa ngài và sự sáng suốt thường nhật của ngài đã không làm ngài nhầm về quê hương tôi. Tôi sinh ra ở Êcôtxơ, tôi sẽ còn ở đó nếu không có một sự kiện, kể ra với ngài thật vô ích, đã buộc tôi đến nước Pháp. Một đồng hương của tôi, môn đệ nhiệt thành của Knox…(Knox: nhà cách tân người Anh, một trong số người sáng lập ra chủ nghĩa trường lão) - Một kẻ tà giáo Anh phải không? Thưa ông –chánh án Mina hỏi, vừa tự rót cho mình một cốc vang đầy. - một người thầy yêu kính của tôi - Người lạ cúi mình trả lời. Ngài Mina nhìn khắp lượt gia đình ngài với ngụ ý rõ ràng: “Hãy lắng nghe, các bạn thân mến của ta, các bạn sắp được nghe những điều hay ho trong câu chuyện này!”. Rôbơc Stuya nói tiếp: - Một đồng hương của tôi, môn đệ nhiệt thành của Knox cách đây vài ngày đã ở trong một ngôi nhà mà bản thân tôi thỉnh thoảng có tới đấy: ở đấy người ta nói tới vụ xử pháp quan Anơ Đuybuôc. Giọng nói của chàng trai run lên khi thốt ra hai tiếng cuối và mặt chàng vốn tái xanh còn nhợt nhạt hơn. Tuy nhiên chàng tiếp tục nói nhưng giọng không khớp với dáng mặt chàng và chàng nhận ra mọi con mắt đều quay hướng nhìn chàng. - Người đồng hương của tôi- chàng nói- chỉ nghe nói đến tên Anơ Đuybuôc đã tái nhợt trông thấy, hệt như tôi lúc này, và anh hỏi mọi người nói tới vụ kết án này rằng pháp viện sao lại có thể mắc một điều bất công đến thế. - Thưa ông – ngài chánh án kêu lên, nghĩ rằng ngài đã nuốt trệu trạo khi nghe những lời lẽ khác thường này.- ông quên rằng ông đang nói với một uỷ viên pháp viện, có phải thế không? - Xin lỗi ngài – chàng Êcôtxơ trả lời – đó là người đồng hương của tôi nói như vậy, anh ấy đã nói không phải trước một uỷ viên pháp viện mà là trước mặt một viên lục sụ bình thường của pháp viện tên là Duyliêng Fretsnơ là người bị giết hôm qua. Duyliêng Fretsnơ lúc ấy đã bất cẩn nói với người đồng hương tôi như sau: “Tôi có trong túi mình một bức thư của Đức ông quận công Đờ Ghidơ, trong đó quận công truyền đạt cho pháp viện của nhà vua là cần phải kết thúc việc xử tử người có tên Anơ Đuybuôc và phải thi hành sớm nhất. “Nghe những lời ấy, người đồng hương của tôi run lên và nét mặt bạn tôi vốn đã tái xanh trở nên xanh trong nhợt nhạt và anh ấy đến gần Duyliêng Fretsnơ, bằng lời lẽ thật cần thiết, đề nghĩ gã đừng đưa thư ấy, chỉ cho gã thấy rằng, nếu Anơ Đuybuôc bị kết án thì một phần cái chết của ông pháp quan ấy sẽ rơi vào tay gã, nhưng Duyliêng Fretsnơ vẫn khăng khăng không chịu trao bức thư. “Người đồng hương của tôi chào gã và đến chờ viên lục siễn bị huỷ diệt”. Tóm lại, với sự giúp sức của hồng y giáo chủ Loren, ông ta kích động, chọc giận, mê hoặc nhà vua, thật sự làm nhà vua hoàn toàn mất lý trí, nhà vua liền cho gọi đức ông Đờ Looc tức bá tước Mônggômêry, chỉ huy đội cận vệ người Êcôtxơ và ông Đờ Savinhli, chỉ huy các đội vệ binh và ra lệnh cho họ bắt giữ năm pháp quan và tống giam vào nhà ngục Batsiơ. Lệnh giam giữ ấy vừa được thi hành thì mọi người đã dự đoán được những hậu quả của nó: những người thuộc nhóm Ghidơ muốn khủng bố những tín đồ Tin lành qua vài vụ hành quyết khủng khiếp và người ta phán xét rằng, nếu không phải là năm pháp quan thì chí ít người quan trọng nhất trong số họ là Anơ Đuybuôc phải chết. Như vây, hai câu thơ sau đây bao gôm tên năm người bị cầm tù và theo cách sắp xếp những tên ấy cho ta ý nghĩ về số phận dành cho người đứng đầu nhóm chống đối Tin lành, đã lan truyền trong thành phố Pari ngay ngày hôm sau: Qua Poa, Đờ la Pooc, Đuyfô Ta nhận ra Đuybuôc, là Fuymê Dù sao chăng nữa,việc bắt giữ năm người đã gợi cảm hứng cho khổ thơ mang ý nghĩ đầy đủ với tinh thần tốt đẹp thời đó đã gây nên một nỗi kinh hoàng trong toàn thành phố và sau đó trong tất cả các thành phố của nước Pháp, đặc biệt trong các tỉnh miền bắc. Người ta cũng coi việc giam giữ con người trung thực Anơ Đuybuôc như một nguyên nhân chính của vụ âm mưu của Ămboadơ và của mọi sự rối loạn và cuộc chiến đấu đã tưới máu lên mảnh đất nước Pháp trong bốn mươi năm nữa. Mười lăm ngày sau vụ bắt giam ấy, ngày thứ sáu,25-6, ngày thứ ba của cuộc kỵ đấu mà nhà vua cho tổ chức tại lâu đài Tuôcnen gần ngay ngục Batstiơ, các pháp quan tù nhân nghe thấy vang lên những tiếng kèn,kèn đồng, kén sáo của ngày lễ hội. Nhà vua cho vời viên chỉ huy của đội cận vệ người Êcôtxơ tới, vẫn là bá tước Mônggômêry là người được sự trợ giúp của ông Đờ Savinhi đã áp giải năm pháp quan vào trại giam và nhà vua trao nhiệm vụ cho ông ta phải đi ngay để chống lại những tín đồ Tân giáo ở xứ Côlê Tuôcnoa. Với nhiệm vụ này, bá tước Mônggômêry được lệnh đâm kiếm xuyên qua những người bị bắt giữ tin chắc là tà giáo, đặt ra cho họ câu hỏi kì lạ, cắt lưỡi họ, sau đó thiêu sống họ trên ngọn lửa cháy nhỏ; còn đối với những người bị nghi vấn thì đơn giản là khoét mắt họ. Thế mà chỉ năm ngày sau khi vua Hăngri đệ nhị trao nhiệm vụ này cho viên chỉ huy đội cận vệ người Êcôtxơ của ông thì Gabrien đờ Loocdơ, bá tước Mônggômêry đã đâm vua Hăngri bằng chính lưỡi giáo của ông và giết nhà vua. Hiệu quả cái chết này thật lớn, chắc chắn nó đã cứu thoát cả bốn trong số năm pháp quan bị cầm tù và đình hoãn việc hành quyết người thứ năm. Một trong năm người được miễn tố, bà người bị xử tội tiền phạt vạ. Chỉ riêng Anơ Đuybuôc phải trả giá cho những người khác. Liệu có phải do ông là người phát ngôn chăng? Nếu những người thuộc phái Ghidơ là những kẻ khởi xướng cuồng nhiệt cái đạo luật ấy thì một trong những kẻ thi hành cuồng nhiệt đạo luật ấy là viên chánh án đạo đức giả Ăngtoan Mina mà chúng tôi đã tả ông cưỡi trên lưng con la phản loạn trong phố cổ Tămplơ giữa những tiếng la ó nguyền rủa cùng những sự uy hiếp của hai hàng người đồng hương phẫn nộ. Và khi chúng tôi nói rằng, mặc dầu chỉ cách có một trăm bước chân để trở về nhà mà ngài không thật tin chắc có lọt được vào nơi ở của ngài, chúng tôi không tạo dựng tình cảnh tồi tệ mà đúng như vậy, xét răng hôm trước, ngay giữa ban ngày ban mặt mà người ta đã áp sát, bắn một viên đạn súng ngắn giết chết viên lúc sự của pháp viện tên Duyliêng Fretsnơ mà người ta nói là y đến lâu đài mang bức thư của quận công Đờ Ghidơ, qua bức thư này, quận công hối thúc anh ông ta là hồng y giáo chủ Loren phải xử thật nhanh Anơ Đuybuôc. Do vụ sát hại này mà người ta chưa tìm ra thủ phạm tất nhiên là hiện ra trong tâm trí viên chánh án bóng ma viên lục sự khốn khổ bị giết hôm trước như cùng cưỡi lên mông con là với ông. Chính cái đám đông hộ tống trên đường đi ấy đã làm cho ngài chánh án mặt mũi thật tái nhợt, làm tăng gấp đôi cử động run rẩy của ngài dùng gót chân thúc con la ương ngạnh là vật cưỡi của ngài và dù nó có bị thúc thì cũng không nhích nổi hơn một bước. Tuy nhiên ngài vẫn lành mạnh về tới trước cửa nhà ngài; tôi,xin thề với các bạn như vậy và nếu ngài còn sống thì bản thân ngài cũng thề với các bạn là qủa đúng lúc. Quả nhiên, đám đông dân chúng bị kích động bởi sự im lặng của ngài nhưng thực ra chỉ là kết quả của nỗi lo sợ của ngài, còn dân chúng lại ngờ rằng đó là biểu hiện của tính thâm hiểm ác độc của ngài nên đám đông dân chúng dần dần tiến sát bên ngài uy hiếp rõ ràng làm ngài chết ngạt. Vậy là những đợt sóng của cái biển bão tố ấy dù đã đe doạ ngài đến thế thì ngài chánh án Mina cũng ghé được tới bờ trước sự hân hoan của gia đình ngài và họ đã hấp tấp dìu ngài vào nhà, chốt khoá đóng kín cửa lại sau lưng ngài. Con người đáng trọng ấy thực sự bối rối trước hiểm hoạ vừa qua nên đã bỏ quên con la của ngài trước cổng, điều mà từ trước đến nay chưa bao giờ ngài lãng quên, mặc dầu được giá và dù có trả giá cao hơn giá trị thực của nó thì con la này cũng không đáng hai mươi xu vào thời ấy. Thật là hạnh phúc lớn lao cho ngài đã bỏ quên con la của ngài vì đám dân chúng Pari này thật dễ tính, dễ dàng chuyển từ uy hiếp sang cuời cợt và từ khủng khiếp sang hài hước, thấy rằng người ta đã để lại cho họ vật gì đó liền bằng lòng với cái mà người ta để lại là dắt con la đi thay cho ngài chánh án. Con la ấy trong tay dân chúng trở thành thế nào, lịch sử không hề nói tới: vậy chúng ta hãy mặc xác con la mà hãy theo chủ nó vào trong gia đình ông.