Tìm hiểu nguyên nhân những cuộc nổi dậy của người Thượng trên cao nguyên miền Trung Ngày 2-2-2001, hơn 6.000 người Djarai đến trụ sở tỉnh ủy tỉnh Gia Lai và ủy ban nhân thành phố Pleiku phản đối việc bắt giam hai tín đồ Tin Lành người Djarai hôm 29-1, về tội "kích động gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc", và yêu cầu các cấp chính quyền địa phương trả lại đất đai đã bị nhà nước tước đoạt. Tiếp đó, trong các ngày từ 3 đến 11-2, hàng ngàn người Rhadé cũng đã kéo đến các trụ sở tỉnh ủy, ủy ban nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột và một số huyện lớn trong tỉnh Ðắt Lắc phản đối và đòi hỏi tương tự. Theo những nguồn tin không chính thức nhưng đáng tin cậy, trong suốt thời gian biến động vừa nói đã có hơn 20.000 người Djarai và Bahnar đã xuống đường tại Pleiku và một số huyện khác trong tỉnh Gia Lai, một số lượng tương tự người Rhadé và Mnong cũng đã xuống đường phản đối tại Buôn Ma Thuột. Chính quyền cộng sản đã không coi nhẹ tầm quan trọng những cuộc xuống đường của người thiểu số, phản ứng của họ đã liền tức khắc. Một mặt họ trả tự do cho hai tín đồ Tin Lành vừa nói và cử cán bộ đến giải thích chính sách của nhà nước về đất đai để vuốt ve sự căm tức và đồng thời cũng để dập tắt mầm mống chống đối của người Thượng trên cao nguyên ngay từ trong trứng nước. Mặt khác họ huy động một lực lượng quân sự quan trọng ngăn chặn các ngỏ ra vào cao nguyên và loan tải nhanh chóng tin tức những cuộc xuống đường của người Thượng để không cho phong trào đòi đất đai lây lang sang những địa phương khác và đồng thời cũng để minh oan cho chế độ trước dư luận quốc tế. Tuy vậy cũng đã xảy ra nhiều cuộc va chạm giữa người biểu tình và lực lượng an ninh làm 200 người Thượng và 20 cảnh sát bị thương, hàng ngàn người Thượng bị đánh đập và nhiều người khác bị bắt. Hiện tại tình hình đã tạm lắng yên nhưng vấn đề người Thượng vẫn còn nguyên vẹn, nghĩa là quyền sở hữu đất đai, quyền tự do tín ngưỡng và nhất là chỗ đứng của người Thượng trong lòng cộng đồng dân tộc Việt Nam chođến nay vẫn chưa có giải đáp nào thuận tình vẹn lý. A. Những nguyên nhân Một sự kiện quan trọng là những cuộc xuống đường phản đối của người Thượng không mang tính tự phát mà có một sự vận động qui mô tên khắp cao nguyên, có chuẩn bị và tuân theo một kỷ luật rõ ràng. Từng đoàn người từ các buôn làng hay cơ sở công quyền đã lần lượt kéo nhau đến các trụ sở công quyền phản đối. Thấy gì qua sự kiện này? Có ít nhân ba nguyên nhân dẫn đến phảnđối rầm rộ của người Thượng, nguyên nhân này là tiền đề nối kết với nguyên nhân kia. 1. Nguyên nhân trước mắt: Giọt nước đã làm tràn ly nước bất mãn đã đầy là việc bắt bớ, giam cầm và đánh đập hai tín đồ Tin Lành, hai ông Rahlan Pon và Rahlan Djan, tại huyện Chư Prong. Hai người này đã rất tích cực trong việc truyền bá giáo lý đạo Tin Lành bằng thổ ngữ, qua đài Chân Trời Mới phát thanh từ Philippines, và được đông đảo người Djarai địa phương ngưỡng mộ. Việc bắt bớ và cấm đoán những người truyền bá đạo Tin Lành trên Tây Nguyên không phải chỉ mới đây, nó đã bắt đầu từ khi chính quyền cộng sản Việt Nam làm chủ cao nguyên miền Trung từ sau ngày 19-3-1975, ngày Buôn Ma Thuột lọt vào tay quân đội cộng sản. Rất nhiều mục sư và tín đồ đạo Tin Lành người Thượng, nhất là người Rhadé, Churu và Koho, đã bị bắt và giam giữ trong các trại học tập cải tạo, nhiều người đã thiệt mạng vì bệnh tật và thiếu đói, một số khác vẫn còn bị giam giữ cho tới ngày nay, nhưng không vì thế mà số người Thượng theo đạo Tin Lành giảm đi. Tại sao người Thượng theo đạo Tin Lành? Lý do cụ thể là họ tìm trong đạo này sự an ủi trong tâm hồn trong cuộc sống vật chất đầy vất vả và thiếu thốn, hơn nữa giáo lý của đạo Tin Lành cũng rất giản dị, chỉ cần kính Chúa yêu người là đủ. Lý do thầm kín là sự cảm phục gương phục vụ và hy sinh của những mục sư Tin Lành người Mỹ trước 1975 trong việc nâng cao mức sống của họ, khi theo đạo này số phận của họ không bị lãng quên. Trên nguyên tắc giáo lý của đạo Tin Lành không chống lại chủ nghĩa cộng sản nhưng trong thực tế chính quyền cộng sản Việt Nam rất e ngại thế lực của đạo Tin Lành, một tôn giáo mà họ chưa khống chế được. Chỉ mới gần đây, ngày 8-2-2001, chính quyền cộng sản mới chủ động tổ chức một đại hội đồng tổng liên hội Hội thánh Tin Lành tại miền Nam Việt Nam nhằm loại trừ những hệ phái độc lập mà họ không thể kiểm soát được như các "hội thánh tư gia" của người Thượng. Tin Lành là một tôn giáo có tổ chức và có hậu thuẫn quốc tế cao, nhất là hậu thuẫn của dư luận Hoa Kỳ và các chế độ dân chủ phương Tây, khống chế được thành phần lãnh đạo tôn giáo này gương mặt của chính quyền cộng sản Việt Nam sẽ sáng sủa hơn trước dư luận quốc tế. Ðối với cộng đồng người Thượng, những vị mục sư và những người phụng sự đạo Tin Lành là những lãnh tụ mới. Từ sau 1975 giai cấp lãnh đạo cộng đồng người Thượng đã gần như bị chính quyền cộng sản tiêu diệt. Những lãnh tụ FULRO một số đã chết, một số vẫn còn ngồi tù và một số khác đã trốn sang nước ngoài. Những lãnh tụ mới do đảng cộng sản dựng lên không được người Thượng kính trọng và sống tách rời với đồng hương của họ, trên thực tế họ chỉ có hư vị chứ không có thực quyền vì tất cả quyết định đều do cán bộ người Kinh định đoạt. Chính vì thế những cán bộ Thượng cộngđã không thể và không dám bênh vực quyền lợi của người Thượng trước sự lấn áp của người Kinh, phần lớn an phận với những quyền lợi vật chất nhỏ nhoi mà chếđộ ban cho, uy tín của họ rất thấp. Vai trò của lãnh tụ trong cộng đồng người Thượng rất quan trọng. Những người này vừa có kinh nghiệm sống vừa có kiến thức để hướng dẫn và bảo vệ cộng đồng. Ðó là những tộc trưởng, chủ làng trước kia; dưới thời Pháp thuộc là những trí thức, cán bộ được đào tạo theo Tây học; sau 1954 là những nhân sĩ, sĩ quan dưới chế độViệt Nam Cộng Hòa và sau 1975 là những tu sĩ Công Giáo và Tin Lành. Bắt giam và đánh đập hai ông Rahlan Pon và Rahlan Djan chăng khác nào đập phá và xúc phạm thần tượng của người Djarai. Cũng nên biết "Rahlan" là một trong mười họ lớn nhất của bộ tộc Djarai, đó là các họ Rchom, Ksor, Siu, R'ô, Rahlan, Rmah, Nay, Hieu, Kpa, Pui (tương đương với các họ Nguyễn Phúc hay Tôn Thất của Việt Nam). Trước kia nhiều lãnh tụ người Rhadé thuộc các họ lớn như Nié và Mlô hay Emé, Jdrong, Eban, Lo, Eman... bị bắt giam đều gây phẫn uất trong lòng người Rhadé dẫn đến chống đối chính quyền. Kính trọng những người lãnh đạo cộng đồng người Thượng là điều tối thiểu mà các quan chức lãnhđạo và dân chúng gốc Kinhđịa phương chưa hề ý thức. 2. Nguyên nhân cụ thể: Việc xuống đường phản đối việc bắt giam hai ông Rahlan Pon và Rahlan Djan tại huyện Chu Prong chỉ là lý cớ, nguyên do cụ thể là đời sống của người Thượng ngày càng xuống cấp, nếu không muốn nói đang trên bờ tuyệt chủng. Mức sống của người Thượng hiện nay quá thấp so với người Kinh, mặc dầu cũng đã rất thấp so với thế giới. Lợi tức bình quân đầu người của một người Thượng hiện nay chưa tới 50 USD/năm (toàn quốc là 370 USD/năm). Hàng năm sau mỗi cơn bão hay hạn hán, tỷ lệ người Thượng thiếu đói càng lên cao so với toàn quốc, nhiều dân làng Thượng phải vào rừng đào củ rừng, bắt côn trùng ăn cho đỡ đói. Nhiều nhóm Thượng ở dọc dãy Trường Sơn phía Tây các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên (người Pacô, Ktu, Bru, Djẻ Triêng, R'măm) sống trong cảnh thiếu đói và bệnh tật triền miên, nơi cư trú quá sâu và quá xa nên ít ai biếtđến, phẩm vật cứu trợ nhậnđược gần như không có. Từ sau 1975, nhất là từ 1986 trở đi khi chính quyền cộng sản Việt Nam thi hành kế hoạch sản xuất cà phê xuất khẩu, nhiều công ty quốc doanh cà phê chiếm nhiều vùng đất tốt trên Tây Nguyên để lập đồn điền. Người Kinh từ đồng bằng sông Hồng và người sắc tộc thượng du miền Bắc cũng được ồ ạt đưa vào Tây Nguyên phá rừng, khẩn hoang trồng và trồng cây cà phê. Ðất đai cổ truyền của những buôn làng Thượng teo lại theo số người lên Tây Nguyên lập nghiệp, những khu đất tốt dọc các trục lộ giao thông hay cạnh sông ngòi lần lượt lọt vào tay những người di dân mới đến, nhiều buôn làng Thượng được vào những chốn rừng sâu để tái định cư. Luật đất đai ban hành năm 1993 phá vỡ nếp sống cổ truyền và bần cùng hóa người Thượng vì mỗi hộ (nhà) bất kể số nhân khẩu chỉ được canh tác tối đa ba mẫu (3 hecta); với lối canh tác hiện nay (làm rẫy, năng suất rất thấp), mỗi gia đình Thượng không thể canh tác đủ ăn. Chỉ một số ít gia đình người Thượng hợp tác với chính quyền cộng sản địa phương có mức sống cao hơn đồng hương ở những nơi xa xôi, canh tác bắp và cà phê hay làm công nhân trong cácđồnđiều cà phê, nhưng vẫn còn rất thấp so với người Kinh trong vùng. Sau mười năm triệt để canh tác cà phê, từ 1996 trở đi Việt Nam trở thành quốc gia sản xuất cà phê Robusta (canephora) đứng hàng thứ năm trên thế giới với trên 210.000 tấn/năm (hay 3,5 triệu bao) và đứng hàng thứ hai về xuất khẩu cà phê Robusta sau Indonesia với 190.000 tấn/năm (gấp ba lần năm 1990). Cũng nên biết cà phê Robusta chiếm 25% thị trường cà phê quốc tế sau cà phê Arabica (75%). Lợi tức do ngành nghề mới này mang lại trong thập niên 1990 khá cao, đủ bù đắp cho việc không canh tác cây lương thực. Nhưng kể từ năm 1997 trở đi, thị trường cà phê quốc tế khựng lại, giá cà phê giảm liên tục cho tới ngày nay, lợi tức những người canh tác cây cà phê cũng giảm theo (giá một kí cà phê hột từ 20.000 đồng xuống còn 5.800 đồng, giảm hơn 70% trị giá). Ðể bù đắp sự thiếu hụt này, những người canh tác cà phê gốc Kinh tìm thêm đất mới để trồng cây lương thực, một phong trào khai hoang man dại liên tục diễn ra từ 1997 đến nay mà nạn nhân là những dân làng Thượng, bị lường gạt hay bị ép buộc phải nhường những vùng đất tốt cho những người khôn lanh hơn với hậu quả là nhiều buôn làng phải dời nơi cư trú cổ truyền vào những vùng đất kém màu mỡ hơn canh tác. Ðó là chưa kể những biện pháp của chính quyền trong việc xây dựng mà mở rộng đường sá, trưng thu một cách tùy tiện đất đai trong các buôn làng nơi những đoạn đường đi qua. Những số tiền khống lồ của chính quyền cộng sản đổ ra trên cao nguyên không nhắm nâng cao mức sống người mà để củng cố sự kiểm soát của nhà nước (xây dựng và tu bổ hệ thống giao thông) và vai trò của những công ty quốc doanh. chỉ Chỉ một vài nhóm Thượng lớn như Djarai, Rhadé và Bahnar mới đủ mạnh để chịu đựng sức ép này, những nhóm nhỏ hơn hoàn toàn bị động. Trước sự thua thiệt này, cộng đồng người Thượng chỉ còn trông đợi sự cứu tế của các tổ chức thiện nguyện nhân đạo và tôn giáo quốc tế để tồn tại, nhưng tất đã bị chính quyền cộng sản Việt Nam cản ngăn nên sự giúp đỡ rất là nhỏ giọt, đôi khi không đến tay người cần giúp đỡ mà lọt vào túi các quan chức địa phương. Sự chịu đựng của người đã tới mức báo động, những cuộc xuống đường phản đối hồi đầu thang 2-2001 chỉ là khởi điểm nếu không một giải pháp nào được tìm ra ngay tức thời, cụ thể là để cho các hội thiện nguyện quốc tế đến giúp đỡ và trả lại những vùngđất canh tác cổ truyền cho các buôn làng Thượng. Ngay cả cho dù chính quyền cộng sản có nhượng bộ trên hai điểm vừa nói, vấn đề người Thượng cũng chưa được giải quyết nếu không có một chính sách hội nhập đứng đắn, tôn trọng tiếng nói và chỗđứng của mỗi cộngđồng sắc tộc vào trong lòng dân tộc Việt Nam. 3. Nguyên nhân sâu xa: Hai nguyên nhân vừa kể chỉ là mặt nổi của một băng đảo, thực chất của vấn đề là danh dự của người Thượng đã bị xúc phạm nặng nề. Trong gần 50 năm cộng cư với người Kinh, từ 1954 đến nay, chưa một chính quyền Việt Nam nào tự ý tôn trọng sự hiện hữu và thực tâm giúp đỡ năng cao mức sống của người Thượng trên cao nguyên. Cộng đồng người Thượng luôn bị coi là những thứ dân hạng hai, bị khinh khi và chà đạp. Người Thượng đã sử dụng mọi biện pháp có thể sử dụng được, từ bạo lực đến đấu tranh chính trị ôn hòa, để tiếng nói và chỗ đứng của họ được tôn trọng. Họ đã nhậnđược gì? Một quyết tâmđàn áp của các chính quyền người Kinh. Do không muốn bị diệt vong, người Thượng phải tìm hậu thuẫn ở các thế lực phương Tây (Pháp và Mỹ) để được tồn tại và dưới áp lực của các cường quốc này cộng đồng người Thượng mới có một chỗ đứng vinh dự hơn. Thời vàng son này đã không dài lâu, chỉ được mười năm thì chấm dứt (từ 1965 đến 1975). Dưới chế độ cộng sản, đa số những lãnh tụ Thượng thuộc chính quyền miền Nam đều bị bắt giam, một số đã bị giết, những người còn lại phải trốn ra nước ngoài. Những lãnh tụ Thượng theo phe cộng sản, các lãnh tụ Y Bih Aleo (phó chủ tịch Mặt Trận Giải Phóng miền Nam) và Y Blok Êban (cựu chủ tịch ủy ban quan quản Buôn Ma Thuột tháng 3-1975), bất lực trước sự bạcđãi của cán bộ người Kinh, chấp nhận sống trong im lặng và bóng tối. Ðối với người Thượng, họ là những cư dân đầu tiên trên cao nguyên miền Trung, quyền làm chủ tự nhiên vùngđất này phải thuộc về họ. Sự bất mãn trước phong trào di dân người Kinh có lý do của nó, người Thượng ngày nay trở thành thiểu số và không có tiếng nói trên chính quê hương của họ, chỉ chiếm 31% dân số trên toàn cao nguyên miền Trung. Trước 1940, người Kinh chỉ chiếm 1% dân số trên cao nguyên, năm 1945 tăng lên 5%, năm 1954 là 15%, năm 1975 chiếm 32% và năm 2000 trở thànhđa số với hơn 4 triệu người (69% dân số trên tổng số 5,8 triệu dân). Sự áp đảo về số lượng cũng có thể chấp nhận được vì họ trở thành thiểu số, nhưng điều mà người Thượng không chịu đựng được là sự khinh miệt của người Kinh. Chỉ cần rảo mắt nhìn quanh người ta dễ dàng phát hiện sự coi thường người Thượng trong những quan hệ thường ngày bởi người Kinh. Trước các trạm bệnh xá, không bao giờ người Kinh chịu xếp hàng chung với người Thượng, trong các trường học trẻ em gốc Kinh không chơi chung với trẻ em gốc Thượng, trong chợ thương gia gốc Kinh không ngồi chung những nơi nào có người Thượng đứng bán hàng rong. Khi vào cơ quan xin cấp giấy tờ, sự khinh miệt của những viên chức nhà nước không cần che giấu, họ cười cợt và chế riễu qua ngôn ngữ về sự ngây ngô của dân làng Thượng. Số người Kinh thực sự quan tâm đến sự sinh tồn của người Thượng rất ít, tuyệt đại đa số là những tu sĩ Công Giáo, Tin Lành và Phật Giáo, số còn lại là những giáo viên và y sĩ trẻ. Tại sao người Thượng bị coi thường? Tại vì người Kinh không được thông tin và giáo dục về sự hiện hữu của các cộng đồng sắc tộc thiểu số một cách lương thiện. Người Thượng vẫn còn bị gọi là "man", là "mọi", hai ngôn từ cần bị xóa bỏ trong trí nhớ của dân tộc Việt. Ngay cả khi dùng danh xưng "người dân tộc" bởi chính quyền cộng sản, nội dung của cụm từ này trong tâm trí người Kinh vẫn là dân "man, mọi" nên cách cư xử đã rất lỗ mãn và bất kính. Cộng đồng người Thượng muốn tình trạng này phải chấm dứt càng sớm càng tốt, càng kéo dài lâu phản ứng của người Thượng rất khó lường trước. Có hai phản ứng: tiêu cực thì họ rút vào rừng sâu sống biệt lập với người Kinh để bị tuyệt chủng; tích cực họ sẽ dùng bạo lực để tiếng nói và chỗ đứng được tôn trọng. Nếu phản ứng thứ hai này được sử dụng, những cụm từ "đạiđoàn kết dân tộc" hay "dân tộc Việt Nam" mất hết nội dung, và hậu quả biết trước là một cộngđồng dân tộc yếu kém bị tiêu diệt, về văn hóa lẫn thể chất. Những biện pháp hiện nay của chính quyền cộng sản đang áp dụng sau biến cố đầu tháng 2-2001 trên cao nguyên cho thấy là họ chọn giải pháp bạo lực để dập tắt sự chống đối của người Thượng. Trên 18.000 bộ đội và công an đã được huy động để trấn ngữ các điểm trọng yếu trên cao nguyên, một biện pháp chưa bao giờ được áp dụng đối với người Kinh. Các ngỏ ra vào cao nguyên đều bị chặn xét, khu rừng quốc gia bảo tồn thiên nhiên Yok Ðôn bị cấm ra vào, nhiều tỉnh sát với cao nguyên bị đặt trong tình trạng báo động hay giới nghiêm. Tại Thái Bình, hơn 300.000 nông dân nổi lên chống lại chế độ nhưng chính quyền cộng sản không hề huy động một lực lượng võ trang đông đảo đến như thế để bao vây hay khống chế. Có thể hành động này là một quyết định đơn phương của nhóm bảo thủ hay phe quân đội để gây thanh thế trong việc tranh giành quyền lực trước đại hội 9 của đảng cộng sản, nhưng nó không giải thích sự nhất trí tuyệt đối trong toàn thể chính quyền, tất cả các phương tiện truyền thông và bộ ngoại giao đều loan tải những tin tức như nhau trước dư luận. Phải hiểu rằng đây là chính sách chung của nhà nước cộng sản Việt Nam. Ðã là người thiểu số thì phải im lặng trước người Kinh đa số,đó là quy luật từ trước đến nay của người Kinh. Sự bạc đãi người Thượng vào sắc tộc thiểu số tại Việt Nam phải chấm dứt, và chấm dứt ngay tức khắc. Trọng tâm chính của mọi chính quyền Việt Nam là suy nghĩ về một chính sách dân tộc đứng đắn để sự hội nhập của mỗi công vào quốc gia Việt Nam diễn ra một cách hài hòa và tốt đẹp nhất. B. Phác họa một chính sách dân tộc cho tương lai Trước khi hình thành một chính sách dân tộc khả thi, thiết tưởng cũng nên nhìn lại lịch sử Việt Nam, quá trình hình thành yếu tố Việt Nam. Nước Việt Nam tuy có một lịch sử dài nhưng lại là một quốc gia còn rất mới. Miền Trung chỉ mới hội nhập xong từ thế kỷ 17, miền Nam từ thế kỷ 18 và cao nguyên miền Trung từ đầu thế kỷ 20. Dân tộc Việt Nam đã tiếp nhận rất nhiều đóng góp mới về đất đai cũng như chủng tộc, tuy vậy tổ chức xã hội của Việt Nam lại không thích nghi với những thay đổi đó và vẫn được quan niệm một cách sai lầm như là đất nước của một cộng đồng duy nhất: cộng đồng người Kinh. Lịch sử của Việt Nam là lịch sử của người Kinh. Văn hóa của Việt Nam là văn hóa của người Kinh. Các quan niệm về đạo lý, xã hội, luật pháp đều dựa trên người Kinh và chỉ nhắm phục vụ người Kinh. Có lẽ là quá trình mở nước và giữ nước khó khăn của người Việt Nam đã không cho phép tổ tiên chúng ta dành nhiều thời giờ và phương tiện để suy nghĩ một cách nghiêm túc về một chính sách cộngđồng chung cho mọi người,đó là một thiếu sót lớn. Trong suốt dòng lịch sử, trừ một vài ngoại lệ ít ỏi, người Kinh hầu như chưa hề nhìn nhận một trách nhiệm nào đối với các sắc tộc ít người mà chỉ áp đặt khuôn mẫu tổ chức chính trị và văn hóa của mình, nếu cần bằng bạo lực. Tình trạng này nếu không được nhận định rõ rệt để kịp thời có chính sách thỏa đáng có thể dẫn tới những hậu quả rất tai hại, nhất là trong bối cảnh thế giới hiện nay và sắp tới. Nhiều quốc gia đang và sẽ còn phải khốn đốn vì những cuộc nổi dậy cuồng nhiệt của các sắc tộc ít người vùng lên đòi bản thể, trong đó có nước Việt Nam chúng ta. Nếu chúng ta không cảnh giác để cho tình trạng này xảy ra thì hai vùng rộng lớn củađất nước là thượng du miền Bắc và cao nguyên miền Trung có thể trở thành bất ổn và không phát triển được. Trước hết đất nước Việt Nam được nhìn nhận như là đất nước của các cộng đồng, mỗi cộng đồng đều phải được nhìn nhận và tôn trọng ngang nhau. Cộng đồng người Việt gốc Khmer đã sống từ ngàn xưa tại miền Nam, cộng đồng người Việt gốc Hoa đã góp công lớn khai mở ra miền Nam, cộng đồng người Thượng trên cao nguyên miền Trung phải được coi là những người Việt Nam trọn vẹn trước luật pháp cũng như trong tình cảm của mọi người. Quốc gia Việt Nam phải gạt bỏ hăn ý đồ đồng nhất hóa để mưu tìm đồng tiến trong dị biệt. Chúng ta phải khăng định rằng đất nước Việt Nam khôngđượcđịnh nghĩa bằng một chủng tộc mà bằng sự chấp nhận chia sẻ một tương lai chung. Tinh thần tôn trọng các cộng đồng cũng phải được mở rộng ra tới các cộng đồng tôn giáo, các cộng đồng tư tưởng, các cộng đồng nghề nghiệp và các cộng đồng không thành hình thái do nếp sống khác nhau của từng địa phương mà có. Các cộng đồng này phải được đảm bảo chỗ đứng và tiếng nói trong một định chế quốc gia với nhiều thẩm quyền. Kể từ ngày 30-4-1975 chúng ta lại có thêm một cộng đồng mới: cộng đồng người Việt hải ngoại. Những người Việt Nam này, Kinh cũng như Thượng, đã phải bỏ nước ra đi vì không thể chịu đựng những biện pháp hạ nhục, trù dập và phân biệt đối xử. Ðất nước Việt Nam phải mở rộng vòng tay và tấm lòng đối với họ. Họ phảiđược nhìn nhận quyền công dân tức khắc và trọn vẹn, cho họ cũng như cho con cái sinh ra tại nước ngoài. Bất cứ một nhà nước Việt Nam khôn ngoan nào cũng phải khuyến khích liên lạc giữa trong và ngoài nước, nhìn nhận cộng đồng Việt Nam hải ngoại. Trở về với người Thượng trên cao nguyên, phải loại bỏ ngay từ bây giờ tâm lý coi những người Thượng là kém mở mang. Thể lực và trí năng của họ không thua kém gì người Kinh nhưng vì không được các chính quyền Việt Nam chăm sóc và quan tâm đúng mức nên sự cách biệt giữa đồng bằng cao nguyên ngày thêm sâu rộng. Ðó là chưa kể tệ phân biệt đối xử đối với người thiểu số, nhóm nào chịu cúi đầu tuân phục thì được thưởng, nhóm nào bị tình nghi bất phục tùng thì trừng phạt. Chính sách phân biệt đối xử vừa thất nhân tâm vừa không mang lại hiệu quả mong muốn, thực dân Pháp đã từng áp dụng chính sách này và đã thất bại (năm 1945 gần như toàn bộ trí thức và hạ sĩ quan Thượng đã ngả theo phong trào Việt Minh). Chính quyền cộng sản Việt Nam ngày nay cũng đang tiếp tục áp dụng chính sách này, gây hiềm khích và chia rẽ vô ích giữa người Kinh và người Thượng, giữa người đồng bằng và người miền núi. Thật ra chính quyền cộng sản Việt Nam không có chính sách dân tộc nào, cái gọi là chính sách dân tộc của chính quyền cộng sản thật ra chỉ là những biện pháp củng cố biên giới, mang nặng tính quốc phòng, không thực sự mang lại lợi ích kinh tế, xã hội nào cho người thiểu số. Những cố gắng đã thực hiện trên các vùng cao nguyên thực ra chỉ nhằm củng cố chỗ đứng của chế độ và sau đó cho những người Kinh phục vụ chế độ, người thiểu số chăng đượcđược hưởng là bao. Phải nên biết là người Thượng là những con người tự do, yêu chuộng nếp sống tự do giữa thiên nhiên, một chính sách dân tộc cho tương lai phải tăng cường yếu tố tự do này chứ không phải để kềm chế nó. Về chính trị, ngày nay người Kinh đã chiếm đa số trên khắp lãnh thổ, giải pháp thành lập những vùng tự trị cho các sắc tộc không còn khả thi nữa, nhưng tản quyền sẽ cho phép các sắc tộc có tiếng nói đáng kể trong các chính quyền địa phương. Tản quyền khuyến khích các sinh hoạt chính của địa phương, đem dân chủ tới mọi mơi với mọi người, tránh được những thủ hành hành chánh rườm rà gây phức tạp cho sinh hoạt thường ngày, kích thích sinh hoạt văn hóa và báo chí địa phương, cho phép mỗi địa phương chọn lựa công thức sinh hoạt kinh tế phù hợp nhất đối với đặc tính của mỗi vùng và nhờ đó mà phát triển. Tản quyền cho phép những khuynh hướng thiểu số, các tôn giáo và các sắc tộc ít người có trọng lượng đáng kể tại những địa phương mà họ hiện diện đông đảo có diễn đàn và phương tiện bày tỏ, do đó làm dịu bớt những tâm trạng bất mãn và các ý đồ đòi ly khai hay tự trị. Muốn được vậy, xã hội Việt Nam phải được tổ chức theo chế độ đại nghị, lãnh thổ quốc gia được chia thành nhiều vùng, mỗi vùng phải có một trọng lượng dân số, diện tích đất đai, chức năng kinh tế, cơ sở hạ tầng và tài nguyên nhấtđịnhđể có thể tồn tại và không gây bất ổn trên phạm vi toàn quốc. Văn hóa, ngôn ngữ và tín ngưỡng của người thiểu số phải được coi là thành phần của văn hóa Việt Nam mà nhà nước có nhiệm vụ gìn giữ. Lịch sử Việt Nam cũng phải được xét lại và được coi như lịch sử của các sắc dân đã hợp lạiđể tạo thànhđất nước Việt Nam. Về kinh tế, mục tiêu dài hạn của bất cứ chính quyền Việt Nam nào là tách cao nguyên miền Trung ra khỏi chức năng nông lâm nghiệp để tập trung vào chức năng du lịch. Phong cảnh và khí hậu của các vùng cao nguyên rất thích hợp cho nhu cầu tìm nơi ngơi nghỉ và du lịch cho người đồng bằng, các công ty du lịch quốc tế đánh gia cao tiềm năng mang du khách tới các vùng cao nguyên tại Việt Nam du ngoạn. Ðất đai của các buôn làng bị chiếm hữu không có lý do chínhđáng phải hoàn lại cho người thiểu số. Việt Nam không thiếu đất nhưng không vì thế khuyến khích phong trào khai hoang man dại Ðó là những lý luận và phác họa sơ đăng cho một chính sách dân tộc, hay một chính sách phát triển cộng đồng, trong tương lai. Chính sách này rất cần thiết cho người Thượng đang sinh trú trên cao nguyên miền Trung vì tầm quan trọng và sự cấp bách của nó. Nhìn về cao nguyên miền Trung Cao nguyên miền Trung Việt Nam, còn gọi là Tây Nguyên, được sát nhập vào lãnh thổ Việt Nam hồi đầu thế kỷ 20, năm 1904, bởi chính quyền thuộc địa Pháp để tiện việc quản lý hành chánh. Ðây là một vùng đất rộng lớn, gồm toàn núi đồi và thảo nguyên, nằm ở phía Tây các tỉnh duyên hải miền Trung, nơi sinh trú của người Thượng, những nhóm dân cư bản địa đã có mặt từ lâu trên vùng đất này. Nếu cần một phác họa thô thiển, địa bàn sinh trú của người Thượng có hình một giọt nước, nhỏ nhọn phía trên và rộng tròn phía dưới. Nếu chỉ tính riêng bốn tỉnh cao nguyên (Kontum, Gia Lai, Ðắt Lắc và Lâm Ðồng), gọi là Tây Nguyên, tổng diện tích là 55.270 km2. Trong thực tế nơi cư trú của người Thượng trải dài trên một diên tích khá rộng, rộng trên 75.000 km2, vì phải tính thêm phần đất phía Tây các tỉnh duyên hải miền Trung như Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Ðịnh, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Phan Thiết, Bà Rịa và phầnđất phía Bắc các tỉnh Ðồng Nai, Tây Ninh và Sông Bé. Tổng số dân cư gốc Thượng hiện nay là 1,6 triệu người (2% dân số toàn quốc),được chia thành 19 nhóm Thượng thuộc hai hệ ngôn ngữ khác nhau: - Hệ Nam Ðảo (malayo-polynésien) gồm có người Djarai (401.500), Rhadé (231.000), Raglai (86.000) và Churu (12.500). - Hệ Nam á (môn-khmer) gồm có người Bahnar (170.000), Sedang (118.000), Hré (115.000), Djé Triêng (30.000), Cor (27.000), Brau (250), R'măm (250), Mnong (81.000), Stieng (41.000), Koho (112.500), Mạ (31.500), Ch'ro (18.000), Bru-Vân Kiều (48.000), Ta ễi (31.500) và K'tu (45.000). Mỗi nhóm sắc tộc tập cư trên một khu vực nhất định, sinh sống bằng nghề trồng lúa nước, lúa rẫy và cà phê theo lối định canh định cư, nhưng vẫn còn trên 40% dân số sinh sống bằng nghề làm rẫy theo lối du canh, du cư. Ngôn ngữ và văn hóa của người Thượng có những nét độc đáo riêng nhưng rất khác với ngôn ngữ và văn hóa của người Kinh, do đó rất ít người Kinh biết tới. Nói chung, sự hiện diện của người Thượng trong cộng đồng dân tộc Việt Nam còn rất mới và chính vì còn rất mới, chưa tới 50 năm (từ 1954 đến nay), nên rất xa lạ đối với người Việt, vấn đề là ở đó. Phần lớn người Thượng ngày nay đã định cư và định canh, chỉ còn khoảng 300.000 người vẫn còn duy trì nếp sống du canh du cư (theo số liệu của chính quyền Việt Nam), nhưng trong thực tế số người du canh du mục rất đông, có thể trên 500.000, vì số đất đai cạnh các trục lộ giao thông chính hay cựác nguồn nước lọt dần vào tay người Kinh. Từ sau 1976, đất công xã của các buôn làng đều bị tập thể hóa, các định chế mẫu hệ (nhà rông, nhà tập thể) bị giải tán. Các tòa án nhân dân thay thế các tòa án phong tục, đạo Tin Lành bị cấm rao giảng. Cán bộ đảng và nhà nước lấn át vai trò của các già làng, thanh thiếu niên Thượng tại những nơi đông dân bị đoàn thể hóa. Tiếng Việt là ngôn ngữ chính giảng dạy trong các trường học, tiếng mẹ đẻ cho trẻ em ở bậc tiểu học bị cấm. Tỷ lệ thất học trên Tây Nguyên rất cao, cao nhất nước, 60% trẻ em Thượng không đi đến trường vì thiếu ăn và nghèo khó. Số học sinh tốt nghiệp trung học và đại học rất ít (11% và 1%), đa số không tìm được việc làm phải trở về buôn làng canh tác nông nghiệp. Bệnh tật nhiệt đới (cùi, lao, kiết lỵ, sốt rét rừng...) là tác nhân gây tử vong cao trong cộng đồng người Thượng, nhất là trẻ em. Mọi trợ giúp nhân đạo bất cứ từ nguồn gốc nàođều bị canh chừng và thanh lọc gắt gao, các tổ chức thiện nguyện quốc tế và người ngoại quốc gần như khôngđược tiếp xúc trực tiếp với người Thượng, trừ một vài ngoại lệ, và phải qua trung gian các cơ quan của chính quyền. Tây Nguyên có từ 1,5 đến 1,8 triệu hécta đất trồng trọt được nhưng hiện nay chỉ khai thác trên 400.000 mẫu. Từ 1976 đến nay, chính quyền cộng sản đã đưa hơn ba triệu người từ các tỉnh đồng bằng sông Hồng và hơn 70.000 người thiểu số từ các tỉnh thượng du miền Bắc lên Tây Nguyên khai thác số đất đai còn lại. Tổng số dân cư trong bốn tỉnh Tây Nguyên khoảng 5,8 triệu người, trong đó ngoài số người Kinh đã có mặt từ trước 1975 (1,2 triệu), người Thượng trở thành thiểu số trên chính quê hương của họ, 30% trên tổng dân số 5,8 triệu người. Sự có mặt ồ ạt của di dân từ đồng bằng lên làm xáo trộn cân bằng sinh thái trên Tây Nguyên. Do đời sống nghèo khó và không được chính quyền giúp đỡ, sự hủy hoại môi trường sinh sống của những di dân mới này rất là báo động. Hơn hai triệu hécta đất rừng trên các vùng đồi núi biến thành đồi trọc, gây hạn hán mùa khô và lũ lụt mùa mưa. Diện tích rừng từ 3,3 triệu hécta năm 1976 giảm xuống còn 2,5 triệu năm 1984 và ngày nay chưa tới một triệu. Ðó là chưa kể nạn khai thác gỗ rừng bừa bãi của các công ty quân đội và công an biên phòng tại các vùng biên giới để xuất khẩu. Thêm vào đó là nạnđào tìm kim loại và đá quí bằng hóa chất gây ô nhiễm môi sinh, nhiều loại thú quí như cọp, khỉ, công và rắn lục bị tuyệt chủng. Tại sao phải đặc biệt quan tâm đến cao nguyên miền Trung? Vì đó là vùng đất giáp ranh với Lào và Kampuchea, có vị trí chiến lược cao về quốc phòng và du lịch. Bất cứ sự bất ổn nào xảy ra tại đều ảnh hưởng đến sinh hoạt của nhiều tỉnh tại đồng bằng, hạnh phúc người Thượng sinh sống tại đây chính vì vậy cần được quan tâm nhiều hơn nữa. Hết