Ông Cai Móm kể tới đây thì dừng lại.Chuyện mà ngày nay tôi thuật anh nghe môt. cách rành mạch văn hoa như thế, ông Cai đã kể vợ chồng tôi thưởng thức bằng một giọng oang oang cộc lốc, ông chỉ tả qua loa sắc đẹp của hai chị em nàng Oanh Cơ và lối đi hát ngày xưa thế nào.Nay nhân đêm khuya cao hứng, tôi đem hết cả những sự từng kinh nghiệm nghe biết, thêm vào cho câu chuyện có ý vị hoa hòe, anh cũng nên lượng thứ cho tôi nhé! Ông Cai Móm sở dĩ im bặt đi không nói nữa, vì xa xa, ông thoáng nghe có tiếng hổ gầm. Ông trầm ngâm lặng lẽ hồi lâu, chú ý lắng tai trong đêm vắng. Một lát, ông cúi sát lại gần tai tôi, nói nhỏ: -Thầy cô thử lắng nghe xem, có phải có tiếng hổ gầm chăng? Hổ gầm xong, lại vẳng nghe có tiếng đàn bà ca đứt quãng. Thầy cô cứ chú ý một lúc, sẽ nhận rõ ngay. Tôi vàLệ Thi hết sức chăm chú. Quả như lời ông Cai nói, chúng tôi nghe có tiếng "â â... ô ô u ô ô m m" vang động xa lắm ở trong rừng. Nhưng nghe chỉ có thế thôi, ngoài ra không còn tiếng gì nữa cả. Lắng tai mãi cũng thế, ngoài tiếng dế than trùng khóc, tiếng gió rít lá rơi, chẳng có tiếng hát xướng đàn ca gì cả. Chán nản, tôi bảo ông Cai: -Chúng tôi nghe chả thấy gì, chỉ có tiếng hổ gầm ở tận đâu đâu... Lắng mãi chán tai vô ích. Thôi ông kể nốt câu chuyện Oanh Cơ đi, nghe đang thú vị... Lệ Thi cũng nói theo: -Rồi sao thế nào nữa hả ông Cai? Ông vừa nói có tấn bi kịch, bi kịch ấy làm sao, ông tiếp đi! Ông Cai cầm cốc rượu nếp cẩm, uống nốt nữa phần còn sót lại. Ông vừa để cốc xuống, Lệ Thi vội vàng rót bồi thêm rượu rõ đầy. Ông Cai quen thói, khà một cái rất đắc ý, xong, liếm môi, ông nói tiếp: Hai nàng Huyền và Oanh Cơ có tiếng hát hay nhất xứ. Trong mấy cuộc hát đình, hát đám, nàng Huyền đã chiếm giải đến chín mười lần, vì có sức hát giọng tốt. Nàng Oanh hát hay hơn chị, song không sung sức, chỉ ca trong nhà được mà thôi, ra đình giọng bé quá, bị tiếng ồn ào át đi, không trổ tài được. Dù thế mặc dầu, các quan khách đã từng nghe được Oanh, thì không muốn nghe Huyền nữa. Như thế là một sự nhục nhã cho Huyền, thế mà nàng cũng không ghen tị với em, chỉ quý hóa kính phục em thêm mà thôi. Lúc nào có các Thượng Quang, công tử vời đến hát mừng, chị lại nhường cho em, mặc sức em trổ tài cùng quý khách. Nhưng hễ gặp quan viên tầm thường, không phải là người trí thức thế nào Huyền cũng tranh hát, cho em được nghỉ ngơi dưỡng sức dưỡng thần. Oanh Cơ rõ biết lòng chị như vậy, yêu chị như yêu mẹ, yêu anh như yêu cha, ở với chị một niềm kính nhường hiếu thảo. Tất cả hàng tỉnh, chẳng ai không nức nở khen tài khen đức của nàng Oanh. Phàm các tay thích từ phú thi văn, tất thế nào cũng mời cho được anh em Văn Quản về tận nhà để hát. Hoặc, nếu xa xôi quá khó vời về được, thì lại lần mò lên tận Bàn Thạch để nghe một lần cho biết. Cho nên Oanh Cơ nổi danh khắp cả một vùng Thanh Nghệ tiếng tăm đồn đại đi có nhẽ cả vùng Nam Ðịnh, Ninh Bình. Trong buổi sinh bình, cha mẹ nàng Huyền và Oanh đã được hân hạnh thừa tiếp Nho Quan tri phủ. Quan phủ xưa kia có nghe thân mẫu hai nàng hát và thân phụ hai nàng đàn. Sau một cuộc thẩm âm, quan phủ nhận biết ông kép già, đương kính cẩn nắn nót cung cầm để vừa lòng ngài, cũng là một nhà nho có tài thi phú, chỉ vì lỗi thời nên phiêu dạt nổi nênh... Sự tri ngộ ấy xui quan viên cùng kép hát dừng cuộc xướng ca để ngâm vịnh với nhau suốt sáng; trống dùi xếp xó những chỗ cho bút nghiên, rồi hai tay thâm nho cùng đọ sức với nhau trong một trường bút chiến thanh tao nhã.Rốt cuộc, quan phủ rất cảm phục tính tình cao siêu và văn tài lỗi lạc của ông kép; nên hai người kết tình bằng hữu. Sau đó quan phủ có tặng cho cha nàng Oanh một hòm trân châu để làm kỷ vật. Còn ông kép già tặng lại bạn một cây sáo ngọc của tổ tiên lưu lại ba đời. Rồi từ đó hai người không gặp lại nữa... Tuy hai nàng Huyền và Oanh có tiếng hát hay, song hàng tháng mới có một lần được gọi đến hát. Hát hàng tuần suốt ngày hay thâu đêm tới sáng khi tan cuộc chỉ thâu được độ ba quan tiền kẽm không đủ cung khách và chi tiêu. Thiên hạ có phải luôn luôn lúc nào cũng có cuộc vui mừng sung sướng để mượn dịp mà ca hát cả năm đâu! Bởi thế, cuộc sinh hoạt của ba anh em nàng không lấy gì làm sung túc. Ðã nhiều lần Văn Quản nghe nói ông bạn xưa của cha mình hiện là quan Thượng Thư Chí Sĩ Nho Quan, cũng đã dự định trẩy thăm quan Ðông Các một lần, một là để nối lại mối dây liên lạc bấy nay đứt quãng, hai là để mong có dịp được ngài nghĩ tình đề bạt hoặc cứu giúp cho ít nhiều. Nhưng ngày giờ thấm thoát, đường xá xa xôi, Quản chưa lúc nào rảnh việc nhà mà đi được. Muốn đi, ít ra cũng phải có tiền lộ phí, và có vốn để lại cho hai em sinh hoạt trong dăm tháng nửa năm. Bởi lẽ, anh ra đi, không có ai đàn cho hai em hát nữa, mà mượn một người kép lạ thì bất tiện chừng nào! Cũng vì thế Văn Quản đành nấn ná chưa đi, vì chưa nghĩ được kế gì hoàn hảo cả. Ðến nay nghe nhà quan Ðông Các có đại tiệc. Quản nhất định thu xếp, bán đồ đạc quý giá trong nhà còn lại, và nếu thiếu, thì vay mượn bà con ít nhiều. Ði kỳ này, tiện thể có mọi cuộc ca vũ, cho cả Huyền và Oanh Cơ đi cùng, khiến hai nàng có dịp trổ tài, ngõ hầu chiếm giải quán quân trong khi thi hát. Quản một mực trù tính như vậy, chỉ đợi thu xếp xong mọi việc là đi. Trong giáo phường, đã có nhiều bạn đồng nghiệp rủ nhau thành một đoàn đông lắm, cùng trỏ hướng Nho Quan thẳng tiếng, đi chen vào với bin sĩ đem lễ vật của quan phủ Thọ Xuân. Quản rất muốn theo bọn ấy cùng đi có bạn cho vui và cho đỡ lo tai nạn. Khốn nỗi khi họ khởi hành, anh ta chưa gom góp được đủ số tiền lộ phí; trong giáo phường ca nhi đi quá một nửa, ai cũng bo bo giữ lấy vốn riêng để chi dụng ở dọc đường. Hóa nên Quản phải dằn lòng chờ đợi. Ðợi đến bốn năm ngày mới bán các đồ bảo vật của cha để lại, và thu thập được dăm bảy quan tiền, có thể túc dụng được cho ba anh em trong cuộc Bắc trình. Nhân có tốp lính cơ ở Quảng Hóa cũng đem đồ mừng ra Ninh Bình, nếu kịp tới Ðò Lèn thì gặp họ; Quản bèn sắm sửa hành lý cẩn thận định ngày đưa hai em gái lên đường. Gần đến kỳ xuất hành, không may, Huyền Cơ lâm bệnh, nằm liệt tám chín hôm mới dậy được, chạy thầy thuốc hụt đi mất non một quan tiền. Khi Huyền khỏe mạnh, có thể xông pha mưa gió được thì tính ra đã chậm mất ngót nửa tháng trời. Có đi nhanh lắm may ra mới khỏi lỡ ngày đại hội ở dinh quan Ðông Các. Ba anh em tức tốc đeo nải quẩy gánh, vội vã lên đường, dẫu Huyền Cơ chưa lấy gì làm cứng cáp lắm. Ði suốt ngày, mỗi đêm chỉ nghỉ có vài giờ, cứ đầu trống canh tư là thức dậy đi rồi, thế mà cũng mất ba hôm mới đến Ðò Lèn, bởi vì hai chị em Oanh Cơ không quen đi bộ nên đi chậm quá. Tới Ðò Lèn, ba anh em vào quán nghỉ chân, đợi xem có đoàn lính tráng nào ra Bắc thì xin nhập bọn cho chắc chắn. Nhưng đợi đến hai ngày, chả thấy đoàn nào cả. Thì ra họ đã ra Nho Quan từ trước cả rồi. Hiện nay, chỉ còn độ ba hôm là tới ngày đại tiệc, không còn phường hát nào hay đội lính nào chưa khởi hành nữa, có đợi cũng vô ích mà thôi. Lác đác trên đường, chỉ có những tốp dăm ba người đi ra phía Bắc; hỏi ai cũng nói rằng họ đi quanh quẩn trong vùng mà không ra khỏi biên giới. Mãi sau cùng mới bắt gặp một nhóm bảy người cho biết rõ họ buôn gạo tải ra Bỉm Sơn, rồi mua chè ở Bỉm Sơn tải về bán ở các vùng tỉnh lỵ. Anh em Văn Quản buộc lòng phải theo họ; ra đến Bỉm Sơn họ đều rẽ về lối phố Cát, Thạch Thành, để mặc ba anh em trơ trọi lần mò đi về phía đèo Tam Ðiệp. Từ đây mới bắt đầu cuộc hành trình nguy nan và khó nhọc. Ba anh em sợ hãi không dám đi bạo, cứ phải chờ có ai ra đường ấy mới lủi thủi đi theo.May sao gặp được vài ba người thợ mộc, song họ chỉ đi đến Ðền Sòng mà thôi. Khỏi Ðền Sòng, lúc ấy mới thưa thớt người, không còn ai đi nữa. Vô kế khả thi, anh em nàng Oanh không biết làm sao cho tiện. Ðành lần mò vào tận trong đền xin ngủ trọ một đêm, rồi nhất định sáng mai vượt qua đèo Tam Ðiệp. Ði suốt ngày, ra công cố sức bước nhanh, thế nào cũng sẽ qua khỏi cái chỗ nguy hiểm ấy. Kẻ cướp thì không sợ mấy, vì anh em nghèo chẳng có gì, có lẽ họ chả thèm đếm xỉa đến; sự đáng sợ nhất, ấy chỉ là ông Cọp, hễ không may gặp phải, thì hết đường chạy trốn kêu van. Ba anh em cùng thành kính lên cửa đền, quỳ xuống lễ hết tất cả mọi linh vị thờ thánh Mẫu và các thần bộ hạ cùng các ông Hoàng bà Chúa. Khi đến trước thần tượng Bạch Hổ giữ đền, cả ba cùng khấn khứa rất lâu, cầu đức Bạch Hổ phù trì cho giữa buổi xông pha rừng núi, đừng xui xảy ra tai nạn hiểm nghèo nào. Cái đêm hôm ngủ trọ ở đền Sòn, ba anh em nhắm mắt làm sao cho nổi! Ðền làm ở giữa một nơi rừng sâu núi thẳm, chung quanh toàn là cảnh rùng rợn hoang vu, hễ cứ khuất bóng mặt trời là nghe muôn vàn tiếng kêu, tiếng hú, sợ đến sởn tóc gáy. Những ngày không có hội, thiếu gì loài mãnh thú ác đều qua lại né ngoài đền; thôi thì hùm beo, sói, gấy, bò tót, lợn lòi, chả còn thiếu giống gì đến quấy nhiễu nhân gian, bắt gà, bắt chó, giẫm nát cả ruộng lúa, nương khoai, đến sáng ra, vết chân in trên cỏ thấy rõ mồn một. Bước ra khỏi đền buổi tối trời, tức là tánh mệnh khó toàn vẹn lắm; có đi một lũ đông khi sáng sủa, họa chăng mớ có thể tránh khỏi hàm vuốt beo. Cả đêm chỉ nghe vượn hú, cú kêu, hòa với muôn vàn thứ tiếng khác nghe rất lạ; và, xé vừng không khí, trội hơn tất cả các thứ tiếng, một tiếng "à uộm" rung động cả rừng vang trong đêm tối, dội vào da thịt và xương sống mình một luồng khí lạnh, lạnh hơn hơi lạnh của mùa đông... Ðương lúc bâng khuâng lo ngại, trời sáng lúc nào không rõ. Ba anh em Văn Quản thấy có ánh bình minh mà vẫn chưa dám đi ra. Ðợi khi mặt trời đỏ chói cả vừng đông, bấy giờ mới quẩy gánh xách nải, giã từ ông bà đồng, lo lắng nần ngại đi lên, trông mé đèo Tam Ðiệp thẳng tiến. Từ Sòng Sơn tới Tam Ðiệp đi còn xa lắm, vả lại ngoằn ngèo khuất khúc chả biết theo hướng nào cho khỏi lạc. Chơ vơ một người anh hai đứa em gái ngơ ngác trên quãng đường rừng hoang vắng, không đánh bạo cố mà đi đến, cũng chả còn kế hoạch gì! Vả lại chung quanh mình, chẳng có ai để dò hỏi cho biết lối, thôi cứ đành nhắm mắt đưa chân, cúi đầu thành kính trước thần linh, rồi phó mặc tấm thấn cho số mệnh, muốn đến đâu thì đến. Ba anh em đi mãi, hết sức bước nhanh gấp bội, mong sao lên đến Ba Ðèo. Ðường hai bên toàn cây cối và lau sậy. Quản dắt tay Oanh, Oanh dắt tay Huyền im lặng theo gót nhau mà tiến. Ði mãi, đi mãi, hình như đã quá trưa rồi. Nhưng ô hay! Sao chưa thấy ải đèo gì cả? Chỉ toàn một màu ruộng thăm thẳm đường đá quanh co, chả thấy chốc nào lên núi xuống núi cả chỉ thấy ven núi mà thôi. Chết mất! Hay là đã lạc đường rồi. Văn Quản định thần suy nghĩ. Thôi, phải rồi!Có lẽ lúc ở đền Sòng ra độ chừng mươi dặm, có một chỗ rẽ, một bên về phía Ðông, một bên về phía Tây. Anh em đinh ninh rằng đi ra Nho Quan phải đi chếch theo hướng Tây, thành bây giờ mới tới chỗ này, tiếng mãi mà vẫn không thấy đâu là đèo Tam Ðiệp. Nhầm thật. Nhưng may còn sớm có thể bước đi lộn lại được, chiều sẽ về đến đền, sáng mai lại ra đi sớm. Cố đi ba ngày, may ra sẽ đến Nho Quan, cũng còn kịp! Vả chăng từ sáng đến giờ, không gặp sự gì rủi ro cả, cướp cũng không mà ác thú cũng không, có lẽ đức Thánh Mẫu đã thương hại phù trì cho đó. Bao giờ xong việc trở về, thế nào cũng sẽ vào đền lễ tạ Thánh Mẫu, không dám quên ơn ngài đã mở lòng từ bi mà săn sóc cho. Nghĩ vậy, Quản nhủ với hai em quay gót lại, đi ngược trở lại. Ði mãi, đến tận chiều, chân Huyền Cơ và Oanh Cơ sây sứt rớm cả máu. Nghoảnh nhìn tứ phí, nào thấy bóng dáng đền Sòng ở đâu, chỉ có ngàn nội xanh um, cây cỏ cao ngất trời, đường đi thì chỉ là một vệt lờ mờ giữ một bãi rậm rạp, hoang vu. Ba anh em lúc ấy lo ngại đến cực điểm cùng vừa đi vừa niệm Phật, mong sao ra khỏi bãi lau sậy để được thấy bóng đền Sòng. Ði giời lâu nữa, thì ra khỏi bụi lau, đến một khu đất rộng, cỏ không cao lắm, cây mọc cũng thưa, nhưng toàn là cây cổ thụ rườm rà xanh thắm, to đến vài người ôm. Chung quanh khu bình địa ấy, bốn bề là sườn đồi thoai thoải, rừng rú um tùm, ngày lau trắng xóa. Nghoảnh đầu tìm đường cũ vừa đi buổi sáng, chả biết nó ở tận đâu, kiếm bóng một ngôi đền hay một tòa nhà để nghỉ chân, tìm đến mỏi con mắt thì thôi, chớ chẳng có ngôi nào. Thực là rừng hoang cảnh vắng, chơ vơ ba kẻ lạ đường; không còn biết nương tựa vào đâu nữa. Giữa đám bông lau gió rung phơi phới, một đàn cò trắng từ đâu vỗ cánh bay về. Từng lớp một, chúng nó bay đến đấy hàng ngàn, hàng muôn, lượn vòng trên không kêu quang quác, lượn mãi rồi mới đậu xuống. Xem có vẻ tối, cũng đủ biết lúc đó đã về chiều. Quả vậy chỉ thoáng một chốc, màu trời thấy sẫm lại, chả bao lâu nữa tối bây giờ. Trong chốn thung lũng hẻm này, chung quanh đều là ngàn sâu, nội thẳm, ba anh em biết chạy đàng nào. Biết lấy chỗ nào nương thân cho khỏi sợ vuốt hùm móng báo. Một màu cỏ cao, cây rậm, thực là hết kế thoát thân. Oanh Cơ biết rằng khó lòng sống thoát đêm nay nghĩ thương anh chị và thương thân, nên oà lên khó. Huyền Cơ mủi lòng cũng khóc; Văn Quản không can đảm được nữa, ứa hai hàng nước mắt; song cố trấn tĩnh để lo tìm một kế trong trường hợp tối nguy này. Ðương khi than thở, cả ba anh em bỗng đâu nghe tiếng gọi, làm cho Oanh kinh sợ thất đảm, mặt tái mét đi, ngừng không khóc nữa, chỉ rú lên ôm lấy chị. Huyền cũng sợ hãi như Oanh, cả hai ôm chặt lấy nhau, tưởng đâu ma quỷ trong rừng thiêng hiện lên dọa nạt. Duy Văn Quản, tuy thấy rợn gáy rùng mình, mà vẫn cố giữ vẻ táo bạo, gọi to lên rằng: -Ai đó, xin làm phúc cứu anh em chúng tôi với. Quản vừa dứt lời, thì thấy ngay trên cây cổ thụ mọc giữa chỗ ba anh em ngồi nghỉ, một người tráng sĩ vạm vỡ nhảy xuống hỏi chào. Tráng sĩ nói: -Các ngài cao danh quí tính là gì? Ði đâu mà sa lạc vào đây? Văn Quản vội vàng đem họ tên và câu chuyện định trẩy ra Nho Quan thế nào nói một lượt cho tráng sĩ rõ. Tráng sĩ nghe xong lắc đầu: -Chết nỗi! Ðường đi Nho Quan phải theo hướng đông đi ra chợ Ghềnh, sao ông lại không biết! Ở đây là hạt Ðồng Giao, nhưng ở phía Tây, cách đền Sòng còn xa, phải theo lối khác mới tới được. Ðường nãy là đường xuyên sơn đi lên Mường lên Mán, kia mà. Thôi, ông trót lỡ đường rồi, thì phải ngụ tìm ở chốn này một đêm, mai tôi sẽ đưa giúp ông qua đèo Tam Ðiệp. Tôi quê ở vùng Nam Ðịnh, tên là Lê Trọng Việt, bình sinh chỉ thích nghề săn bắn mà thôi. Tôi vào đây săn báo và săn hươu, nên có làm một cái nhà sàn con trên cây này, định đêm nay nằm rình các ác thú đến thung lũng này uống nước thì sửa một mẻ. Vả nay gần ngày vọng, có trăng sáng, bắn sẽ thú lắm. Tráng sĩ nói đến đây ngừng lại ngửng đầu nhìn lên ngọn cây. Bỗng chàng hít hơi rõ mạnh, rồi nhăn trán lại có vẻ lo nghĩ. Chàng vội vàng bảo Văn Quản: Bây giờ tôi leo lên trước, thả dây xuống. Ông buộc chặt chẽ vào nách một cô em, tôi kéo lên xong lại thòng dây xuống cho cô khác lên. Sau cùng đến lượt ông. Nếu ông leo được thì, khi tôi đem hai cô lên cả trên cây rồi, ông nên trèo lên ngay đừng chậm trễ nhé! Mà khi thả dây xuống, ông cố làm cho lẹ tay một chút, xin ông nhớ kỹ đấy! Ðoạn tráng sĩ nhảy lên cây thoăn thoắt; chỉ một chốc đầu dây sa xuống đến gốc cây rồi. Quản và Huyền cùng đồng lòng để Oanh Cơ lên trước, bèn túm nhau lại buộc dây vào nách Oanh. Xong dặn Oanh nắm chặt lấy dây, không được thả. Vừa buộc cho Oanh xong, bỗng thấy một mùi hôi thúi ở đâu xông lên nằng nặc, rồi nghe tiếng một đàn chim khướu ríu rít kêu, bay đậu cả vào cây cổ thụ. Tráng sĩ đứng trên cây, ra sức kéo Oanh Cơ lên tận nhà sàn dựng ở gần ngọn. Oanh vừa sắp tới nơi, một quang cảnh bi đát, khủng khiếp và thê thảm bỗng hiện ra trước mắt nàng và tráng sĩ. Một con hổ vàng to, từ đâu biết, hình như ở rừng sậy, nhảy sổ lại phía gốc cây, giữa lúc xuất kỳ bất ý. Văn Quản và Huyền Cơ vừa buộc dây xong, đương ngước mắt nhìn theo Oanh Cơ không biết rằng có tai nạn ở ngay cạnh mình. Hổ xông lại chỉ trong nháy mắt, đã thấy dưới gốc cổ thụ có hai xác người đương giãy giụa máu me đầm đìa. Oanh vừa leo được lên sàn, thấy anh chị bị hại thảm thiết đau đớn quá, lòng như bị xé tan, bào rách; nàng kêu lên một tiếng rồi ngã gục, suýt nữa rơi từ trên cao xuống. Tráng sĩ lúc bấy giờ tay chân luống cuống vì Oanh, không có thì giờ lấy đao lấy nỏ. May sao dây buộc Oanh Cơ còn vướng ở người nàng, nên nàng không bị rớt, tráng sĩ vội vực nàng vào sàn nứa, rồi mới đem ra ba ngọn phi tiêu đứng trên cây ném xuống. Hổ đang ngoạm đùi Văn Quản, bị một mủi phi tiêu ném trúng cổ, một mũi nữa trúng sườn, đau quá, vùng gầm lên một tiếng, bỏ mồi chạy mất. Tráng sĩ phóng theo một mũi tên cắm vào đít hổ, hổ nhảy cao, biến mất vào bụi sậy.