ôi hứa, - tôi nói, nhưng giọng tôi có vẻ giả tạo thế nào đó, như khi ta nghe thu băng giọng nói của chính mình vậy. - Tôi muốn nghe ông nói điều này: rằng ông sẽ không rọi ánh sáng đó lên tôi. - Tôi sẽ không rọi ánh sáng đó lên cô, tôi hứa. - Ông có hứa thật không? Ông nói thật với tôi chứ? - Tôi nói thật với cô mà. Tôi không nuốt lời hứa đâu. - Thế thì tôi chỉ muốn là, nếu ông không phiền, xin hãy rót hai ly whisky có đá rồi mang vào đây. Nhớ cho nhiều đá nhé. Cô ta nói bằng giọng ngọng ngịu chả chớt nghe như trẻ con, mặc dù giọng nói thuộc về một phụ nữ trưởng thành, nhạy cảm. Tôi đặt cây đèn pin xuống bàn theo chiều dọc, rồi đi pha whisky. Tôi cho đá vào hai ly rồi rót whisky lên. Tôi phải hình dung rõ ràng tường tận trong đầu về từng động tác mà hai bàn tay tôi đang làm. Những bóng đen lớn chập chờn trên tường theo từng cử động của tay tôi. Tôi đi vào phòng trong, tay phải cầm hai ly whisky, tay trái cầm đèn pin rọi lên sàn để soi đường. Không khí có vẻ lạnh hơn trước. Hẳn là khi tháo chạy trong bóng tối tôi đã vã mồ hôi khắp người mà không biết, giờ mồ hôi ráo đi mới thấy lạnh. Tôi nhớ mình đã cởi áo khoác bỏ lại trên đường chạy. Như đã hứa, tôi tắt đèn nhét vào túi quần. Rồi tôi mò mẫm đặt một ly whisky lên bàn, đoạn cầm ly còn lại đến ngồi ở chiếc ghế có tay dựa bên cạnh giường. Tối như mực, nhưng tôi vẫn nhớ cách bố trí đồ đạc trong phòng. Tôi như nghe tiếng những tấm ga trải giường cọ vào nhau sột soạt. Cô ta đang nhổm dậy trên đệm, tựa lưng vào tấm ván đầu đệm, ly rượu cầm trong tay. Cô ta khẽ lắc ly, khuấy đá rồi nhấp một ngụm whisky. Trong bóng tối, tất cả những âm thanh đó nghe như tiếng động nền trong một vở kịch truyền thanh. Tôi ngửi mùi thơm rượu whisky trong tay, nhưng không uống. - Lâu lắm rồi mới gặp nhau nhỉ, - tôi nói. Giọng tôi giờ nghe có vẻ đúng là giọng tôi hơn ban nãy. - Thế kia à? - cô ta nói. - Em không hiểu nói vậy là sao, "lâu" hay "lâu lắm"? - Theo tôi nhớ thì chính xác là một năm và năm tháng, - tôi nói. - Ừ thì thế, - cô ta đáp, vẻ thờ ơ. - Em không nhớ chính xác. Tôi đặt ly của mình xuống sàn rồi bắt tréo chân. - Lần trước tôi đến đây thì cô không có mặt phải không? - Đương nhiên là em có mặt. Ngay ở đây. Trên giường. Em luôn luôn ở đây mà. - Nhưng tôi biết chắc là lần đó tôi vào Phòng 208. Đây là Phòng 208 đấy chứ? Cô xoay xoay viên đá trong ly rồi vừa nói vừa cười: - Em thì em biết chắc là anh không biết chắc. Lần trước anh vào Phòng 208 khác, cái đó thì chắc chắn. Có cái gì đó bất an trong giọng cô ta khiến tôi bứt rứt khó chịu. Có lẽ rượu tác động đến cô ta chăng. Tôi tháo mũ len đặt lên đầu gối. Tôi bảo cô ta: - Điện thoại không gọi được mà, cô biết đấy. - Vâng, em biết, - cô ta nói, giọng có vẻ cam chịu. - Người ta cắt rồi. Người ta biết em rất hay gọi điện thoại mà. - Họ là những người đang giữ cô ở đây phải không? - Nói thế nào nhỉ. Em chả biết nữa. - Cô ta vừa nói vừa cười khẽ. Không khí xáo động làm nụ cười cô run lên. Quay mặt về phía cô, tôi nói: - Tôi nghĩ mãi về cô suốt bấy lâu nay. Ngay từ lần đầu tôi đến đây. Nghĩ về việc cô là ai, cô làm gì ở đây. - Nghe thú nhỉ, - cô nói. - Tôi đã tưởng tượng ra đủ thứ khả năng, nhưng chưa thể chắc điều gì cả. Tôi chỉ mới ở giai đoạn tưởng tượng thôi. - Được rồi, được rồi, - cô nói, như thể cảm kích. - Vậy là anh chưa thể chắc điều gì cả, anh vẫn đang ở giai đoạn tưởng tượng. - Đúng vậy, - tôi nói. - Mà tôi cũng có thể nói thế này nữa: tôi nghĩ em là Kumiko. Ban đầu tôi chưa nhận ra, nhưng giờ thì tôi càng lúc càng tin chắc thế. - Ồ, anh tin chắc thế à? - Cô im lặng một chút rồi nói, có vẻ thích thú. - Vậy em là Kumiko? Trong một khoảnh khắc tôi mất hết cảm giác về phương hướng, như thể tất cả những gì tôi đang làm đều trái khoáy: tôi đã đến nhầm nơi, nói nhầm lời với nhầm người. Chỉ tổ mất thì giờ, một con đường vòng vô nghĩa. Nhưng tôi cố giữ thẳng người trong bóng tối. Tôi bấu chặt cả hai tay vào chiếc mũ đặt trên lòng mình như để kiểm tra tính xác thực. - Phải, tôi nghĩ em là Kumiko. Bởi vì mọi chuyện đều từ đó mà ra cả. Em đã từ đây mà gọi điện thoại cho tôi không biết bao nhiêu lần. Em cố truyền đạt cho tôi một thông điệp bí mật nào đó. Một bí mật về Kumiko. Một bí mật mà Kumiko thật trong đời thực không đủ sức nói cho tôi biết. Thế nên em phải làm việc đó thay cô ấy, bằng những lời như một thứ ám hiệu. Cô ta không nói gì một lát. Cô nâng ly lên nhấp một ngụm whisky nữa, rồi bảo: - Em không biết. Nhưng nếu anh đã nghĩ vậy thì chắc là đúng. Có thể em đúng là Kumiko thật. Nhưng em không chắc lắm. Thành thử... nếu quả thật... em đúng là Kumiko thực... thì hẳn em có thể nói với anh bằng giọng của Kumiko... Đúng không? Nếu vậy thì sẽ hơi rối một chút. Không sao chứ? - Không sao cả, - tôi nói. Lại một lần nữa, giọng tôi như mất đi phần nào bình tĩnh và một cảm thức về thực tại. Cô hắng giọng trong bóng tối. - Thì đây, thử xem. Em không biết liệu có được không. - Cô lại bật cười khẽ. - Có dễ đâu mà. Anh có vội không? Anh nán lại ở đây một chút được không? - Tôi không biết nữa, - tôi nói. - Đợi một chút thôi. Xin lỗi. E hèm... Em xong ngay đây, bây giờ thôi. Tôi đợi. - Vậy là, anh đến đây để tìm em. Anh muốn gặp em, phải không? - giọng nghiêm trang của Kumiko vang lên trong bóng tối. Đã lâu, từ buổi sáng mùa hè kia, khi tôi kéo khóa áo cho Kumiko, tôi không được nghe giọng nói của nàng. Lúc ấy nàng xức một thứ nước hoa mới ở sau tai, nước hoa của kẻ nào khác tặng. Hôm ấy nàng bỏ nhà đi và không bao giờ trở về. Dù cái giọng vang lên trong bóng tối kia là giọng thực hay giọng giả, nó đưa tôi quay lại buổi sáng đó trong một khoảnh khắc. Tôi ngửi thấy được mùi nước hoa, thấy được làn da trắng của lưng Kumiko. Khoảnh khắc đó đặc sệt và nặng trĩu trong bóng tối - có lẽ đặc và nặng hơn là trong thực tại. Tôi siết chặt chiếc mũ trong hai bàn tay. - Nói đúng ra, anh không đến đây để gặp em. Anh đến là để đưa em về, - tôi nói. Cô khẽ thở dài trong bóng tối. - Sao anh lại tha thiết muốn đưa em về như vậy chứ? - Bởi vì anh yêu em, - tôi nói. - Và anh biết em cũng yêu anh, em cần anh. - Anh có vẻ tự tin quá nhỉ, - Kumiko - hay giọng của Kumiko - nói. Không có vẻ gì là chế giễu trong giọng của nàng. Nhưng trong giọng đó cũng chẳng có gì là ấm áp. Tôi nghe thấy tiếng những viên nước đá trong phòng bên đổi chỗ cho nhau. - Nhưng muốn đưa được em về, anh còn phải giải một vài câu đố, - tôi nói. - Bây giờ mới bắt đầu thì liệu có hơi muộn không? Em sợ anh không có nhiều thời gian lắm đâu. Nàng nói đúng. Thời gian không còn nhiều mà lại có quá nhiều thứ cần phải nghĩ. Tôi lấy lưng bàn tay lau mồ hôi đọng trên lông mày. Đây có lẽ là cơ hội cuối cùng của tôi, tôi tự nhủ. Tôi cần phải nghĩ. - Anh cần em giúp, - tôi nói. - Giúp thế nào? - Giọng Kumiko hỏi. - Vị tất em đã giúp anh được. Nhưng em sẽ cố. - Câu hỏi đầu tiên là tại sao em bỏ anh. Anh muốn biết lý do thật. Anh biết trong thư em nói gì - rằng em đã dan díu với người khác. Dĩ nhiên anh đã đọc thư. Đọc đi đọc lại, đọc mãi. Thật ra nó cũng giải thích được một phần nào đó. Nhưng anh không tin ấy là lý do thật. Nghe nó không thật lắm. Anh không bảo đó là nói dối, nhưng anh không khỏi cảm thấy đó chẳng qua chỉ là một thứ ẩn dụ thôi. - Ẩn dụ?! - Nghe giọng cô ta thật sự sửng sốt. - Em không hiểu... Nếu ngủ với người đàn ông là ẩn dụ cho một cái gì đó thì em muốn biết đó là cái gì? - Ý anh muốn nói là anh cảm thấy giải thích như thế chỉ để mà giải thích thôi. Nó chẳng dẫn tới đâu hết. Nó chỉ lướt trên bề mặt. Càng đọc thư em, anh càng cảm thấy thế. Chắc hẳn phải có một lý do nào khác cơ bản hơn - thật hơn. Mà lý do đó nhất định là có liên quan đến Wataya Noboru. Tôi cảm thấy cặp mắt nàng nhìn chằm chằm vào tôi trong bóng tối và chợt nghĩ, biết đâu nàng có thể nhìn thấy tôi. soát mới còn hữu hiệu hơn. Những tính toán của hắn chính xác một cách lạnh tanh và ác quỷ. Quả là hắn đã chấm dứt tình trạng bạo lực tự phát và vô nghĩa mà chúng tôi phải chịu, nhưng thay vào đó hắn tạo ra một thứ bạo lực mới được tính toán lạnh lùng. Sáu tháng sau, củng cố xong cơ cấu kiểm soát của mình, hắn bèn chuyển hướng, bắt đầu gây áp lực lên chúng tôi. Nạn nhân đầu tiên của hắn là thành viên quan trọng nhất của ủy ban - viên đại tá. Ông đã mấy lần thay mặt tù binh Nhật đối đầu trực diện với Boris về một số vụ việc, hậu quả là ông bị thanh toán. Cho tới khi đó chỉ còn ông và vài người nữa trong ủy ban là không phục tùng Boris. Một đêm nọ chúng đè ông xuống, siết khăn mặt ướt lên mặt ông cho đến khi ông tắc thở chết. Dĩ nhiên đó là theo lệnh của Boris, nhưng hắn chẳng bao giờ nhúng vào cho bẩn tay trong trường hợp giết người Nhật. Hắn chỉ việc ra lệnh cho ủy ban, để chính người Nhật làm việc đó. Cái chết của viên đại tá được ghi là chết vì bệnh. Bọn chúng tôi ai cũng biết kẻ đã giết ông, nhưng chẳng ai dám nói. Chúng tôi biết nội bộ mình có tay trong của Boris, thành thử khi có mặt người khác thì phải giữ mồm giữ miệng. Sau khi đại tá bị ám sát, ủy ban liền bầu cho một ứng viên do chính Boris chọn làm chủ tịch thay ông. Ngay sau khi có sự thay người trong ủy ban, môi trường làm việc của tù binh Nhật ngày càng xấu đi, cho đến khi trở thành tồi tệ chưa từng thấy. Để đổi lại quyền tự trị, chúng tôi đã có thỏa thuận với Boris về chỉ tiêu sản xuất, ấy thế là chỉ tiêu ngày một nặng nề. Chỉ tiêu không ngừng tăng lên vì cớ này hay cớ khác, cho tới khi công việc trở nên nặng nhọc hơn bao giờ hết. Số tai nạn cũng gia tăng, nhiều người lính Nhật phải bỏ xương nơi đất lạ quê người, nạn nhân của tình trạng khai thác mỏ vô tội vạ. "Tự trị" chỉ có nghĩa là người Nhật giờ tự giám sát lấy công việc của mình thay cho người Nga như trước kia. Dĩ nhiên, các tù binh ngày một bất mãn. Trại chúng tôi trước kia là một xã hội nho nhỏ nơi chúng tôi chia đều nhau phần lao khổ, nay chỉ còn là sự bất công, rồi cùng với nó là thù hận và nghi kỵ sâu sắc. Những ai phục vụ Boris thì được giao việc nhẹ nhàng hơn, được đặc quyền đặc lợi, những ai không làm cho hắn thì phải chịu cảnh sống thê thảm - ấy là nếu còn được phép sống. Không ai dám mở mồm kêu ca, bởi vì phản đối công khai có nghĩa là chết. Người ta có thể bị ném vào một cái nhà hoang lạnh buốt để chết vì đói rét, hoặc bị siết khăn tắm ướt lên mặt khi đang ngủ, hoặc bị một cái cuốc chim bổ toác sọ từ đằng sau trong khi làm việc ở mỏ, hay bị ném xuống đáy hầm lò. Dưới mỏ tối om, ai biết chuyện gì đang xảy ra? Người ta biến mất, đơn giản là thế. Tôi không khỏi cảm thấy mình có lỗi trong việc làm trung gian cho Boris và đại tá gặp nhau. Dĩ nhiên, dù tôi không dính tới thì thể nào Boris cũng sẽ chui được vào giữa chúng tôi bằng cách này hay cách khác, không sớm thì muộn, hậu quả vẫn y như vậy. Nhưng ý nghĩ đó không làm nguôi được nỗi đau của tôi. Tôi đã phạm một sai lầm khủng khiếp. Một hôm tôi được gọi đến tòa nhà nơi Boris dùng làm văn phòng. Đã lâu lắm tôi không gặp hắn. Hắn ngồi uống trà nơi bàn, giống như lần tôi gặp hắn ở phòng trưởng ga. Đứng nghiêm đằng sau hắn là Thằng Tác-ta, bên hông đeo một khẩu súng lục to nòng. Khi tôi vào phòng, Boris ngoái lại tên Mông Cổ, ra hiệu bảo hắn đi ra ngoài. Chỉ còn lại Boris và tôi. - Thế nào hở Trung úy Mamiya? Anh thấy đó, tôi đã giữ lời hứa. Đúng là hắn đã giữ lời, tôi đáp. Bất hạnh thay, hắn nói đúng. Mọi điều đã hứa với tôi, hắn đều thực hiện. Tôi như đã ký một giao kèo với quỷ dữ. - Các anh được quyền tự trị, tôi thì được quyền lực, - hắn vừa nói vừa cười, hai tay giang rộng. - Cả hai ta muốn gì là được nấy. Sản lượng than tăng, ở thủ đô người ta hài lòng. Còn đòi gì hơn nữa? Tôi rất biết ơn anh đã làm người môi giới cho tôi, nên giờ tôi muốn làm gì đó để trả ơn anh. - Không cần phải thế đâu, - tôi đáp. - Anh không cần phải xa cách như vậy, Trung úy ạ. Hai ta trở lại vấn đề nhé. Tôi muốn anh làm việc ở đây với tôi. Tôi muốn anh làm trợ lý cho tôi. Đáng tiếc là chốn này quá thiếu những người có khả năng nghĩ bằng cái đầu. Anh có thể thiếu một bàn tay, nhưng bù lại trí óc anh thừa sắc bén. Nếu anh làm thư ký cho tôi, tôi sẽ biết ơn lắm; tôi sẽ làm tất cả những gì có thể để bảo đảm cho anh thấy dễ chịu ở đây. Chừng đó thì nhất định anh sẽ sống, có khi còn được trở về Nhật nữa. Cứ thân cận với tôi đi, chỉ có lợi cho anh thôi. Bình thường thì tôi sẽ cự tuyệt thẳng thừng một đề nghị như vậy. Tôi không có ý định làm hầu cận cho Boris, bán rẻ anh em đồng bào để mong yên ổn cái thân mình. Mà nếu khước từ thì hắn sẽ giết tôi, vậy cũng tốt. Nhưng ngay lúc hắn đưa ra đề nghị, một kế hoạch chợt hình thành trong đầu tôi. - Ông muốn tôi làm những việc gì? - Tôi hỏi. Công việc mà Boris muốn tôi làm không phải là dễ dàng. Số lượng các sự vụ mà tôi cần đảm nhiệm vô cùng lớn, trong đó quan trọng nhất là quản lý tài sản riêng của Boris. Boris thường xuyên ém lại chừng bốn mươi phần trăm số thực phẩm, quần áo, thuốc men mà Mátxcơva và Hội Chữ thập đỏ Quốc tế gửi tới trại, cất vào kho bí mật rồi bán cho con buôn. Hắn cũng thường hay bán cả một đoàn xe lửa chở than ra chợ đen. Nhiên liệu thiếu trầm trọng, có bao nhiêu cũng không đủ. Hắn đút lót các công nhân đường sắt và trưởng ga để họ cho hắn tùy ý bố trí các đoàn tàu, nhớ đó hắn tha hồ vớ bẫm. Đám lính canh gác nhà ga được đắm mõm thức ăn và tiền nên nhắm mắt làm ngơ mọi chuyện. Nhờ những phương thức "kinh doanh" đó mà Boris đã tích cóp được một tài sản kếch xù. Hắn giải thích với tôi rằng tiền đó thật ra là để làm vốn hoạt động cho cảnh sát mật. "Hoạt động của chúng tôi", như hắn gọi, đòi hỏi chi những khoản rất lớn mà lại không thể ghi vào chứng từ hợp pháp, nên ở đây hắn phải làm nhiệm vụ "huy động" các quỹ bí mật kia. Nhưng đó là dối trá. Có thể một phần tiền được gửi về Mátxcơva thật, nhưng tôi tin chắc rằng hơn một nửa số tiền kia lọt vào túi riêng của Boris. Theo tôi biết, chỗ tiền đó hắn gửi nhà băng nước ngoài hay dùng để mua vàng. Vì lý do khó hiểu nào đó, Boris hoàn toàn tin cậy tôi. Hình như hắn chưa bao giờ nảy ra ý nghĩ rằng, tôi có thể tiết lộ những bí mật của hắn cho người ngoài, điều đó giờ đây tôi cảm thấy thật lạ. Hắn luôn luôn cực kỳ đa nghi đối với người Nga và những người da trắng khác, nhưng với người Mông Cổ và người Nhật thì hắn lại tuyệt đối tín nhiệm. Có lẽ hắn cho rằng tôi không thể hại gì hắn được dù tôi có hở ra về bí mật của hắn. Trước hết, tôi hở ra với ai mới được chứ? Quanh tôi toàn những kẻ cộng tác với hắn hoặc tay chân hắn, mỗi người đều được hưởng một phần con con trong khoản lợi nhuận khổng lồ của Boris. Còn những kẻ duy nhất đang khổ sở và chết dần mòn vì Boris đem bán những thức ăn, quần áo, thuốc men mà lẽ ra họ được hưởng để mưu lợi cho riêng hắn, thảy đều là đám tù bất lực trong trại. Hơn nữa, mọi thư từ đều bị kiểm duyệt, mọi tiếp xúc với người ngoài đều bị cấm. Thế là tôi trở thành thư ký riêng của Boris, một thư ký riêng năng nổ, trung thành. Tôi cải tiến lại hoàn toàn hệ thống sổ kế toán và theo dõi hàng tồn của hắn mà xưa nay là cả một mớ bòng bong. Tôi tiến hành hệ thống hóa và làm rõ luồng chu chuyển hàng hóa, vòng quay tiền mặt. Tôi tạo những cuốn sổ riêng biệt mà chỉ cần liếc vào là có thể biết ngay số lượng, vị trí của bất cứ món hàng nào, giá cả đang dao động ra sao. Tôi lập một danh sách dài những người nhận hối lộ và những "phí tổn cần thiết" cho mỗi người. Tôi làm quần quật cho Boris từ sáng đến tối, hậu quả là tôi mất hết dăm người bạn ít ỏi mà tôi có. Người ta nghĩ về tôi (không thể nào không nghĩ) như một tên đê tiện đáng khinh đã bán mình làm kẻ liếm gót trung thành cho Boris. Và buồn thay, hẳn là mãi đến giờ họ vẫn còn nghĩ về tôi như vậy. Nikolai không nói năng gì với tôi nữa. Hai ba tù binh Nhật mà tôi vẫn chơi thân, nay hễ thấy tôi đến là ngoảnh đi nơi khác. Mặt khác, lại có những kẻ cố làm thân vì thấy tôi đã thành người thân tín của Boris, nhưng tôi không muốn dính dáng gì tới bọn họ. Thế là tôi trở thành kẻ bị cô lập trong trại. Người ta không giết tôi chỉ vì đằng sau tôi có Boris. Kẻ nào dám ám sát vật sở hữu quý nhất của Boris mà lại yên thân được. Ai cũng biết Boris tàn bạo đến mức nào; tiếng tăm "lột da" của hắn đạt đến tầm cỡ huyền thoại ngay cả ở đây. Tôi càng bị cô lập thì Boris càng tín nhiệm tôi hơn. Hắn hài lòng với thói quen làm việc hữu hiệu và có hệ thống của tôi, và về lời khen thì hắn rất hào phóng. - Trung úy Mamiya ạ, anh cừ lắm. Chừng nào nước Nhật còn có những người như anh, thì Nhật Bản chắc chắn sẽ phục hồi được sau cơn hỗn loạn thời hậu chiến. Nước tôi thì vô vọng rồi. Có khi thời Sa hoàng còn khá hơn. Ít nhất là Sa hoàng không phải nát óc vì một mớ lý thuyết. Lenin hiểu được dăm ba thứ từ lý thuyết của Marx rồi cứ thế áp dụng sao cho được việc mình, Stalin hiểu dăm ba thứ (có được bao lâu đâu) từ lý thuyết của Lenin rồi cứ thế áp dụng sao cho được việc ông ta. Trí óc càng hạn hẹp thì người ta lại càng có nhiều quyền lc; hỏi. - Đúng. Tôi chỉ xâu chuỗi vài ý nghĩ lại với nhau thôi, - tôi nói. - Tôi chẳng có cách nào chứng minh được. Tôi không có cơ sở nào để bảo rằng những gì tôi vừa nói là đúng. - Dẫu sao tôi vẫn muốn nghe phần còn lại, nếu như ông vẫn còn gì để nói thêm. Tôi quay lại phòng trong đặt ly rượu lên bàn ngủ. Đoạn tôi tắt đèn pin và trở lại ngồi xuống ghế. Tôi tập trung chú ý kể tiếp câu chuyện của mình. - Em không biết đích xác chuyện gì đã xảy ra cho chị gái em, trừ mỗi việc chị ấy đã cảnh báo cho em một điều gì trước khi chị mất. Khi đó em còn quá nhỏ lên chưa hiểu được cảnh báo có ý nghĩa gì. Nhưng em vẫn thấy được dù một cách lờ mờ. Em biết rằng Wataya Noboru đã làm chị em bị ô uế và tổn thương bằng cách nào đó. Và em cảm thấy trong huyết quản mình có một thứ bí mật đen tối, một cái gì đó mà em không thể nào tránh được. Thế nên, trong ngôi nhà ấy, em đã luôn luôn cô độc, luôn luôn căng thẳng, phải đấu tranh với nỗi bất an âm ỉ không thể xác định là gì, như một trong những con sứa mà chúng ta đã thấy ở công viên thủy sinh. Sau khi em tốt nghiệp đại học, và sau bao nhiêu rắc rối với gia đình em, em đã lấy anh và rời khỏi nhà Wataya. Rồi hai chúng mình sống một cuộc đời êm ả, từng ngày ngày qua, em cũng dần dần quên đi cái nỗi bất an đen tối đó. Em bước vào xã hội như một con người mới, em dần dần hồi phục. Đã có một thời tưởng như mọi cái đều êm đẹp với em. Nhưng thật không may, chuyện chẳng đơn giản như vậy. Đến một lúc nào đó, em nhận ra rằng mình đang bị lôi kéo ngoài ý muốn về phía cái sức mạnh đen tối mà em cứ nghĩ mình đã bỏ lại đằng sau. Và khi nhận ra điều gì đang xảy ra với mình, em đâm bấn loạn. Em không biết phải làm gì. Chính vì vậy em đi nói chuyện với Wataya Noboru, hy vọng có thể biết được sự thật. Và em tìm Kano Malta, những mong cô ta có thể giúp mình. Chỉ có anh, là em không thể bộc bạch thôi. Anh đoán mọi chuyện đã khởi đầu từ sau khi em có thai. Anh tin chắc đó là bước ngoặt. Có lẽ vì vậy mà anh đã nhận được lời cảnh báo đầu tiên từ tay nhạc công ghita ở Sapporo vào đúng cái đêm em phá thai. Việc có thai hẳn đã kích thích và đánh thức cái gì đó đang tiềm ẩn trong em. Wataya Noboru chỉ chờ có chừng ấy. Đó chính là cách duy nhất để hắn có quan hệ tính giao với đàn bà. Chính vì vậy hắn mới cương quyết giằng em ra khỏi anh mà lôi về phía hắn, một khi cái khuynh hướng đó đã lộ ra ở em. Hắn phải có được em. Wataya Noboru cần em để đóng cái vai mà chị gái em từng đóng cho hắn. Khi tôi nói xong, im lặng sâu thẳm lấp đầy khoảng trống. Tôi đã nói thành lời tất cả những gì trí tưởng tượng đã mách bảo tôi về Kumiko. Một phần là những suy nghĩ mơ hồ tôi từng có từ trước, phần còn lại thì hình thành trong trí tôi ngay lúc tôi đang nói trong bóng tối. Có lẽ sức mạnh của bóng tối đã lấp đầy những khoảng trống trong tưởng tượng của tôi. Hoặc có thể sự hiện diện của người đàn bà này đã giúp vào đó. Nhưng đằng nào đi nữa, những gì tôi tưởng tượng chẳng dựa trên cơ sở chắc chắn nào. - Hay quá, hay quá, - người đàn bà nói. Một lần nữa giọng cô lại là giọng nhí nhảnh trẻ con. Hình như cô đổi giọng càng lúc càng nhanh. - Thế đấy, thế đấy. Vậy là em đã bỏ anh đặng lánh mình không cho ai thấy tấm thân ô uế của em. Nghe như là Cầu Waterloo trong sương mù ấy nhỉ, Auld Lang Sync, Robert Taylor và Vivien Leigh... - Anh sẽ đưa em ra khỏi đây, tôi ngắt lời cô. - Anh sẽ đưa em về nhà, về thế giới của em, thế giới có những con mèo đuôi quặp, có những mảnh vườn nho nhỏ, có những chiếc đồng hồ báo thức vào buổi sáng. - Bằng cách nào cơ? - người đàn bà hỏi. - Làm sao anh Okada có thể đưa em ra khỏi đây được? - Như trong truyện cổ tích ấy, - tôi đáp. - Bằng cách phá bỏ lời nguyền. - Ồ, em hiểu. Nhưng anh Okada đợi một chút. Có vẻ như anh nghĩ em là Kumiko. Anh muốn đưa em về nhà như là đưa Kumiko về. Nhưng nếu em không phải là Kumiko thì sao? Chừng đó anh sẽ làm gì? Có khi anh sắp đưa về nhà một kẻ hoàn toàn khác đấy. Anh có tin chắc mình đang làm gì không? Liệu anh có nên nghĩ kỹ một lần nữa không? Tôi thò tay nắm chặt chiếc đèn pin trong túi. Đây không thể là ai khác ngoài Kumiko, tôi nghĩ. Nhưng tôi không chứng minh được. Rốt cuộc đó cũng chỉ là giả thuyết, không hơn. Mồ hôi túa ra từ bàn tay tôi đang thọc trong túi. - Anh sẽ đưa em về nhà, - tôi lại nói, giọng khô khốc. - Anh đến đây là để đưa em về. Tôi nghe tiếng chăn đệm sột soạt. Cô vừa đổi tư thế trên giường. - Anh nói thế nhưng có d&aacutc ở cái xứ này. Trung úy ạ, tôi bảo anh thế này: ở đây chỉ có một cách duy nhất để sống sót mà thôi. Đó là không tưởng tượng gì hết. Gã người Nga nào dùng trí tưởng tượng của hắn là tới số. Tôi chả bao giờ dùng trí tưởng tượng của tôi cả. Việc của tôi là làm cho người khác dùng trí tưởng tượng của họ. Đó là miếng bánh của tôi. Hãy nhớ lấy điều đó cho kỹ. Và chừng nào anh còn ở đây thì ít nhất mỗi khi bắt đầu tưởng tượng cái gì đó, hãy hình dung khuôn mặt tôi và tự nhủ: không, đừng làm vậy. Tưởng tượng là mất mạng như chơi. Lời khuyên vàng ngọc của tôi đấy. Gì chứ tưởng tượng thì hãy dành cho kẻ khác. Nửa năm trôi qua như vậy. Nay đã gần cuối thu năm 1947, tôi đã trở thành người không thể thiếu được đối với Boris. Tôi chịu trách nhiệm về khía cạnh kinh doanh trong hoạt động của hắn, còn Thằng Tác-ta đảm nhận phần bạo lực. Lực lượng cảnh sát mật vẫn chưa triệu hồi Boris về Mátxcơva, nhưng đến khi đó dường như hắn cũng không còn muốn về thủ đô nữa. Hắn đã ít nhiều biến trại tù và mỏ than thành lãnh địa riêng bất khả xâm phạm của mình, ở đó hắn có đầy đủ tiện nghi, đều đều hốt bạc, lại được cả một đội quân của chính mình bảo vệ. Mà có khi ngay cả giới lãnh đạo thủ đô cũng không muốn gọi hắn về mà cứ để hắn ở đó nhằm củng cố chỗ đứng của họ ở Siberia. Giữa Mátxcơva và Boris vẫn thường xuyên trao đổi thư từ, dĩ nhiên không phải bằng bưu điện mà theo đường xe lửa, qua tay các sứ giả bí mật. Đó luôn luôn là những gã cao lớn có cặp mắt lạnh băng. Mỗi khi một tên như vậy bước vào, nhiệt độ trong phòng dường như tụt ngay xuống. Trong khi đó, tù nhân làm trong mỏ vẫn tiếp tục chết như rạ, xác vẫn tiếp tục bị vứt vào hầm lò. Boris tiến hành đánh giá toàn diện khả năng của từng tù nhân, kẻ nào ốm yếu thì hắn vắt kiệt lực đồng thời giảm khẩu phần ăn để giết họ dần dần và giảm số miệng ăn. Chỗ thức ăn cắt giảm từ khẩu phần của người yếu được bổ sung cho người mạnh để nâng cao năng suất. Ở trại này hiệu quả là tất cả: đó là thứ luật rừng, mạnh được yếu thua. Mỗi khi số nhân lực bắt đầu giảm, hàng đoàn xe tải chật ních tù nhân mới như những đoàn tàu chở gia súc lại đến. Đôi khi có tới hai mươi phần trăm "chuyến hàng" chết trên đường đi, nhưng chuyện đó chẳng ai quan tâm. Hầu hết tù mới là người Nga và Đông Âu từ phía Tây mang về. Thật may cho Boris rằng chính sách bạo lực của Stalin vẫn tiếp tục thịnh hành ở đó. Kế hoạch của tôi là giết Boris. Dĩ nhiên tôi biết, dù khử kẻ này thì cũng không có gì bảo đảm tình thế của chúng tôi sẽ khá hơn lên. Đằng nào cũng vẫn là địa ngục, không dạng này thì dạng khác. Nhưng đơn giản là tôi không thể để con người như thế tiếp tục tồn tại trên đời này. Như Nikolai đã nói, hắn như con rắn độc. Ai đó sẽ phải chặt đầu nó. Tôi không sợ chết. Có chăng là tôi sẵn sàng để Boris giết tôi như tôi giết hắn. Nhưng tôi không thể phạm sai lầm. Tôi phải đợi cho đến đúng cái khoảnh khắc khi tôi có thể tin tưởng tuyệt đối rằng sẽ chắc chắn kết liễu được mạng hắn chỉ bằng một phát súng. Tôi vẫn đóng vai người thư ký trung thành của hắn trong khi chờ cơ hội vồ mồi. Nhưng như tôi đã nói, hắn là kẻ cực kỳ thận trọng. Thằng Tác-ta kè kè bên cạnh hắn cả ngày lẫn đêm. Mà cho dù nếu hắn cho tôi cơ hội chỉ gặp mình hắn thì làm sao tôi giết hắn khi chỉ có một bàn tay, lại còn không có súng nữa? Nhưng tôi vẫn nhẫn nại chờ thời cơ. Nếu trên thế giới này quả thật có ông trời, thì lúc nào đó ngài ắt phải ban cơ hội cho tôi.