hư vậy là công việc trục chiếc tàu mắc cạn đã thành công mỹ mãn. Nhưng mọi việc chưa kết thúc ở đây. Còn phải tính sao cho chiếc thuyền buồm được tuyệt đối an toàn trong vũng tàu nằm trong bờ biển của mũi Saint - Barthélemy. Hiện giờ nó phơi bày quá nhiều trước những cơn sóng lừng và trước gió bão đến từ hướng tây bắc. Vào những kỳ nước triều lớn lúc thu phân, nó không thể nào đứng vững trong vịnh quá hai mươi bốn giờ. Kongre không phải là không biết điều ấy. Vì vậy, hắn định sẽ rời vũng đậu ngay kỳ triều ngày mai để đưa tàu ngược lên phía eo biển Lemaire. Trước đây, hắn thầy cần thiết phải kiểm tra bên trong tàu và phía vỏ tàu bên ngoài. Mặc dù đã có được một kết luận ban đầu là tàu không chỗ nào rò rỉ, tuy nhiên cũng có thể phần lòng tàu hay ít nhất bộ rẽ sườn của nó đã bị hư hại vì mắc cạn; và như vậy cần phải sửa chữa lại vì trước mặt là một chuyến vượt biển khá dài. Kongre ra lệnh cho mọi người bắt tay vào công việc ngay, trước tiên là phải dỡ bỏ ngay các vật dằn là đống sắt vụn chất đầy lòng tàu. Không nhất thiết phải bốc chúng lên bờ, như vậy tốn nhiều thời gian và công sức. Cái chính là thời gian. Trong tình hình chưa chắc chắn như hiện nay của chiếc tàu, nhất thiết phải tiết kiệm thời giờ. Đống sắt vụn dùng làm vật dằn sẽ được chuyển từ mũi tàu ra phía lái để có thể kiểm tra bộ ván lót rẽ sườn của tàu. Công việc kiểm tra này được thực hiện một cách cẩn thận bởi Kongre, Carcante và một tên thợ mộc người Chilé tên là Vargas, tên này trước đây đã làm việc trong một xưởng đóng tàu ở Valparaiso và tỏ ra rất am hiểu công việc. Trong phần nằm giữa sống mũi tàu và bệ cột buồm mũi, không có lực hại nào. Các rẽ đáy, rẽ sườn cũng còn nguyên vì chúng được bắt chốt lại bằng các đinh sắt. Khi các vật dằn được đẩy về phía trước, thì vỏ tàu từ buồm lớn đến buồm mũi hiện ra còn nguyên vẹn. Những cột chống cũng không bị cong và chiếc thang dùng để leo từ dưới hầm tàu lên boong cũng không suy suyển. Sau cùng khi kiểm tra phần bao gồm giữa khoang tàu và sống đuôi thì người ta phát hiện một chỗ hư hại, được xem là tương đối nghiêm trọng. Tuy không có lỗ rò nhưng rẽ sườn trái của tàu bị một vết lõm dài hơn một mét. Vết lõm này có thể là hậu quả của sự va chạm giữa một mỏm đá và vỏ tàu va chạm này đã làm tàu mắc cạn trên bãi cát. Tuy bộ phận cạp thuyền chưa bị hư hại đến mức để nước tràn vào nhưng không có nghĩa là không đáng lo ngại. Tàu cần được sửa chữa trước khi ra khơi, trừ phi nếu là một cuộc vượt biển ngắn, vào thời gian trời yên biển lặng thì không kể. Việc sửa chữa này có thể đòi hỏi cả tuần lễ ngay trong điều kiện có đủ vật liệu và dụng cụ cần thiết. Khi Kongre và đồng bọn hiểu ra tàu cần sửa chữa những gì thì nỗi thất vọng đã thay thế những tiếng hoan hô. Liệu con tàu Maule có còn sử dụng được nữa không? Và cuối cùng thì bọn chúng có thể thoát khỏi cái đảo này không? Kongre bèn lên tiếng: - Đúng là sự hư hại này nghiêm trọng. Trong tình trạng hiện nay, chúng ta không thể trông cậy gì ở nó, gặp giông bão là tàu có thể vỡ. Mà chúng ta lại phải ượt qua cả mấy trăm hải lý mới có thể tới được các hòn đảo của Thái Bình dương!.. Tàu rất dễ bị đắm trên đường đi, nhưng chỗ hư này có thể sửa được và chúng ta sẽ sửa nó. - Sửa ở đâu? - Một tên người Chilé hỏi với vẻ lo lắng. - Dù sao cũng không sửa ở đây được - Một tên khác phụ họa theo. - Không làm ở đây - Kongre nói với vẻ cương quyết – Ta sẽ đưa tàu về vịnh Elgor. Đúng ra, trong vòng bốn mươi tám tiếng đồng hồ, tàu có thể từ đây về tới vịnh Elgor. Chỉ việc cho tàu men dọc theo bờ biển, hoặc theo phía nam, hoặc theo phía bắc. Trong hang chứa các kiện hàng bắt được, thợ mộc của chúng ta có đủ dụng cụ để làm công việc sửa chữa. Nếu cần phải cho tàu neo đậu lại trong nửa tháng hay ba tuần lễ, ta cũng phải cho nó nằm ở đó. Mùa đẹp trời cón kéo dài tới hai tháng nữa và khi chúng ta rời khỏi đảo Đa Quốc gia thì phải đi trên một chiếc tàu đã được sửa chữa xong mà hoàn toàn không còn lo ngại gì nữa. Vả lại Kongre luôn giữ ý định, sau khi rời mũi Saint - Barthélemy, toàn băng phải về nương náu ít lâu ở vịnh Elgor. Trong bất cứ trường hợp nào, hắn không bao giờ muốn để mất các thứ quí giá mà băng cướp buộc phải để lại trong hang, khi công việc xây dựng hải đăng đã đẩy bọn chúng sang đầu bên kia của đảo. Bởi vậy, ý định của hắn chỉ hơi thay đổi ở chỗ thời hạn neo đậu của tàu trong vịnh kéo dài hơn dự kiến một chút. Thế là niềm hy vọng lại trở lại, toàn thể bọn chúng tích cực chuẩn bị để có thể ra đi vào sáng mai lúc triều lên. Còn về sự hiện diện của tổ gác hải đăng, đấy không phải là điều làm chúng lo ngại. Bằng vài câu ngắn gọn, Kongre nêu lên kế hoạch của hắn về vấn đề này. - Trước khi có trong tay chiếc thuyền này - hắn nói với Carcante - tao đã định chiếm lấy vịnh Elgor, ngay từ lúc chỉ có bọn gác đèn ở đấy thôi. Dự định này bây giờ cũng vậy. Tuy nhiên, thay vì đánh lén từ phía trong đảo, nhờ vào yếu tố bất ngờ thì nay ta đàng hoàng vào đảo từ đường biển. Ta sẽ cho chiếc thuyền buồm vào neo đậu trong vịnh. Chúng sẽ phải làm thủ tục nhập đảo cho chúng ta mà không nghi ngờ... và thế là... Bằng một cử chỉ, mà qua đó Carcante hiểu ngay là Kongre muốn kết thúc kế hoạch của hắn như thế nào. Trên thực tế, cơ may thành công là rất lớn cho kế hoạch của tên cướp đáng sợ này. Ngoại trừ phép lạ xảy ra, làm sao Vasquez, Moriz và Felipe có thể thoát khỏi tình thế nguy hiểm đang đe dọa họ? Suốt cả buổi chiều, băng cướp làm mọi thứ để chuẩn bị lên đường. Kongre cho xếp các vật nằm vào chỗ cũ và cho chất lên tàu lương thực, vũ khí và các đồ vật khác để đến mũi Saint - Barthélemy. Các công việc trên được thực hiện rất mau lẹ. Từ khi rời vịnh Elgor, tức là hơn một năm nay, Kongre và toàn băng chỉ sống nhờ vào lương thực dự trữ nên bây giờ chỉ còn lại rất ít để mang lên tàu. Còn các đồ gỗ, quần áo, nồi xoong, vàng bạc... thì được mang lên chất đầy các khoang của chiếc thuyền buồm Maule; sau này tàu còn phải chở thêm những thứ giấu trong hang ở cửa vịnh nữa. Nói gọn lại thì bọn chúng đã làm nhanh tới mức chỉ mới bốn giờ chiều, thì mọi việc chuẩn bị đã xong. Chiếc thuyền buồm đã có thể lên đường ngay lập tức, tuy nhiên Kongre còn lo ngại nếu tàu phải đi ban đêm trên một bờ biển có quá nhiều mỏm đá. Hắn cũng còn chưa biết có nên đi qua eo Lemaire hay không, để có thể tới mũi San Juan. Điều này còn phụ thuộc vào hướng gió. Nên đi nếu gió thổi từ phương nam về nhưng nếu gió thổi từ phía bắc lại thì không nên. Trong trường hợp sau, theo hắn thì tốt hơn cả là đi qua phía nam của đảo, điều đó bảo đảm cho tàu được che chắn bởi đất liền. Hơn nữa, dù đi theo hướng nào, theo dự tính của hắn, thời gian vượt biển cũng không được quá ba chục tiếng đồng hồ, kể cả thời gian đậu lại trong đêm. Đêm đã tối, thời tiết không có dấu hiệu gì thay đổi. Phía tây không có sương mù và khi mặt trời vừa tụt xuống dưới đường chân trời thì một chùm tia sáng xanh biếc lóe lên, xuyên vào không gian. Thời tiết có vẻ báo hiệu cho một đêm yên tĩnh và quả đúng như vậy. Hầu hết băng cướp đều lên cả trên boong tàu. Đứa thì trên đài quan sát, đứa thì trong khoang. Kongre chiếm cabin của thuyền trưởng còn Carcante thì ở trong cabin thuyền phó nằm phía bên trái. Đã nhiều lần chúng cùng lên boong tàu để quan sát hết bầu trời đến mặt biển. Chúng tin chắc là ngày mai, cho dù nước triều lên mạnh, con thuyền cũng không hề hấn gì và không gì có thể ngăn cản chúng khởi hành. Sáng hôm sau, cảnh mặt trời mọc mới đẹp làm sao. Ở vĩ tuyến này, thật hiếm khi thấy mặt trời xuất hiện trên đường chân trời rõ ràng đến thế. Ngay sáng sớm, Kongre đã rời tàu bằng xuồng cứu hộ và sau khi vượt qua một con lạch hẹp ngay ở đầu mũi Saint Barthélemy, hắn leo lên mỏm vách đá dựng đứng. Từ độ cao này, tầm nhìn của hắn có thể bao quát cả ba mặt bể. Riêng hướng đông là có núi che khuất suốt từ mũi Saint - Antoine đến mũi Kempe. Mặt biển yên lắng ở phía nam, và hơi động ở gần cửa vịnh, bởi vì gió bắt đầu nổi lên từ đó. Ngoài ra không hề có một cánh buồm nào, hay một làn khói nào ngoài khơi và chắc chắn là chiếc Maule sẽ không chạm trán với bất cứ con tàu nào khác trong chuyến đi ngắn đến mũi San Juan. Kongre đã nhanh chóng quyết định. Vì ngại trời có gió mạnh và trước hết là để cho chiếc Maule đỡ vất vả khi phải phơi mình ra trước những cơn sóng lừng ở eo biển, hắn quyết định sẽ cho tàu men theo bờ biển phía nam của đảo và sẽ tới vịnh Elgor sau khi qua các mũi Kempe, Webster, Several và Diegos. Dù đi theo hướng nam hay hướng bắc, khoảng cách cũng xấp xỉ như nhau. Kongre xuống phía dưới vách đá để ra bờ biển và đi về phía hang đá xem có vật gì để quên ở đó không. Có cái gì có thể tố giác sự hiện diện của chúng ở đây không. Lúc đó là vào khoảng bảy giờ sáng. Nước biển bắt đầu rút rất thuận tiện cho tàu ra khỏi vịnh. Neo được kéo lên giá đỡ, buồm trước áp mũi và buồm mũi được kéo lên đủ để đưa con tàu Maule ra khỏi bãi cát. Kongre đứng bẻ lái còn Carcante thì canh chừng phía mũi. Mười phút đã trôi qua đủ cho con tàu trườn mình thoát khỏi bãi đá, nó hơi bị lắc lư tròng trành một chút. Theo lệnh của Kongre, Carcante cho kéo buồm mũi và buồm lái lên, đây là cánh buồm lớn nhất của tàu. Được gió thổi phồng, các lá buồm và căng các dây neo, con tàu Maule lướt nhanh theo hướng tây nam trực chỉ mũi Saint - Barthélemy. Sau nửa tiếng đồng hồ đi vòng qua những mỏm đá, tàu lướt nhanh về hướng đông và đi sát chiều gió hơn nữa. Gió lúc này rất thuận cho sự di chuyển của tàu, và dưới sự che chở của bờ nam của đảo, con tàu duy trì vận tốc ba hải lý một giờ. Lúc này thì cả Kongre lẫn Carcante đều có chung nhận xét là con tàu nhẹ nhàng này có thể thích nghi với mọi hải trình. Chắc chắn là trong mùa đẹp trời trong năm, nó có thể xông pha không chút nguy hiểm trên Thái Bình Dương sau khi bỏ lại đằng sau mình những hòn đảo cuối cùng của quần đảo Magellan. Đương nhiên là Kongre có thể cho tàu vào vịnh Elgor trong buổi tối, nhưng hắn muốn dừng lại ở một nơi nào đó trên bờ biển để chờ cho mặt trời khuất hẳn xuống dưới chân trời. Hắn bèn cho hạ bớt buồm xuống và bằng lòng với vận tốc năm hải lý một giờ. Trong ngày ra khơi đầu tiên này, chiếc Maule không hề gặp một con tàu nào khác và khi màn đêm vừa buông xuống là nó đã neo đậu lại ở phía đông mũi Webster, sau khi được một nửa đoạn đường. Nơi đây chồng chất nhiều tảng đá lớn và trên bờ lừng lững những vách đá cao. Chiếc thuyền buồm neo đậu cách bờ khoảng hai trăm mét trong một cái vũng nhỏ được che chở bởi một mũi đá. Không đâu là yên tĩnh hơn nơi đây, trong một cái vũng nhỏ. Chắc chắn là nếu gió chuyển hướng thổi từ phía nam lại thì chiếc Maule sẽ bị trống trải tại chỗ này, nơi mà khi bão địa cực nổi lên, biển sẽ động dữ dội như ở mũi Horn vậy. Nhưng thời tiết có vẻ như muốn lặng, gió đông bắc thổi nhẹ và hình như sự may mắn vẫn còn mỉm cười với Kongre và nhóm của hắn. Đêm 25 rạng sáng 26 tháng Chạp trôi qua trong yên tĩnh. Gió lặng từ mười giờ đêm cho tới bốn giờ sáng sáng hôm sau. Khi vừng đông vừa rạng, Kongre ra lệnh cho mọi người chuẩn bị kéo neo. Những lá buồm hạ xuống lúc đêm, giờ được kéo lên. Chiếc bàn tời đứng đang kéo mô neo lên giá đỡ và chiếc Maule lại tiếp tục cuộc hải trình. Mũi Webster kéo dài ra biển đến năm hải lý, từ bắc xuống nam. Do đó chiếc thuyền buồm cần đi ngược lên để tìm thấy bờ biển về phía đông kéo dài cho tới mũi Several, cách chừng khoảng hai chục hải lý. Chiếc Maule lại di chuyển như hôm trước trong những điều kiện tương tự, nó đi trong vũng nước yên tĩnh men theo bờ biển, dưới sự che chở của các dãy vách đá dựng đứng. Càng gần đến eo biển thì bờ biển càng hiểm trở và đáng sợ! Từng đống đá chồng chất lên nhau phủ kín bờ biển từ sát bờ ra tới ngoài khơi. Đá dày đặc tới mức không nói gì đến các con tàu nhỏ bé mà ngay đến cả những chiếc xuồng đơn giản cũng không tài nào cặp bờ được. Không có lấy một vũng nào có thể đưa tàu vào, không có lấy một bãi cát để có thể đặt chân! Phải chăng đây là thành trì che chở cho hòn đảo chống lại những cơn sóng lừng đến từ những vùng biển địa cực? Chiếc thuyền buồm đang lướt đi với vận tốc vừa phải cách bờ biển dưới ba hải lý. Vì không biết rõ bờ biển này cho nên Kongre không dám cho thuyền đi gần bờ. Mặt khác, vì không muốn chiếc Maule phải quá dầu dãi nên hắn cho thuyền đi giữa vùng nước lặng và không quá xa bờ lắm. Khoảng mười giờ, thuyền đã đến cửa vịnh Blossom, tuy thế thuyền cũng không tránh khỏi bị sóng lừng. Những trận gió, vì phải lách vào một vịnh hẹp đào sâu vào trong đất nên đã tạo thành những cơn sóng lừng dài trên mặt biển giờ đây chiếc Maule đang phải hứng chịu những đợt sóng đó. Kongre cố gắng chịu đựng, cốt để vượt qua mũi đất phân cách vịnh về phía đông, sau đó gã sẽ cho thuyền đi sát gió hơn nữa, và néo dây buồm sang trái, và sẽ đi thẳng ra khơi. Kongre đích thân bẻ bánh lái tàu, các dây buồm được kéo hết cỡ, gã tìm cách càng đi sát gió bao nhiêu càng tốt. Chính nhờ vậy mà vào khoảng bốn giờ chiều, y xoa tay tự hài lòng vì đã có thể cho thuyền lao thẳng tới đích. Cứ nương theo chiều gió mà đi, gã luôn tay kéo dây buồm, cho tàu trực chỉ vịnh Elgor; lúc này mũi Several chỉ còn cách tàu bốn hải lý về phía tây bắc. Từ khoảng cách này, bờ biển trải rộng ra trước mắt đến tận mũi San Juan. Cùng lúc ấy, về bên trái của mũi Diegos hiện ra chiếc tháp đèn của Ngọn Hải đăng ở nơi cuối trời mà Kongre trông thấy lần đầu tiên. Nhờ chiếc ống nhòm tìm được trong cabin của thuyền trưởng Pailha, gã còn trông thấy rõ một trong những người gác đèn đang đứng trên hành lang đèn để quan sát biển. Mặt trời còn ở trên đường chân trời khoảng ba tiếng đồng hồ nữa, do đó chắc chắn là chiếc Maule sẽ vào nơi neo đậu trước khi đêm xuống. Đương nhiên là chiếc thuyền buồm không thoát khỏi tầm nhìn của tổ gác đèn và giờ đây sự xuất hiện của nó đã được loan báo. Khi Vasquez và các chiến hữu trông thấy chiếc tàu quay mũi ra khơi, họ nghĩ là tàu sẽ đi về quần đảo Malouines. Nhưng bây giờ từ khi thấy tàu đi sát gió, néo dây buồm về bên phải thì chắc hẳn họ phải nghĩ là tàu sẽ đi vào vịnh. Với Kongre, chuyện con tàu bị phát hiện chẳng quan trọng, kể cả việc người trên hải đăng biết được ý định neo đậu lại của tàu. Tất cả đều không làm kế hoạch của hắn phải thay đổi. Hắn cảm thấy vô cùng hài lòng khi thấy chuyến vượt biển đầu tiên này khá thuận lợi. Gió hiện đang thổi mạnh hơn từ phía đông lại. Bằng cách để thuyền đi chếch gió, các cánh buồm hạ thấp, chiếc Maule có thể vượt qua mũi Diegos mà chẳng cần đi sát vào bờ. Cho đến lúc này, có thể nói mọi chuyện đã diễn ra vô cùng suôn sẻ. Trong tình trạng hiện nay của vỏ tàu, không biết nó có thể chịu đựng được một loạt những lần đổi hướng liên tục như vừa rồi không? Biết đâu lại chẳng có một chỗ rò rỉ được phát hiện ngay trước lúc tàu vào tới chỗ neo đậu? Và đấy cũng chính là điều sắp xảy đến. Trong lúc chỉ còn cách bờ vịnh chừng hai hải lý thì một tên trong bọn, sau khi xuống dưới khoang tàu trở lên boong, đã kêu ầm ĩ lên là nước đang tràn vào khoang qua một khe nứt. Khe nứt nằm ở chỗ vỏ tàu, khi mắc cạn, đã va vào một mỏm đá. Vỏ tàu đã cầm cự khá lâu giờ đây nó đã bị bung ra, nhưng cũng chỉ là một đoạn ngắn chừng vài đốt ngón tay mà thôi. Nói cho đúng ra thì chỗ hư hại này không phải là vấn đề gì quá nghiêm trọng. Sau khi di chuyển chỗ vật dằn ra, tên thợ mộc Vargas đã không mấy khó khăn dùng vải và nùi giẻ bít kín khe nứt lại. Tuy nhiên, mọi người đều hiểu là tàu cần phải sửa lại cẩn thận. Trong tình trạng tàu phải chịu đựng sau lần mắc cạn ở mũi Saint - Barthélemy, chiếc thuyền buồm này nếu vượt Thái Bình dương thì phải chịu tổn thất lớn nếu chưa được sửa lại Đến sáu giờ tối thì tàu Maule đã có mặt ở cửa vào vịnh Elgor, với khoảng cách hơn một hải lý. Kongre cho hạ bớt buồm xuống, chỉ để lại buồm mũi và buồm hình thang, và không mấy khó khăn chiếc Maule đã vào tới nơi neo đậu ở cuối vịnh Elgor, dưới sự chỉ huy của Kongre và những hiểu biết rất rành rẽ đường đi lối lại ở đây và sẽ đóng vai trò hoa tiêu dẫn đường cho tàu. Đến sáu giờ ba mươi tối hôm đó, một chùm tia sáng chiếu rực rỡ trên mặt biển. Ngọn hải đăng vừa được thắp lên và con tàu đầu tiên được nó dẫn đường qua vịnh chính là đang nằm trong tay bọn cướp biển. Lúc đó đã gần bảy giờ tối khi mặt trời đã khuất sau những đỉnh núi của hòn đảo thì chiếc Maule cặp mạn phải mũi San Juan. Vịnh mở ra trước mũi tàu, Kongre để tàu đi xuôi gió để vào vịnh. Lúc tàu đi ngang qua những hang đá, Kongre và Carcante có thể an tâm mà nhận thấy rằng các cửa hang vẫn được giấu kín sau những đống đá hay những lùm cây. Không có điều gì có thể tố cáo sự có mặt của bọn chúng trên đảo và chúng sẽ lại tìm thấy những của cải mà chúng ăn cướp được trước đây, đang cất giấu trong hang. - Mọi chuyện đều tốt cả - Carcante nói với Kongre khi hai tên đứng bên nhau ở lái tàu. - Và sẽ tốt đẹp hơn nữa đấy - Kongre đáp. chỉ còn hai mươi phút nữa là chiếc Mau le sẽ vào đến nơi mà nó sẽ neo đậu. Đúng vào lúc đấy hai người từ tháp đèn leo xuống phía dưới là Felipe và Moriz. Họ chuẩn bị xuống chiếc xà lúp để ra kiểm tra chiếc thuyền buồm. Còn Vasquez thì trực trong phòng làm việc. Khi chiếc thuyền buồm vừa ra đến giữa vịnh, những lá buồm phụ liền được hạ xuống, chỉ còn lại lá buồm mũi là đang chịu sự điều khiển của Carcante. Lúc neo vừa chìm xuống đáy vịnh thì Moriz và Felipe cùng nhảy lên boong chiếc tàu buồm. Ngay tức thì, Kongre ra hiệu, một nhát búa liền đập ngay vào đầu Moriz làm anh ngã quỵ. Đồng thời hai phát súng lục bắn vào người Felipe làm anh này ngã gục bên bạn mình chỉ trong khoảnh khắc. Qua cửa sổ của phòng trực, Vasquez đã nghe các tiếng động và thấy hai chiến hữu bị sát hại. Cũng số phận đó, sẽ dành cho anh nếu anh bị bọn chúng tóm được. Với bọn sát nhân đó thì chẳng có thể chờ mong ở chúng một ân huệ nào cả. Tội nghiệp cho Moriz và Felipe quá, nhưng anh chẳng thể làm gì để cứu họ; và từ trên cao này, anh đã quá kinh sợ trước tội ác được thực hiện chỉ trong vài giây đồng hồ. Sau phút bàng hoàng ban đầu, anh lấy lại can đảm và nhanh chóng nhận định tình hình. Cần phải bằng bất kỳ giá nào, thoát khỏi cơn nguy cấp này. Có thể bọn chúng còn chưa biết đến có anh ở đây, nhưng có thể giả thiết là sau khi đã neo đậu tàu xong thì bọn chúng sẽ cùng kéo lên tháp đèn để tắt hải đăng đi, làm cho vịnh này sẽ không thể qua được, ít nhất là cho đến sáng hôm sau. Không chút chậm trễ, Vasquez rời phòng trực và theo cầu thang chạy về nơi nghỉ ở bên dưới. Không bỏ phí giây phút nào. Anh đã nghe thấy tiếng chiếc xà lúp rời thuyền buồm để lên tháp đèn với mấy tên trên đó. Vasquez giắt vội hai khẩu súng lục vào thắt lưng, quơ vội một số lương thực nhét vào trong một cái túi mà anh khoác lên lưng, đoạn trốn khỏi nơi ở, chạy nhanh xuống cầu thang và biến vào bóng tối.