Người Trung Quốc cổ xưa khác; người Trung Quốc thời vua chúa trị vì khác; người Trung Quốc thời cộng sản khác, thời hậu cộng sản khác và người Trung Quốc ở ngoại quốc cũng khác với người Trung Quốc tại bản xứ của mình.Một dân tộc cổ có 5.000 năm văn hiến, chắc chắn có rất nhiều phong tục tập quán hơn là một đất nước chỉ có văn minh kỹ thuật cơ giới 200 năm. Do vậy mà khó so sánh nơi nào tốt, nơi nào xấu; nơi nào đúng, nơi nào sai. Nếu có sự so sánh ở đây, cũng chỉ là việc tương đối thường có trong cuộc sống hằng ngày, không mang một giá trị tuyệt đối nào cả. Trước khi Khổng Tử và Lão Tử ra đời, Trung Quốc cũng đã có hơn 2.000 năm lịch sử và sau khi các bậc vĩ nhân ấy xuất hiện tại Trung Hoa, kể cho đến nay cũng đã hơn 2.500 năm rồi. Nghĩa là cùng thời với Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Giáo chủ của Phật Giáo. Lúc bấy giờ các vị vua, các vị Vạn thế Sư biểu nầy đã chế ra các quy củ, tập tục cho người Trung Hoa để họ sống theo tinh thần của Nho Giáo thời ấy. Ví dụ Đạo Khổng chủ trương rằng đàn ông ở trong xã hội phải có 5 đức tính căn bản để làm người. Đó là: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Nhân nghĩa là phàm làm người, phải có tình thương đối với nhân loại. Vì vậy ngày xưa ở Trung Quốc cũng đã có các vị vua cai trị dân rất dân chủ, nên đã được truyền lại rằng: Dân Vi Quí, Xã Tắc Thứ Chi, Quân Vi Khinh. Nếu vua chúa Trung Hoa cai trị dân theo đúng tinh thần nầy thì nước Trung Hoa khỏi cần làm cách mạng nữa. Vì cách mạng cũng cho dân và vì dân, chứ không phải cách mạng cho những người lãnh đạo được vinh thân phì gia. Dân là trên hết, sau đó mới đến đất nước và cuối cùng là người lãnh đạo. Nếu người lãnh đạo hiểu và thực hành được cái lòng nhân như vậy, quả thực đất nước sẽ an lành, thịnh trị.Nghĩa đây là nghĩa vụ, cái nghĩa vợ chồng, cha con, huynh đệ, tôi tớ v.v... mỗi một đối tượng phải có bổn phận với nhau, không ai phải hy sinh cho ai cả. Rồi đến Lễ cũng vậy. Cái lễ của người học trò phải đối xử với Thầy dạy học ra sao? phải đối với quan chức và vua chúa ra sao? tất tất đều phải học và hành để đời sống được thăng hoa trên mặt đạo đức.Trí đây là sự học hỏi, trau giồi văn chương, kinh sử để ra đời giúp vua trị nước và cuối cùng là lòng tin tưởng giữa người và người. Tín nếu không có sự tin tưởng với nhau, thì sẽ không thể lập nên những công nghiệp vĩ đại được.Ngoài ra người Trung Quốc cũng đã có 3 điều phải thực hiện theo thứ tự ưu tiên, đó là: Quân, Sư và Phụ. Quân tức là vua. Vua đứng đầu cả nước, nhờ vua có đức trị dân nên nước nhà mới an bình thịnh trị. Do vậy mà người dân, nhất là đàn ông phải có bổn phận cung kính vua chúa và nghe theo những mệnh lệnh của vua chúa truyền đạt. Sư ở đây có nghĩa là Thầy. Thầy dạy đạo và Thầy dạy đời. Bất cứ ai, đã giúp ta, chỉ vẽ cho ta nên người, người ấy là Thầy của ta, ta phải có bổn phận nhớ ơn cho đến khi cuộc sống nầy không còn nữa. Phụ nghĩa là cha, Công cha nghĩa mẹ rất lớn, cha mẹ đã sinh ta, mang ta vào đời và nuôi ta lớn khôn lên giữa cuộc sống nầy. Vậy là một đấng nam nhi, mày râu nam tử, không được phép quên ơn nghĩa cao cả của hai đấng sanh thành.Người đàn bà đối với xã hội Trung Hoa thời cổ cũng đã có những bổn phận và trách nhiệm đối với gia đình, con cái, xã hội v.v... Đó là Tam tòng và Tứ đức. Tam tòng có nghĩa là 3 điều phải theo suốt cả cuộc đời. Điều thứ nhất khi chưa lập gia đình phải nương theo cha mẹ mà sống. Điều thứ 2 khi đã kết hôn rồi phải nương theo chồng mà sống. Điều thứ 3 khi chồng chết phải nuôi con khôn lớn và nương con để cậy nhờ. Ba điều nầy so ra với ngày nay có những điều hơi cổ xưa, mà người phụ nữ ngày nay dầu ở Trung Hoa hay Nhật Bản và ngay cả ở Việt Nam cũng đều muốn vươn lên để cải cách và đòi hỏi nam nữ bình quyền.Tứ đức là 4 đức tính của người đàn bà theo quan niệm của Nho Giáo cho đến ngày nay vẫn còn tốt đẹp. Đó là Công, Dung, Ngôn và Hạnh. Công ở đây có nghĩa là những nghề nghiệp nữ công của người đàn bà như thêu thùa, may vá; nói chung là những nghề nghiệp nhẹ nhàng. Dung ở đây là sắc đẹp. Sắc đẹp là một vũ khí tự nhiên mà người đàn bà có được; nên bảo trọng nó như vàng ngọc bên mình. Ngôn là ngôn ngữ của người đàn bà phải tươi mát, ngọt ngào, tình cảm, khi nghe đến ai ai cũng mát lòng, dễ cảm mến. Hạnh đây có nghĩa là tánh nết. Người đàn bà dù đẹp đến đâu mà đức hạnh không có, quả thật người đàn bà ấy không có gì để so sánh nữa. Do vậy mà người Trung Quốc và Việt Nam hay nói rằng: "Cái nết đánh chết cái đẹp" hay "Tốt gỗ hơn tốt nước sơn" là vậy. Trước khi đạo Phật đến Trung Quốc, người Trung Quốc đã theo đạo Khổng là một đạo nhập thế, họ đã dạy cho người đàn ông Tam Cương, Ngũ Thường và đàn bà có Tam Tòng, Tứ Đức. Ngoài ra người Trung Hoa còn sống theo Đạo Lão, coi đời là hư ảo, vô vi. Nên đạo Lão được xem như là một đạo xuất thế. Cả 2 đạo nầy đều không nói về luân hồi hay tái sanh mà chỉ nói tội phước, nhân, quả. Không nói về phép tu giải thoát, mà chỉ nói về cách sống thoải mái ở cảnh nầy hay cảnh tiên. Do vậy khi Đạo Phật đến xứ nầy đã dung hóa được phần triết học ở hình nhi thượng và các sinh hoạt bình thường ở hành nhi hạ; nên phải nói rằng Đạo Phật đến Trung Quốc mang một sắc thái mới, mà sắc thái ấy, ngày nay trải qua hơn 2.000 năm lịch sử khi Đạo Phật có mặt tại đất nước nầy đã được nhân dân chấp nhận một cách rất hài hòa, nổi bật. Ngày nay nếu ai đó có dịp sang Trung Quốc thì phải công tâm mà nói chùa chiền của Phật Giáo nhiều gấp 100 lần đền thờ của Khổng Tử và Lão Tử. Về mặt nhân sinh quan, vũ trụ quan cũng thế, ảnh hưởng của Phật Giáo không ít trong đời sống sinh hoạt hằng ngày của nhân dân Trung Quốc, nhất là những người Phật Tử vốn lấy triết lý của Đạo Phật làm kim chỉ nam cho cuộc sống của mình. Người Trung Hoa cũng quan niệm rằng: sống gởi, thác về như người Việt Nam trong quá khứ và hiện tại. Đây là một quan niệm chung, gần gũi giữa Nho Giáo và Phật Giáo. Phật Giáo cũng quan niệm "huyễn thân mộng trạch" như Ngài Qui Sơn người Trung Hoa đã dạy Tăng chúng trong văn Cảnh Sách. Nghĩa là thân nầy do tứ đại họp thành. Đất, nước, gió, lửa nầy không có thật. Do nhân duyên hòa hợp, rồi cũng do nhân duyên tan rã mà thôi. Nhưng chúng sanh thấy có hình tướng con người, sự vật, vật thể v.v... nên chấp nó là có; nhưng kỳ thực thì không có. Ngôi nhà mà chúng ta đang ở đây cũng không có thật. Tuy nó cấu tạo bởi gỗ, đá, gạch, sắt, cát, sạn v.v... nhưng những thứ nầy cũng do nhân duyên được tạo thành, rồi cũng sẽ do nhân duyên mà tan rã. Cho nên gọi là nhà mộng. Ngay cả 3 cõi Dục giới, Sắc giới và Vô Sắc giới nầy cũng thế, như trong kinh Pháp Hoa nói: Ba cõi không yên, giống như nhà lửa. Tất cả chúng sanh trong tam giới đều ở trong ngôi nhà lửa, đâu có vui gì. Tuy nhiên vì vọng tưởng, vì mê mờ, nên tất cả bị đắm chìm trong luân hồi sanh tử. Chư Phật và chư vị Bồ Tát đã chỉ cho ta lối ra; nhưng vì chúng ta ham vui nơi ngũ dục ở cõi đời nầy nên cuối cùng ở đời nầy được sanh làm người; nhưng kiếp khác lại rơi vào con đường ác. Hoặc giả đời nầy được làm chư Thiên, hưởng dục lạc nơi cõi trời, để rồi đời sau phải chịu trầm luân khổ sở. Cứ mãi mãi nhào lộn trong tam giới của sự luân hồi sanh tử như thế. Người Trung Hoa ngày xưa cư tang nơi phần mộ của thân nhân, cho đến mãn tang mới thôi, nhất là những người chết chồng, hoặc chết vợ; nhưng ngày nay người Trung Hoa lục địa rất giản đơn, có khi còn không thấy nghĩa địa để chôn hài cốt nữa. Có lẽ vì người Trung Hoa trong hiện tại đông đảo và cần đất đai để canh tác, nên sau khi thiêu xác, họ đã rải tro tàm vào ruộng đất để bón phân; nên nhìn nơi nơi xứ xứ tại Trung Quốc không thấy một nấm mồ, ngoại trừ những ngôi mộ xưa còn lại được bảo quản rất cẩn mật. Vì những ngôi mộ nầy có tính cách lịch sử của nó như mộ của vua chúa hay chư Tăng, Ni. Người Trung Quốc cũng quan niệm về tội và phước rất rõ ràng; nên khi sống họ cố gắng gây tạo phước đức để một mai có ra đi khỏi cõi thế nầy họ mong rằng sẽ hưởng được những gì đã gây ra trong quá khứ. Câu "Một người làm phước, ngàn người hưởng. Một cây trổ hoa, mười ngàn cây được thơm lây". Đây quả thật là một việc làm đầy ý nghĩa. Người Trung Hoa tại Đài Loan khác và người Trung Hoa ở ngoại quốc lại càng khác hơn nữa, nhất là những người đã sinh sống làm ăn nơi các xã hội Âu Mỹ nầy, thì giờ quan trọng hơn là tiền bạc; nên họ làm ma chay cũng rất đơn giản và tang chế cũng không rườm ra như ở thời quá khứ xa xôi nữa. Vì quê hương họ đã xa ngút ngàn trong muôn vạn dặm. Nếu còn chăng, chỉ là những dư âm của thời xa xưa cũ mà thôi. Cha mẹ nhớ được tập tục nào thì truyền lại cho con cháu, chứ ít gia đình nào giống gia đình nào. Vì người Quảng Đông có phong tục khác, người Phước Kiến, người Triều Châu, người Hải Nam và người Bắc Kinh cũng thế. Ngày xưa người Trung Quốc còn cư tang đến 3 năn, chứ bây giờ hầu hết những người Trung Hoa ở ngoại quốc chỉ cư tang trong vòng 49 ngày. Có nơi sau khi chôn đã xả tang rồi. Vì họ quan niệm rằng để tang chế như thế rất khó làm ăn và phát triển kinh tế. Khi chết họ cũng khóc lóc thảm thiết, làm phước bố thí cúng dường; nhưng sau một thời gian ngắn họ cũng quên đi mau chóng. Điều ấy cũng giống như những cặp tình nhân thôi. Giai đoạn đầu mấy năm còn mặn nồng tình nghĩa, sau khi sanh con đẻ cái rồi, nhan sắc đã tàn phai, công danh sự nghiệp không đạt thành, sẽ có nhiều dấu hiệu chia rẽ. Lúc bấy giờ chỉ nhớ với nhau toàn là những chuyện xấu trong cuộc sống chứ đâu có ai nhớ đến cái tốt, cái đẹp của người xưa đâu. Ngày xưa tại Trung Hoa có lễ Tết Thanh Minh cũng rất có ý nghĩa. Mỗi năm vào tháng 3 âm lịch, cả dân tộc đều có một ngày lễ gọi là tảo mộ. Có nghĩa là đi thăm mồ mả ông bà tổ tiên, có nơi còn giẫy cỏ trên nấm mồ, sau đó về nhà cúng kiến rất linh đình nhằm nhớ ơn tổ tiên đã gây dựng cho dòng họ và sự nghiệp của con cháu được phát đạt. Đây cũng là một tục lệ hay. Không biết ngày nay người Trung Hoa tại lục địa có còn giữ không, chứ nhiều người Trung Hoa sống tại ngoại quốc vẫn còn giữ gìn tục lễ ấy. Người Việt Nam đôi khi còn quên ngày lễ nầy, chứ người Trung Quốc thì họ đặc biệt lưu tâm về ngày lễ cổ truyền của dân tộc. Tục ngữ có câu: "Ở đâu có lửa thì ở đó có khói". Điều ấy hiển nhiên; nhưng ngày nay người ngoại quốc hay đặt cho người Trung Hoa một câu tục ngữ khác là: Ở đâu có người Trung Hoa là ở đó sẽ có lửa. Mà quả thật như vậy, người Trung Hoa đi đến đâu cũng sống bằng nghề buôn bán, chí thú làm ăn, ít trọng công danh sự nghiệp như người Việt Nam, mà ở họ kinh tế phải đi hàng đầu. Do vậy người Trung Hoa khi chào nhau ít mở miệng bằng câu hỏi mạnh khỏe không? như người Âu Mỹ mà họ hỏi: Đã ăn cơm chưa? Câu hỏi nầy cũng có nhiều ý nghĩa rất tế nhị. Thứ nhất có nghĩa là: Có đầy đủ cơm gạo để sống không? Thứ 2 trong tình nghĩa đồng bào ruột thịt, nếu chưa ăn thì xin mời ăn chung với gia đình. Tựu chung câu hỏi ấy cũng chỉ hướng về sức khỏe. Vì nếu yếu đuối, bịnh hoạn làm sao ăn uống được. Chỉ khi nào mạnh khỏe mới có thể gánh vác công việc nhà, hãng xưởng được.Nhìn chung ở người Trung Hoa họ thích tạo phước hơn người Việt Nam và do cái phước hữu lậu nầy nên đi đâu họ cũng giàu có, đùm bọc với nhau để sống. Đối với họ chữ tín là đứng hàng đầu. Mặc dầu họ không có những tờ giấy giao kèo bằng bút mực có chữ ký của đôi bên như tại Âu Mỹ; nhưng lời hứa của một người đối với một người, đó là một bằng chứng đáng tin cậy nhất. Nếu lời hứa không thực hiện, kể như người đó không được tin tưởng nữa. Xã hội mỗi ngày mỗi biến thiên thay đổi. Riêng tôi, đặc biệt nghiên cứu về các phong tục tập quán của người Trung Quốc lúc để tang cũng như lo tuần thất, do vậy xin lướt qua phần nơi đất nước nầy tôi đã có cơ hội sống 5 năm rưỡi và sống tại một ngôi chùa Nhật, do vậy mà ít nhiều về phong tục tập quán của họ cũng được biết sơ qua và sau đây là những phong tục tập quán của người Nhật đối với người đã mất. °°° Nhiều người thường nói rằng: Người Nhật trong hiện tại khi sanh ra tại nhà thương, lớn lên tại nhà. Lúc làm đám cưới tại nhà thờ và khi chết đi người Nhật nào cũng gởi cốt của mình vào chùa. Bất luận là khi người ấy còn sống theo Tôn Giáo nào, họ không nhất thiết phải là Phật Tử, lúc chết họ đều đến chùa và không nhất thiết là một tín đồ của Thiên Chúa Giáo, lúc kết hôn thường hay cử hành tại nhà thờ. Trong thực tế Thiên Chúa Giáo đã có mặt tại Nhật hơn 400 năm nay; nhưng họ chỉ chiếm 1% dân số, trong khi đó tại Việt Nam là 10%, Nam Hàn đã hơn 50% và Phi Luật Tân đã chiếm 80% rồi. Mỗi năm lễ Giáng Sinh vào ngày 25 tháng 12 thấy bánh trái bày bán khắp nơi trên toàn xứ Nhật; nhưng điều nầy chỉ có giá trị trên vấn đề thương mại, chứ không phải là ý thức Tôn Giáo. Xin đừng lầm lẫn điều quan trọng nầy khi quý vị đặt chân đến xứ Nhật. Kể từ cuộc cách mạng của vua Minh Trị năm 1868, cách nay 130 năm chẳn, nước Nhật chưa mở cửa buôn bán với các nước phương Tây ồ ạt như bây giờ. Dĩ nhiên trước đó, đời sống của họ rất thuần thục và rập y theo khuôn mẫu của nền giáo dục Trung Hoa. Phải thành thật mà nói rằng: Nếu không có văn hóa của Phật Giáo du nhập vào Nhật Bản ở thế kỷ thứ 7, lúc bấy giờ Thánh Đức Thái Tử lấy tam quy ngũ giới của Đạo Phật làm hiến pháp để chăn dân, trị nước, thì ngày nay người Nhật Bản đã không phải là người Nhật Bản trong hiện tại rồi. Người Nhật Bản của thế hệ hiện tại là người Nhật Bản biết quý trọng giá trị cổ truyền đem dung hòa với cái học thuật Âu Mỹ để đưa xã hội họ vào đời sống tinh thần có chiều hướng phát triển thuận chiều chứ không phải nghịch lý. Điều nầy chỉ nhắm đến đại đa số của quần chúng, tín đồ; chứ không nói riêng một nhóm, một tông phái nào cả. Đây cũng là một đặc trưng quan trọng của tinh thần người Nhật. Ví dụ Đại Hàn và Việt Nam là 2 điển hình. Cả 2 nước nầy Phật Giáo cũng là một tôn giáo lâu đời nhất, nước thì được truyền vào cuối thế kỷ thứ 2; nước thì cuối thế kỷ thứ 5; nhưng khi Thiên Chúa Giáo đến, họ chấp nhận Thiên Chúa một cách rất dễ dàng hơn là Nhật Bản. Câu hỏi tại sao có lẽ phải hỏi nhiều lần cho nhân dân Nhật Bản và người Việt Nam cũng như người Đại Hàn phải trả lời lấy. Nếu nói giáo lý của Đạo Phật không còn thích nghi nữa với người Việt Nam và Đại Hàn cũng không đúng. Nếu nói vậy, tại sao giáo lý của Phật Giáo lại thích hợp với Nhật Bản. Điều nầy có lẽ ảnh hưởng bởi dân tộc tính của từng nước nhiều hơn. Ví dụ như Đạo Phật phát xuất từ xứ Ấn, mà ngày nay Đạo Phật tại Ấn chưa đến 1%. Điều ấy không có nghĩa là giáo lý của Đức Phật không phù hợp với dân tộc Ấn, mà trái lại cái tình tự dân tộc, cái văn hóa lâu đời đã ảnh hưởng không nhỏ với dân tộc họ khi tin tưởng theo một đạo nào. Nghĩ lại cũng đáng lưu tâm. Đạo Phật tại các xứ Á Châu khác hay ngay cả Âu, Mỹ, Úc, Phi Châu ngày nay phát triển một cách rầm rộ, trong khi đó tại Ấn thì không. Đạo Thiên Chúa cũng thế. Ngày nay tại thánh địa Do Thái, nơi mà Chúa sinh ra, có nhiều người tin Chúa bằng ở Mỹ, Âu, Úc, Á, Phi không? Kể cũng là một điều lạ; nhưng sự giải thích có nhiều lý do riêng lẽ của nó. Trong các chùa tại Nhật hay những nghĩa địa công cộng đều có dựng tượng Địa Tạng. Đây là hình thức cầu nguyện cho những linh hồn chết yểu khi mới sinh. Trước các tượng Địa Tạng nầy người ta hay cúng bánh trái, hoa hương đèn cầy v.v... nhằm cầu nguyện cho những vong linh nầy siêu thoát. Mỗi vong linh là mỗi tượng Địa Tạng; nên hầu như ở bất cứ vườn chùa Nhật Bản nào cũng có thờ nhiều tượng Địa Tạng. Người Nhật cũng quan niệm rằng: Chết không phải là hết. Do vậy mà sự cầu nguyện để được tái sanh thường hay lặp đi lặp lại đời nầy qua kiếp nọ, trở thành một thói quen của dân tộc nầy. Sau khi Phật Giáo du nhập vào Nhật Bản vào thế kỷ thứ 6, thứ 7 sau Tây Lịch, tại Nhật chưa có tôn giáo nào rõ ràng, ngoại trừ nhân dân tin vào vác vị thần linh như sấm sét, mặt trời, gió, núi v.v... Sau thời kỳ Phật Giáo phát triển mạnh vào giai đoạn thế kỷ thứ 7 đến thứ 13, các vị quân vương cũng muốn sáng chế ra cho mình, cho triều đình và cho dân chúng một Tôn Giáo mới để dễ bề cai trị gọi là Thần Đạo "Shinto". Đây là một sự lặp lại các quy cũ như của Khổng Giáo tại Trung Quốc; nhưng mang nhiều sắc thái của Nhật Bản hơn. Điều nầy cũng giống như Anh Giáo của Hoàng gia Anh, Chính Thống Giáo của Nga hoàng. Các vị vua chúa thời xưa, đa phần đều nghĩ rằng mình thay trời để trị dân, nên có nhiều quyền thưởng phạt trong tay và hơn thế nữa, rất hiện thật; nên nhiều ông Vua, bà Nữ Hoàng cứ tưởng mình là thần linh, nên đã bắt dân chúng tin theo và tung hô như là một vị Thần thực tế. Những gì giả danh nhưng cứ lặp đi lặp lại hoài cũng sẽ trở thành sự thật; nếu người đời sau không kiểm chứng lại những việc làm đã qua. Các chủ nghĩa trên thế gian nầy biến đổi qua nhiều thời đại khác nhau. Từ chủ nghĩa thần linh gồm có đa thần, tiến lên chủ nghĩa cộng đồng, chủ nghĩa quân chủ chuyên chính rồi biến thể qua chủ nghĩa quân chủ lập hiến, rồi cộng hòa, rồi dân chủ, rồi xã hội, rồi xã hội chủ nghĩa, rồi tư bản chủ nghĩa v.v... Các chủ nghĩa nầy cứ thay đổi hoài; nhưng lý thuyết của các Tôn Giáo nhất là Phật Giáo chưa bao giờ thay đổi cả và tồn tại suốt cả một chiều dài lịch sử hơn 2.500 năm, nhất là vấn đề tái sanh cũng như thuyết nhân duyên và nghiệp lực. Cho hay cái gì nó hợp với lòng dân thì tồn tại lâu dài, cái gì không thích hợp, tự nó qua thời gian cũng phải bị thay đổi. Riêng Phật Giáo, không những còn tồn tại vững vàng mà ngày nay còn phát triển một cách rất có quy cũ tại các nước ở Âu Châu, Mỹ Châu, Úc Châu và ngay cả Phi Châu trên quả địa cầu nầy. Cây Phật Giáo phát xuất từ Á Châu, rễ được mọc tại quê hương ở Ấn Độ, thân cây giác ngộ ấy tăng trưởng tại Á Châu, rồi đâm chồi nảy lộc, ra hoa kết trái tại Âu Mỹ ngày nay. Đó là kết quả của một giáo lý thực nghiệm, không sai trái với thuyết nhân duyên sanh. Vì Đức Phật là một bậc đại trí tuệ siêu phàm, cho nên dưới cái nhìn của Ngài, không có gì có thể phản bác lại được, mà trái lại ngày nay khi khoa học càng tiến bộ chừng nào thì giáo lý của Phật Giáo càng được làm sáng tỏ tính cách hợp lý chừng ấy. Đây là điều mà mọi người con Phật rất vui mừng cũng như tin tưởng vào giáo lý siêu việt giải thoát của mình đang tin theo. Người Nhật không bắt buộc có bảo hiểm xã hội và bảo hiểm sức khỏe như người Âu Châu trong hiện tại, mặc dầu Nhật Bản là một xã hội rất tân tiến. Do vậy khi bị đau ốm tốn kém vô cùng. Khi Tổng Thống Clinton tranh cử chức vụ này để được vào tòa Bạch Ốc, ông ta cũng đã hứa là sẽ tổ chức xã hội và y tế giống như mô hình của Đức; nhưng đến nay đã hơn một nhiệm kỳ rồi, ông ta cũng đã chưa thực hiện trọn vẹn được lời hứa ấy cho nước Mỹ. Ở đây ai đau bịnh chở vào nhà thương, điều đầu tiên không phải bị hỏi về bịnh tình mà hay bị hỏi về việc có bảo hiểm sức khỏe hay không? Ở Âu Châu không như thế, họ cứu người quan trọng hơn là phương tiện. Ở Á Châu, nhất là Nhật, vấn đề bảo hiểm sức khỏe không có tánh cách bắt buộc như ở Đức. Do đó khi bị bịnh nằm xuống quả thật tốn kém vô cùng. Có nhiều người giàu có; nhưng qua một cơn bịnh, tan gia bại sản. Trong khi những người nghèo không có bảo hiểm sức khỏe là điều nan giải vô cùng. Từ lý do nầy có nhiều người đành ở nhà để chết, chịu đau đớn, chứ tiền đâu ra để chữa bịnh. Ở Nhật, người chết cũng có thể quàn tại gia, nếu nhà cửa của người chết rộng rãi. Tại đây không bắt buộc đem vào nhà quàn hay nghĩa địa để làm lễ, mà tất cả các lễ nghi đều được thực hiện tại chùa. Nếu người mất là một Phật Tử thì các nghi lễ sẽ được chuẩn bị như sau:Tang chủ điện thoại đến chùa mời Thầy đến nhà để cúng. Đặc biệt là quan tài chỉ đưa về nhà trước đó một đêm để tụng kinh mà không để lâu như ở Việt Nam hay Trung Quốc. Đêm đó gọi là Ostsuja -nghĩa là "thông dạ" qua đêm- cũng có nghĩa là suốt đêm đó gia quyến sum vầy để tế lễ hương linh và ngày mai sẽ đưa đám.Chung quanh quan tài có để những cây đèn điện, trên quan tài có để hoa tươi và trước quan tài có để lư nhang cũng như hình của hương linh. Ở Nhật người ta đốt nhang bột hoặc nhang cây nhưng không có cộng ở giữa như Việt Nam và Trung Hoa. Mỗi người lên viếng hương linh đều đốt nhang hiến cúng, lễ nầy gọi là lễ thiêu hương và những người đến thăm đám tang thường hay chia buồn với tang chủ bằng 3 chữ: "Ngự sầu thương" (Goshùsho). Mọi người đều mặc đồ đen, chứng tỏ sự đau buồn với tang quyến. Ngay cả tang chủ cũng mặc đồ đen từ áo cho đến quần, cà-vạt, giày, mũ, găng tay v.v... Tục lệ nầy người Nhật hoàn toàn bị ảnh hưởng bởi người Âu Châu, có lẽ là sau cuộc sửa đổi cải cách của vua Minh Trị Thiên Hoàng vào năm 1868. Đám cưới họ cũng mặc đồ đen, ngoại trừ cô dâu mặc đồ trắng. Ngày nay tất cả lễ tại Nhật đều như vậy. Tất cả đều giống nhau; không một ai ra ngoài thông lệ ấy. Riêng người Việt Nam chỉ quy định nơi tang chủ có người mất chứ chưa ra đến người ngoài. Ví dụ ở Việt Nam tất cả gia đình tang chủ đều mặc đồ trắng khi có đám tang; nhưng những người đi đưa tang không nhất thiết phải mặc đồ trắng. Còn đi đám cưới lại muôn màu, muôn vẻ khác nhau. Nhìn một dân tộc đi vào nề nếp có lẽ nên nhìn ở nhiều phương diện, mà cách ăn mặc là một.Người Nhật ít khóc khi đưa đám như người Việt hay người Hoa. Tuy cũng là người Á Châu; nhưng những phong thái của người Nhật ngày nay đa phần giống Âu Mỹ, mặc dầu còn một số phong tục tập quán đẹp họ giữ gìn lại; ngoài ra bị Âu Mỹ hóa rất nhiều, ngay cả ngôn ngữ. Tại Nhật hầu như 99,99% là thiêu, dĩ nhiên còn 00,01% là chôn. Đó là những vị Vua, Hoàng Hậu, Đại Tăng v.v... Vì lẽ tại Nhật đất đai rất hiếm, người đông, do vậy mà thiêu là đúng nhất và rất hợp vệ sinh.Quan tài sẽ được đưa lên xe đến lò thiêu. Tại Nhật có rất nhiều lò thiêu và lò thiêu rất lớn, mỗi lò có thể thiêu một lần cả 50 đến 100 người. Mỗi lần thiêu độ 1 tiếng đồng hồ cho người lớn và 30 đến 45 phút cho trẻ em. Khi quan tài được đưa vào lò thiêu, thân nhân và người đi đưa đám đứng ở trước nơi thiêu để tụng kinh trong vòng 1 tiếng đồng hồ ấy. Nếu là Thiền Tông thì sẽ trì tụng Bát Nhã và Tứ Hoằng Thệ Nguyện. Nếu Tịnh Độ Tông hoặc Tịnh Độ Chơn Tông thì tụng kinh Di Đà, niệm Phật.Nếu Mật Tông thì trì chú và tụng vãng sanh.Sau 1 tiếng đồng hồ ấy bửng nâng quan tài sẽ được kéo ra, bấy giờ chỉ còn có xương, ngoài ra không còn một vật gì khác. Mỗi người mỗi loại xương khác nhau. Người thì trắng, kẻ thì đen, người thì màu nâu, kẻ màu nhạt. Tất cả đều do nhân duyên và nghiệp lực của mình gây tạo trong đời, mà kết quả sẽ thể hiện vào lúc lâm chung nầy. Mọi người trong tang quyến dùng đũa để gắp xương còn lại sau khi thiêu bỏ vào hủ và cả gia đình mang hủ tro cùng xương ấy về chùa. Tại chùa cốt nầy sẽ được để 49 ngày hay một năm, sau đó đem cốt vào huyệt mộ gọi là lễ nạp cốt. Các cốt nầy sẽ để chung với cốt của ông bà cha mẹ đã quá vãng. Tại Nhật đất đai quý hơn vàng. Ví dụ tại Shinjuku, mỗi thước vuông đất, giá chừng 200 đến 500.000 $US, do vậy tất cả đều phải vén khéo. Ngay cả nơi ở lúc còn sống của người Nhật cũng phải vừa co giãn đủ chỗ chớ không có dư thừa. Vì đất chật, người đông. Trong khi đó chùa chiền lại có nhiều đất; nên trong vườn chùa là một nghĩa địa. Ở Việt Nam cũng vậy; nhưng nghĩa địa ở Nhật chỉ chôn toàn cốt đã thiêu, chứ không phải chôn luôn cả quan tài như tại Việt Nam. Tại Nhật, ở những nhà mồ của mỗi gia đình như thế thường hay xây nhiều tầng dưới lòng đất, đến khi có người mất, lại để cốt vào, rất đơn giản, sạch sẽ và ngăn nắp. Sau khi đi đám ma về, mọi người sẽ được mời dự một đại yến. Tiệc nầy dùng để tẩy rửa những gì xấu xa nên mất đi. Do vậy mà những gì buồn thảm trong những ngày tang chế lại trôi qua một cách nhanh chóng. Điều nầy người Nhựt khác với người Trung Quốc và Việt Nam. Người Việt Nam và Trung Hoa nếu trong thời gian tang chế 3 năm ấy có ai mời cưới hỏi, về nhà mới, khai trương cửa tiệm, sinh nhật v.v... đều không tham dự, lấy lý do là đang cư tang cho cha hay cho mẹ, cho chồng hay cho vợ, nhiều lắm là gởi thiệp hoặc quà tới nhà người thân để tặng thôi.Người Trung Hoa sau khi dự lễ tang chỉ tặng mỗi người một sợi chỉ đỏ, tượng trưng cho hồng phước sẽ đến với người mình chúc. Một cây kẹo tượng trưng cho sự ngọt ngào, xả đi bao phiền trược của thế gian. Người Việt cũng không muốn cái xui xẻo ấy mang về nhà, nên sau khi đưa đám ma trở về, ở trước cửa nhà có để một chậu nước, trong ấy có để lá chanh, lá bưởi thơm tho, mà mỗi người trước khi vào nhà đều phải rửa tay, rửa mặt, tượng trưng cho những gì xấu xa, rủi rắm phải bỏ ngoài cửa. Cho hay mỗi dân tộc có một tập quán khác nhau và mỗi một quốc độ có một văn hóa khác nhau, do vậy mới có nhiều điều cảm thấy không thích hợp với dân tộc nầy mà lại thích hợp với dân tộc khác vậy. Người Phi Châu quan niệm về cái chết khác người Âu Châu. Người Mỹ Châu khác với người Á và người Úc Châu và trong khi đó cùng một Châu Á; nhưng người Ấn Độ quan niệm về cái chết khác với người Trung Hoa và Việt Nam; nhưng tất cả phải hiểu rằng: Chết là hết. Tất cả chỉ là giả danh, không có gì thực tướng cả. Ngay đến bản thân của chúng ta cũng chỉ do sự giả hợp của đất nước gió lửa mà thành. Cho nên không có gì là thật ngoại trừ bản thể chơn như của tâm thức. Chính cái tâm thức của mỗi người nó sai khiến chúng ta đi đầu thai, cao hay thấp, thiện hay ác, đều bị lệ thuộc vào dòng tư tưởng, sự hiểu biết ấy. Giác ngộ là Phật, Bồ Tát, La Hán. Nếu mê, thì đó là chúng sanh là phàm phu, tục lụy. Chỉ đơn giản thế thôi. Ở bất cứ tôn giáo nào, đất nước nào, phong tục nào đi chăng nữa cũng hướng con người vào nẻo thiện. Khuyên con người lúc sống cũng như trước khi chết phải tạo nhiều nhân duyên tốt đẹp, để khi thác sanh được đầu thai vào những thế giới cao hơn. Thế giới ấy có thể là Niết Bàn, Thiên Đàng, cõi giải thoát, cõi Hư Vô, Cõi Vô sanh, Cõi An vui tịch diệt v.v... tất cả đều là chân lý ; nhưng chân lý ấy hợp với mỗi đạo và mỗi người. Không có cái nào hơn cái nào, không có cái nào kém cái nào cả. Cuộc đời là gì nhỉ? Chẳng ai trả lời được câu hỏi nầy cho trọn vẹn. Vì nó đa diện. Dưới mắt một người tu, họ sẽ trả lời khác. Dưới mắt nhà nghệ sĩ, nhà kinh doanh v.v... chắc chắn sẽ có nhiều nhận thức khác nhau; nhưng ít ai nắm vững được bản chất vô thường của nó. Nó giống như điện chớp, như sương sa, như gió thoảng, như mưa bay... không có một ý nghĩa gì cả. Một người khi sinh ra bằng 3 tiếng khóc chào đời; lớn lên bằng sữa mẹ, bằng cơm cháo. Sau đó ăn học và vào đời lập nghiệp để rồi tranh danh đoạt lợi, cốt thỏa chí tang bồng. Người được, kẻ không; người thất bại liên tục, kẻ thành công hùng vĩ. Có người giàu có thì vui, lo thủ thế để kiếm lợi. Người nghèo thì buồn chán, tự tử quyên sinh hoặc thất vọng đi vào với con đường hút sách, vui say với men rượu... Tất cả chỉ là hình tướng. Tất cả chỉ là giả danh; nhưng khi còn đang sống có ai hiểu được việc nầy chăng? hay dẫu có hiểu đi chăng nữa; nhưng lúc nào cũng lo thủ, để rồi một ngày nào đó xả báo thân nầy cũng đâu có mang được gì theo, ngoại trừ cái tâm thức, vốn không muốn mang theo, nó cũng cứ theo ta hoài. Giờ đây nghĩ lại chuyện vô thường mà ngán ngẫm, ngán cho tình đời nghĩa đạo, ngán cho kiếp nhân sinh. Sống ở đây hay ở đâu đó trên quả địa cầu nầy không ra ngoài ngũ dục. Đó là tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống và ngủ nghỉ. Mọi tiện nghi ngày nay có được của con người, đều phục vụ cho năm thứ nầy. Trong khi đó phần tâm linh của chúng ta thì như thế nào? hầu như bị bỏ trống, bỏ rơi trong quên lãng của vô tình mà nhiều khi cũng có phần cố ý nữa. Nhiều người không nghĩ rằng mình phải chết ở bất cứ một thời điểm nào đó, cho nên mãi say mê với danh với lợi, với quyền thế bạc vàng; nhưng cuối cùng những loại nầy cũng giống như ông Trưởng Giả có 4 người vợ đã trình bày bên trên thôi. Những người mình thương nhất, cuối cùng họ sẽ là những người xa mình trước nhất; những thứ mình không ưa nhất, như nghiệp lực và nhân quả, trái lại nó lại gần gũi mình nhất. Đó là một định luật, nhân nào quả nấy; nhưng rất hiếm người lưu tâm,chỉ đến khi nào hữu sự, lúc ấy mới la hoảng như chữa cháy. Khi cháy xong rồi cũng lãng quên luôn, lo huân tập những nghiệp lực khác, chứ ít ai lo vun bồi phước đức nhiều hơn tạo nghiệp. Do vậy mà mới sanh tử luân hồi, mới triền miên trong cảnh khổ của thế nhân. Trong kinh điển Phật Giáo thường hay ví dụ về ngũ dục với câu chuyện điển hình như sau: "Có một người đang bị con voi dữ rượt chạy, anh ta đến một miệng giếng hết đường thoát thân, do vậy mà anh ta nương theo dây để leo xuống giếng nhằm tránh voi dữ; nhưng khi gần tới đáy giếng rồi thấy mấy con rắn nên chẳng dám xuống; trong khi đeo chơi vơi với rễ cây, anh ta ngước đầu nhìn lên thấy 2 con chuột, một đen và một trắng đang gặm sợi dây mà anh ta đang bám víu vào đó. Bỗng nhiên từ đâu một bầy ong bay lại, nhỏ vào miệng anh ta 5 giọt mật; anh ta lấy lưỡi liếm những giọt mật ngọt lịm ấy và quên đi những gì đang vây hãm chung quanh mình". Câu chuyện chỉ có thế, nhưng nếu giải thích ra thì rất lý thú. Con voi dữ tượng trưng cho sức mạnh của sanh tử. Hai con chuột trắng đen tượng trưng cho thời gian ngày và đêm. Rễ cây tượng trưng cho sự vô thường. Rắn độc tượng trưng cho nghiệp lực và 5 giọt mật tượng trưng cho ngũ dục tài, sắc, danh, thực, thùy. Cuộc sống của chúng ta cũng đều giống hệt như vậy. Chỉ vì mật ngọt trong chốc lát, chúng ta quên đi các cảnh khổ trong cuộc đời cũng trong chốc lát thôi; nhưng sau khi mật hết, cái khổ vẫn còn chung quanh mình. Đó là nghiệp lực, đó là nhân quả luân hồi. Nếu chúng sanh nào cũng liễu ngộ được điều nầy thì việc tinh tấn tu hành để cầu giải thoát không còn khó khăn nữa; chỉ có những người hiểu mà không làm, hoặc giả cố tình làm ngơ thì bao giờ cũng còn phải gặp nhiều gian truân trong vòng sanh tử tử sanh mà thôi.Nhưng đặc biệt một điều, mọi tông phái của Phật Giáo Nhật Bản đều chủ trương: "tức thân thành Phật" nghĩa là: ai chết rồi cũng sẽ thành Phật. Dĩ nhiên là Phật Giáo Nhật Bản cũng có tin luân hồi; nhưng trong nghiệp nầy ai làm thiện, kiếp sau sẽ không bị luân hồi sanh tử nữa, mà sẽ được chứng quả Niết Bàn. Cũng như Nhật Liên Tông (Nichirenshyu) họ tin rằng: Đức Phật Thích Ca đã nhập diệt từ lâu, chỉ có những vị Tổ mới là hiện thân của Phật. Từ lý do nầy Nhật Liên Tông của Nhật Bản thờ Tổ ngay giữa chánh điện, còn Phật không có hình tượng nào cả hoặc nhỏ hơn Tổ, hoặc chỉ còn câu kinh duy nhất lồng vào bài vị: Nam Mô Diệu Pháp Liên Hoa Kinh. Đây là việc làm có chủ trương của các vị Tổ; hoặc giả người đời sau nương theo ý Tổ để đưa Tổ lên địa vị Phật, mà đa phần các tông phái Phật Giáo Nhật Bản đã làm. Nhật Liên Tông hay tụng phẩm thứ 2 về Phương Tiện và phẩm thứ 16 về Như Lai Vô Lượng Thọ của kinh Diệu Pháp Liên Hoa và họ nghĩ rằng thời hiện tại chỉ có Ngài Nhật Liên là vị Phật của Phật Giáo Nhật Bản mà thôi. Riêng Tịnh Độ Tông và Tịnh Độ Chơn Tông của Phật Giáo Nhật Bản có thờ hình tượng Đức Phật A Di Đà, Quan Âm, Thế Chí ngay tại chánh điện; nhưng Tổ Đường của Ngài Thân Loan Thánh Nhơn (Shinranshònin) vị khai sáng Tông nầy cũng to bằng hoặc đôi khi lớn hơn chánh điện thờ Phật. Đây là tư tưởng của Phật Giáo Nhật Bản khác với Phật Giáo Trung Hoa và Việt Nam. Nơi chánh điện, nơi trang nghiêm thanh tịnh nhất, bao giờ cũng dùng để thờ Phật; còn chư vị Tổ Sư luôn luôn thờ phía sau Phật và khiêm nhường hơn. Vì đó là cái đức mà chư Tổ vốn khi còn sống rất khiêm cung, cũng lấy Phật làm bậc Thầy, soi đường chỉ lối, chứ tự thân các Ngài, nếu không có Phật và giáo lý của Đức Phật, các Ngài cũng không làm Tổ được.Đa phần Phật tử Nhật Bản cũng quan niệm "tức thân thành Phật" như thế; nên những giới thể căn bản của người tại gia hầu như không được hành trì. Ngay cả chư Tăng Ni cũng không lấy giới luật làm đầu, mà ở Nhật Bản trong hiện tại lấy phương tiện hành Bồ Tát đạo làm đầu trong sự tu học của mình. Điều nầy đúng hay sai cũng khó kết luận. Vì như trên đã trình bày, mỗi một dân tộc, một quốc độ có một phong tục, tập quán khác nhau. Rồi mai đây, Phật Giáo được truyền vào Âu Mỹ một cách sâu rộng, tư tưởng nầy cũng sẽ bị biến thể nữa để phù hợp với căn cơ và trình độ của chúng sanh ở những quốc độ theo chủ nghĩa tự do nầy. Quả thật cũng khó lường về hậu quả của những tư tưởng nầy; nhưng đây là một vấn đề thực tế mà những người có trách nhiệm với mạng mạch của Phật Giáo cần phải lưu tâm. Sau khi thiêu, người Nhật không làm tuần thất như người Việt Nam và Trung Quốc, mà cứ mỗi năm đến ngày giỗ họ hay tới chùa hoặc mời Thầy về tư gia để cúng. Họ cúng chừng vài năm như thế thì nghỉ và cứ 10 năm, 25 năm, 50 năm, 75 năm và 100 năm họ cúng một lần. Đây cũng là hình thức để nhớ ơn tổ tiên và đời đời con cháu phải lấy cái đức độ của ông bà để noi theo. Tại Nhật mỗi năm có 3 lễ lớn của Phật Giáo, đó là lễ Bỉ Ngạn (Higan) vào mùa Xuân từ 21 đến 28 tháng 3 và mùa Thu vào ngày 21 đến 28 tháng 9. Ngoài ra lễ Vu Lan cũng là một đại lễ rất quan trọng của Phật Giáo Nhật Bản được cử hành vào ngày 15.7 dương lịch. Ngoài 3 lễ ấy ra có một lễ lớn khác, đó là Tết Nguyên Đán. Lễ nầy người ta ít đi chùa như ở Việt Nam mà hay đi đến đền thờ của vua chúa để xin xăm. Đây là một tục lệ đã có từ ngàn năm tại Nhật Bản. Tuy vua chúa trong hiện tại không còn là hiện thân của quyền lực nữa; nhưng người Nhật đã làm việc nầy như một thói quen, cũng như việc cưới hỏi, tuy không là con chiên của đạo Thiên Chúa nhưng họ mang vào nhà thờ để làm lễ như vậy.Người Nhật Bản cũng có nguồn gốc văn hóa phát xuất từ Trung Hoa, họ chỉ sửa đổi một ít để phù hợp với tinh thần của dân tộc họ và điều đó cũng là một điều dễ hiểu, khi các dân tộc Á Châu hoặc Âu Châu muốn thoát ra khỏi chư hầu của các đại quốc như Trung Hoa hay Pháp, Ý.v.v... Ngày xưa khi kỹ nghệ chưa phát triển, con người vốn còn cuộc sống thô sơ với nông nghiệp. Con người có nhiều thì giờ với nội tâm hơn. Còn ngày nay, tất cả đều chạy theo thời giờ. Cũng vì thời gian không có nên mọi lễ nghi cũng rất đơn giản, không trang trọng như ngày xưa. Tất cả đều làm cho có lệ. Vì xưa bày nay bắt chước. Không còn tính cách thiêng liêng nữa. Có nhiều nơi bị thương mại hóa rất nhiều, ngay cả đám tang. Thật là đau lòng. Không biết rằng văn minh vật chất càng tiến đến đâu nữa và lúc ấy con người sẽ ra sao, khi đời sống tâm linh của con người, càng ngày càng bị chôn vùi vào trong quên lãng. Cũng vì lý do hiện đại hóa, kỹ nghệ hóa đó mà người Nhật ngày nay các lễ nghi cũng bị ảnh hưởng rất nhiều. Ví dụ một tuần lễ Vu Lan, một tuần lễ Higan vào mùa Xuân và một tuần lễ Higan vào mùa Thu chư Tăng Ni tự động đi đến nhà Phật Tử để tụng kinh cầu nguyện, mà không cần có lời thỉnh mời của đàn gia, tín đồ. Điều nầy trở thành một nghiệp vụ của người tu tại Nhật. Lễ Higan tiếng Việt được hiểu là Lễ Bỉ Ngạn. Điều ấy có nghĩa là: Khi con người còn ở thế giới Ta Bà đau khổ nầy gọi là Thử Ngạn, tức bờ bên nầy. Còn Bỉ Ngạn có nghĩa là bờ bên kia. Nơi đó chỉ toàn là giải thoát, chứ không còn khổ đau nữa. Như vậy người Nhật vẫn tin luân hồi, giải thoát sinh tử; nhưng chỉ một đời thôi: giống như tư tưởng của Thiền Tông: "Tu nhất kiếp, ngộ nhất thời" là vậy. Mùa Vu Lan là mùa báo ân báo hiếu. Do vậy những dân tộc nào ảnh hưởng với văn hóa Trung Hoa, mà nhất là văn hóa của Phật Giáo, không thể không tổ chức lễ tưởng niệm đến ân đức sanh thành của mẹ cha được. Đó là một bổn phận. Do vậy người Nhật, Phật Tử cũng như không Phật Tử luôn luôn cử hành ngày Vu Lan rất trọng đại. Mọi người đều đi chùa và thăm mộ của thân nhân. Ở đây sự tích Ngài Mục Kiền Liên dùng đạo nhãn để đi tìm mẹ nơi địa ngục không còn ảnh hưởng mạnh như tại Trung Quốc và Việt Nam nữa; nhưng ngày Vu Lan là ngày mà con cái phải nhớ đến cái đức hiếu sinh của ông bà cha mẹ mà vun bồi tiếp tục trong cuộc sống hằng ngày của mình. Có nhiều năm lễ Vu Lan bầu trời tại Đông Kinh, nhất là những nơi có chùa chiền khói hương mù mịt, bay tỏa rộng cả một vùng, mùi thơm ngào ngạt. Người Nhật ngày nay tuy sống trong một xã hội văn minh cơ giới; nhưng những gì thuộc về truyền thống lâu đời; nhất là truyền thống của Phật Giáo, họ không bao giờ bị lãng quên. Thời giờ có eo hẹp đó, hoàn cảnh có khác nhau đó; nhưng đã là nề nếp tốt, người Nhật vẫn trân quý giữ gìn. Chương nầy viết về sự sống chết và các nghi lễ đối với người Phật Tử Á Châu, đặc biệt là Trung Hoa, Nhật Bản và Việt Nam, chắc chắn rằng khác xa với cái chết theo người Tây Tạng đã diễn tả trong một số sách vở. Mặc dầu cũng là những nước theo Phật Giáo; nhưng mỗi nước có một truyền thống khác nhau, nên nước nầy quan niệm không giống những nước khác cũng là một việc rất bình thường. Lẽ ra sách nầy sẽ được chấm dứt ở chương nầy; nhưng chúng tôi muốn quý độc giả đọc thêm một chương nữa về lễ nhập tháp của chư Tăng Ni sau khi viên tịch, để chúng ta có một cái nhìn kỹ hơn về những hiện tượng chết của con người.