Chương 8

    
nh Đấu đã trở về ngay tối hôm ấy và chú Chín đi thoát. Bởi vì hôm qua, sau khi thả trâu, tôi luồn vô lùm trâm bầu thì, nhặt được một nhánh trâm bầu tươi để lại trên đệm cỏ. Tôi vui mừng quá. Nhánh trâm bầu đó đã kín đáo báo cho tôi biết hai người đã rời khỏi đây một cách an toàn. Chiều hôm ấy, tôi khoái chí hát nghêu ngao, và tôi cầm cả nhánh trâm bầu về để báo cho Biếc mà cùng mừng với tôi.
Tôi có ngờ đâu, ngay lúc đó một tai họa dang đợi tôi ở nhà. Mọi sự tưởng đã trót lọt, không dè chiều đó, con Len ra chòi xét coi khạp gạo thấy số gạo của chúng tôi hụt đi một cách đáng ngờ. Khi tôi đưa trâu về tới chòi thì con Len đã gọi thằng Hoành ra. Thấy tôi về, thằng Hoành kêu:
- Ê, thằng kia lại tao biểu!
Tôi mới từ lưng trâu thót xuống, tên Hoành đã nhảy tới xách tai tôi:
- Đ. mẹ, tụi bây lấy gạo nấu cơm cho ai ăn?
Tôi liếc nhìn em Biếc và Thắm bấy giờ đứng nép sợ hãi bên chòi. Tôi tin chắc là chưa có em nào khai ra, nên trả lời tên Hoành:
- Tụi tôi có nấu cho ai ăn đâu!
- Tại sao còn ba bốn bữa nữa mới hết tháng mà số gạo đong cho ba đứa bây đã hết trọi rồi hả?
- Gạo mà hụt như vậy là tại tôi, tại tôi ăn bữa nào cũng đói, nên mấy đứa nó nấu rấn thêm...
Tôi đã lựa được một câu trả lời rất có lý. Tên Hoành buông tai tôi ra, nhưng dúi mạnh tôi ngã xuống đất, giọng hầm hè bực tức:
- Đ. mẹ, mày nói tao chưa tin đâu. Được rồi, tao sẽ ra chòm trâm bầu liền bây giờ. Tao mà gặp Chín Khẩn ngoài đó thì tao bắn mày!
Tôi lẳng lặng ngồi dậy, nghĩ bụng: "Cho mày kiếm, kiếm mãn đời mày cũng không có!" Tên Hoành nói xong dắt thêm mấy tên biệt kích đi ngay, mặc dù lúc đó trời đã sụp tốt. Em Biếc rất lo lắng, vì em không biết chú Chín đã rời khỏi lùm trâm bầu chưa. Tôi liền nói cho em biết là chú Chín đã đi rồi, tui nó có đi kiếm cũng mất công thôi. Tôi đưa nhánh trâm bầu cho Biếc coi và nói thêm:
- Nhánh trâm bầu này lá đã héo chắc chắn là anh Đấu đã đưa chú Chín hồi hôm. Tụi nó có rượt theo cũng không kịp, với lại tụi nó có biết hai người đi lối nào mà rượt?
Em Biếc yên tâm mò ra rẫy bới một ít khoai môn về luộc ăn, vì gạo chúng tôi còn lại một ít đều đã bị con Len vét ráo. Con Len nói từ đây đến cuối tháng sẽ bỏ cho chúng tôi nhịn đói. Chúng tôi ngồi thu lu trong chòi ăn những củ khoai môn luộc trộm. Biếc nhường cho tôi tới ba củ trong số năm củ. Chúng tôi ăn khoai xong, lăn ra ổ rơm nằm. Tôi bắt chước anh Đấu lén ra giồng thuốc, hái mấy lá thuốc héo về vấn hút. Dạo này tôi hút thuốc đã biết ngon mới chết chớ. Em Biếc cứ rầy rà tôi về vụ hút thuốc, bảo rằng tôi còn nhỏ mà bày đặt hút làm chi. Tôi chỉ cười mà vẫn hút chớ không chừa được.
Tôi nằm phì phào chưa hết nửa điếu thuốc thì thằng Hoành về. Nghe tiếng chân giầy của bọn chúng, tôi nhổm dậy, dụi tắt thuốc. Lát sau tên Hoành sục vào chòi, kéo áo lôi tôi ra:
- Ê, tao kiếm gặp chỗ Chín Khẩn ngoài lùm trâm bầu rồi!
- Chỗ nào tôi đâu có biết?
- Tại sao ở ngoài đó có chỗ cỏ bị rạp xuống hả? Phải thằng Đấu đem dấu Chín Khẩn nơi đó rồi kêu mầy đem cơm nước ra cho Chín Khẩn không?
Thiệt tôi cũng không ngờ bọn tên Hoành tìm ra vuông cỏ mà tôi đã dọn cho chú Chín nằm. Hắn nói trúng phong phóc hết, nhưng tôi biết tất cả cũng đều là do hắn đoán ra rồi truy tôi chớ không nắm được bằng cớ gì hết. Tôi vẫn nói:
- Tôi không biết chỗ ông nói là chỗ nào, chớ mọi bữa thả trâu tụi tôi cũng hay vô đó nằm chơi. Chắc là ông ngó thấy chỗ mấy đứa tôi nằm rồi đó!
- Nằm chơi gì ở tận trong hốc. Đ.m., thằng nhỏ này nói láo. Nhất định nó có dính vô vụ cứu Chín Khẩn, tụi bây cứ lôi đầu nó ra bắn bỏ cho tao!
Tên Hoành la lên, và một tên khác đẩy tôi ra sân chòi, chĩa thẳng mũi súng cạc-bin vô ngực tôi và bắt đầu đếm:
- Một, khai ra mau!
- Đ.m., tao mà đếm tới ba là mầy rồi mạng nghe mày nhỏ!
Trong khi đợi tên biệt kích đếm tới ba, tôi tự hỏi không lẽ nó bắn tôi thiệt, lẽ nào tôi lại chết trong buổi chạng vạng này. Nhưng tôi cũng hết sức hồi hộp, vì đối với bọn biệt kích, chúng nó có thể giết chết một mạng người không cần phải tính toán lâu. Em Biếc và Thắm sợ quá thét lên. Tôi cương quyết không hé miệng, bởi tôi nghĩ nói ra một việc đã xong hết cả rồi thì nói để làm gì, nói để chúng không bắn tôi chết ngay nhưng rồi sẽ tra tấn đánh đập tôi dai dẳng rốt cuộc cũng đến chết mà thôi.
Tên biệt kích đếm tới ba. Tôi đứng trơ trơ. Hắn bóp cò nghe cái "rốp". Tôi giựt mình, rồi khi biết rõ là hắn chưa cho đạn nhảy lên lòng lửa, tôi buồn cười quá nhoẻn cười. Tên biệt kích ngó thấy, hăm he:
- Đ.m., cười hả mầy, cười tao bắn thiệt cho mầy coi!
Nói là nói vậy chớ hắn cũng không bắn thiệt tôi. Hắn lên đạn hẳn hòi, rồi bóp cò hẳn hòi,nhưng phát súng chỉ nổ "đoàng" sát mang tai tôi. Thấy tôi vẫn đứng êm ru, tên biệt kích bất lực báo cáo với tên Hoành:
- Thằng nhỏ này quá gan, bắn sát bên tai mà nó cứ nín thinh!
Tên Hoành chạy tới thoi vô mặt tôi, lên gối và đá tôi. Tôi té xuống. Hắn dẫm đạp lên người tôi, hỏi dồn như kẻ say máu:
- Mày khai không, mày khai không?
- Tôi có biết gì đâu mà khai?
Hắn bước trở vô chòi, rút soạt cái lưỡi hái dắt trên mái chòi xuống, chạy ra kề lưỡi hái quấu vô mặt tôi.
Em Biếc và Thắm bụm mặt khóc hu hu. Tôi bị cái lưỡi hái quấu, máu chảy đầy mặt. Rồi tôi thấy nóc chòi vụt chao nghiêng, tựa như cái mui ghe bị lắc. Bóng em Biếc và Thắm cũng chao theo. Tôi không còn biết gì nữa.
Tôi ngất đi không biết bao lâu, lúc tỉnh lai thấy mình nằm trên ổ rơm, có em Biếc và Thắm ngồi bên cạnh. Hai em mừng rỡ thấy tôi mở mắt ra. Tôi thì thấy ngực đau lói. Biếc lấy áo của em, thấm nước, lau mặt cho tôi. Cái áo em dính đầy máu tôi. Tôi biết là tôi bất tỉnh không phải vì nhát lưỡi hái mà chính là vì những cái đạp của tên Hoành. Tôi hỏi:
- Tụi nó đi
- Đi rồi, anh xỉu thì tụi nó bỏ đi!
Biếc đáp lời tôi, nước mắt chảy ràn lụa. Tôi nghiến răng:
- Đừng khóc, anh không có sao đâu, anh sẽ giết chết nó!
Biếc vội bụm miệng tôi lại:
- Anh nói lớn, nó nghe thì chết!
Rửa sạch máu me trên mặt tôi, Biếc lấy chiếc áo vải xiêm dài tay xỏ mặc cho tôi. Bấy giò tôi mới khóc. Tôi khóc không vì đau đớn mà vì cảm động thấy Biếc thương tôi lo cho tôi quá. Với lại khi Biếc vừa mặc cho tôi chiếc áo do chính má tôi may, tự nhiên tôi nghĩ sao má tôi, hay chị Hòa tôi, cô tôi, hay em Biếc em Thắm đây đối với tôi trìu mến thương yêu dường ấy, còn cớ sao Biện Tư bọn thằng Hoành lại đối với tôi ác độc dường ấy.
Suốt đêm tôi không ngủ được, thỉnh thoảng lại thấy lói đau ở ngực. Còn vết thương do cái lưỡi hái thằng Hoành cứa nơi mặt cứ ri rỉ chảy máu, đau rát hết sức.
Biếc ngồi bên lau, chậm máu cho tôi tới khuya. Biết ngày mai thế nào em ấy cũng phải thay tôi đi chăn trâu, nên tôi nói: - Biếc đi ngủ đi, đưa cái áo đây tôi lau.
Nói mãi Biếc mới chịu đi ngủ. Tôi nằm, lát lát đưa cái áo Biếc lên thấm máu. Mỗi lần thấm máu ở mặt mình, cơn uất ức lại trào lên nghẹn ngang cổ họng. Tôi phải đè xuống, nén xuống, mà nghĩ rằng phải cố đè nén như anh Đấu đã từng đè nén uất ức một hai năm giữa nhà Biện Tư. Gần đây tôi hơi biết cái đó là cần, chớ không thể thí mạng mình ngay được. Cho nên ban nãy, khi thằng Hoành đánh đá, tôi ráng chịu. Tôi chịu đựng rất khó khăn vì cái ý định chống trả lại cứ trào lên, trào lên. Ban nãy, mấy lượt tôi đã tính đánh lại thằng Hoành, rồi thây kệ tới đâu thì tới nhưng sự thiệt nếu tôi hành động như vậy chắc là tôi đã chết. Tụi thằng Hoành có thể giết chết tôi mà không có tội vạ gì.
Nằm trong đêm tối với những vết thương đau nhức ê ẩm, tôi uất ức căm thù nhưng tôi cũng thấy bằng lòng và sung sướng vì mình đã làm tròn phần việc anh Đấu giao. Dẫu tôi có bị đánh đập thế này thì chú Chín và anh Đấu cũng đã thoát rồi. Đó là điều an ủi, điều phấn khơi nhất cho tôi. Lẽ dĩ nhiên là tôi cũng thấy mình sơ sót. (Phải chi tôi rà vuốt, dựng dậy chỗ vuông cỏ bị rạp ấy. Phải chi tôi chú ý hơn về việc nhà Biện Tư có thể slde; hái được đầy bao. Tôi quảy cà phê trở ra bìa trảng để coi bò ăn đã no chưa, bỗng tôi trông thấy trên trảng là một đàn bò khác chớ không phải đàn bò của tôi. Nhưng con bò lạ không biết của ai, đã ngang nhiên chiếm lấy vùng trảng xanh cỏ nhứt, còn bò của tôi thì bị dồn sang tận mé bên kia trảng. Tôi liền bỏ cái bao cà phê xuống, xách gậy chạy ra. Đến nơi tôi quơ gật đáng đuổi đàn bò lạ chạy nhốn nháo. Thình lình giữa lúc ấy, tôi chợt nghe tiếng chửi lớn rồi liền đó nghe hơi gió rít. Một viên đạn sỏi không biết từ đầu bắn tới, trúng chả vai tôi làm tôi đau điếng. Ngó về hướng có tiếng chửi, tôi thấy xuất hiện hai đứa trạc tuổi tôi đang cười rố lên cười vì viên đạn của chúng đã bắn trúng. Tôi nhìn kỹ, nhận ra một đứa lớn hơn tôi một chút, mặc áo chim cò, tay còn cầm cái nạng giàn thun, đang tiếp tục tra đạn định bắn phát nữa. Tôi giận sôi gan, nghĩ bụng "Đã cướp cỏ bò tao mà còn dám bắn tao, phải đập mấy thằng này một trận mới được!". Thế rồi bất kể viên đạn thứ hai của kẻ địch đang bay vù tới, tôi chạy lao thẳng lại chỗ thằng mặc áo chim cò, đấm vào mặt nó một cú đấm trời giáng Nó té ngã người trên cỏ. Tôi lập tức nhảy tới, giật lấy cái nạng giàn thun, đánh bồi thêm mấy cú nữa khiến cho nó tối tăm cả mặt mũi.
Thằng nhỏ cùng đi với nó tính xông vô tiếp ứng, liền bị tôi hốt chân, bế bổng cả người liệng trên bãi cỏ. Miếng đánh nầy là của anh Đấu dạy, lâu nay tôi luyện rất thuộc, nên hể tôi mà dừng thì coi như ăn chắc. Thằng nhỏ bị tôi liệng, quá sợ lồm cồm ngồi dậy, dãn ra, chớ không dám xáp vô nữa.
Tôi thấy thằng nhỏ này coi bộ nghèo, in dân chăn bò như tôi nên tôi không rượt theo, chỉ lo giữ chặt thằng mặc áo chim cò. Tôi đạp chân lên ngực thằng này, nghiến răng trèo trẹo hỏi:
- Mày là thằng nào, ở đâu mà dám cả gan tới đây đuổi bò tao, rồi còn bắn tao nữa, hả?
Nói mau, không tao đập chết luôn! Đã bị tôi dận chân lên ngực mà nó trả lời cà xốc:
- Tao là con chủ sở Nam Trung nè. Còn mày là thằng nào?
Tôi nghe nó nói càng thêm nổi xung, liền nắm tóc kéo lết đi:
- Mầy xưng là con của chủ sở hả? Tưởng con ai chớ con chủ sở thì tao mừng quá. Tao sẽ trói đầu mày bỏ tại đây cho ban đêm cọp ra ăn thịt mày chơi!
Day về phía thằng nhỏ mặc quần cụt rách đang bỏ chạy, tôi thét:
- Còn thằng kia trở lại đây tao hỏi. Mày mà chạy, tao giết thằng này!
Thằng nhỏ nghe tôi dọa, riu ríu quay lại. Tôi hỏi:
- Mày cũng là con của chủ sở phải không?
- Dạ không, tôi đi coi bò cho sở của anh này!
Thằng bé trỏ vào thằng mặc áo chim cò. Tôi nói:
- Tao tưởng mầy cũng là anh em với nó thì tao trói hai thằng luôn thể. Còn nếu mầy đi coi bò thì thôi, tao tha. Nhưng tao cấm mày mở trói cho nó. Tới chiều mầy cứ việc lùa bò về một mình, nghe chưa? Bây giờ mầy đi ra tháo một sợi giây vàm cho tao!
- Dạ thưa anh bò đi ăn đâu có giây vàm.
- Mấy con bò tụi bây cỡi đó mà không có giây vàm à?
Thằng nhỏ túng thế đành phải nghe lời tôi đi ra trảng tháo lấy một sợi giây vàm đem vô cho tôi. Tôi dùng sợi giây đó trói ghịt thằng con chủ sở Nam Trung vào gốc cao su ở bìa trảng. Rồi bỏ mặc nó ở đấy, tôi đi lùa bò tới những chỗ có cỏ ống cao lêu nghệu, cho bò ăn thiệt no.
Tôi gọi thằng bé mặc quần cụt rách ra bảo:
- Mầy cũng lùa bò đi ăn đi, còn thiếu gì chỗ có cỏ ngon. Tao chỉ kiếm đủ cỏ cho bò của tao thôi, tao đâu có giành hết chỗ để mầy bị chủ đánh?
- Em cũng đâu dám dành chỗ của anh, tại thằng con chủ sở nó biểu!
- Sao nó lại đi theo mầy?
- Nó đi bắn chim.
- Bữa nào nó cũng đi à?
- Lâu lâu nó mới đi. Nó học trên Sài-gòn, hôm rầy về sở chơi. Mà anh ơi, anh thả nó ra đi, chớ anh trói nó luôn lát nữa em về một mình em bị đòn chết?
Nghe thằng nhỏ nói thế, tôi bỗng động lòng. Thiệt ra mọi sự đều do thằng con chủ sở gây hấn, nhưng nếu tôi cương quyết trị tội nó thì khổ lây tới thằng nhỏ nầy.
Tôi tính chắc phải thả thằng con chủ sở ra. Nhưng tôi vẫn không nói vội. Tới xế chiều, sau khi bò của tôi và bò của thằng nhỏ đều no căng bụng, tôi mới dắt thằng nhỏ đi lại chỗ trói thằng con chủ sở. Tôi nói với thằng con chủ sở bấy giờ đã bắt đầu khóc vì hoảng sợ.
- Nói thiệt, tội của mầy đáng lẽ để cho cọp tha mới phải. Ngặt thằng nầy nó năn nỉ xin tha cho mầy, nên tao thương nó mà tha cho mầy một lần, nghe chưa?
- Dạ...
- Tao tha nhưng mày phải lạy tao ba lạy, sau nầy gặp tao phải kêu bằng anh xưng em đàng hoàng, nghe chưa?
- Dạ.
Bây giờ tôi nói chi thằng con chủ sở cũng dạ hết. Nó đã mất hẳn cái vẻ xấc láo, ngang ngổ ban nãy. Khi được tôi mở trói, nó đứng dậy vươn vai dợm bỏ đi. Tôi nắm lưng nó kéo lại bắt nó phải lạy. Thằng con chủ sở còn dùng dằng chưa chịu, tôi trừng mắt nạt:
- Ê, cự nự là tao trói lại liền!
Nó sợ hết hồn, mọp hai gối xuống, chắp tay xá ẩu. Tôi chưa vừa ý, bắt nó phải lạy đàng hoàng. Thằng con chủ sợ bị tôi bó buộc gắt gao mới chịu lạy đủ ba lạy. Tôi tha cho nó đi.
Cầm trên tay cái nạng giàn thun mới tước được, tôi thích thú ngó theo bóng thằng mặc áo chim cò chạy lốc thốc trên trảng cỏ. Bây giờ tôi đang ở trong cái trạng thái hả hê của kẻ thắng trận. Tôi nghĩ trên người tôi chẳng có quần tốt áo tốt như thằng kia. Tôi cũng chẳng có bò, chẳng có một gốc cà phê, một gốc cao su nào. Cha mẹ tôi thì chết hết, cô Tám tôi không có một thước đất và thân tôi hết ở đợ coi trâu cho Biện Tư lại ở đợ coi bò cho Bảy Vàng. Vậy không lẽ tôi còn phải nhịn nhục tới cỡ nào nữa. Bên tai tôi còn âm vang câu nói của chú Chín Khẩn: "Phải bắt tụi nó trả nợ, nợ máu phải trả bằng máu!". Nhớ tới chú Chín, tôi lại nóng ruột muốn trở về Phước Kiển. Không phải tôi định trở về với Biện Tư, mà là trở về cùng em Biếc em Thắm, đợi ngày chú Chín cho người tới đón. Chú Chín có hứa với tôi như vậy và tôi rất hy vọng điều ấy.
Tôi đem cái bao cà phê ràng buộc lên lưng bò, quơ gậy đuổi dồn đàn bò ra đường. Lòng tôì hả hê vì vừa bắt được thằng con chủ sở phải lạy mình. Buổi chiều trong rừng cao su trước khi mặt trời tắt, nó còn nhuộm đỏ ngàn lá một màu lửa. Đàn bò chạy rấn lên, như chính chúng cũng vội vàng về cho kịp trước lúc đêm xuống.
Những móng bò nện đồm độp trên đường, làm bốc cuộn lên một đám bụi lớn, đỏ hồng. Còn những cái lục lạc bằng thau nhỏ đ trên cổ chúng lạỉ được dịp thi nhau khua lên leng keng inh ỏi. Trước mắt tôi, dưới ráng chiều đỏ dậy cả một góc trời, ngôi nhà trại của Bảy Vàng hiện ra như đặt trên một miếng tiết. Từ phía cổng hậu, khói đã lên. Khói tợ như sương đặc, từ từ lan tỏa ra bên ngoài vòng rào sân bò cặm san sát những thân cây rừng vạt nhọn chĩa thẳng lên trời như những cây giáo lớn. Tôi lùa đàn bò qua cổng hậu, vào cái sân tràn ngập khói đó.
Khói làm tôi cay mắt và muốn sặc. Lùa hết bò vào sân, tôi vác cái bao cà phê chạy trở ra. Tại cổng, tôi gặp Bảy Vàng đã đứng ở đó. Hắn vỗ vai tôi:
- Thằng em mày bữa nav cho bò ăn no hết bả? Tao cũng có đếm bò rồi, còn đủ số. À, mầy hái được bao cà- phê đó à? Khá, mầy khá lắm. Nói thiệt với mầy, vườn cà phê đó không phải của tao đâu. Mà không sao, tao biểu hái mầy cứ việc hái, không đứa nào đám làm gì đâu?
Tôi hơi sửng sốt. Bảy Vàng nói đã đếm bò, lại còn biết là bò ăn no nữa. Nãy giờ tôi chớ thấy hắn ở đâu. Chả lẽ hắn đứng ở đâu đó mà tôi không thấy. Hắn lại bảo vườn cà phê tôi hái bữa nay không phải của hắn. Vậy thì rõ ràng tôi đã đi ăn trộm dùm cho hắn mà chính tôi cũng chẳng hay. Nhưng chắc chắn hắn có uy quyền gì đây, mới bảo rằng tuy không phải của hắn, có hái cũng không ai dám làm gì hắn!
Về tới gian nhà kho, tôi nghe tiếng ông già Hai ho sặc sụa. Chắc tại khói. Khói do chính ông hun lên để kịp khi bò về khỏi bị muỗi cắn. Ông Hai trỏ phần cơm dành cho tôi để ở góc phản, nói giữa cơn ho:
- Cơm đó, cháu... cháu ăn đi. Sao, cậu Bảy có nói chi không, cậu Bảv có đánh cháu không?
Tôi nghĩ mà thương cho ông già. Ông cứ lo cho tôi bị Bảy Vàng đánh. Bộ lau nay ông vẫn thường bị Bảy Vàng đánh lắm sao. Tôi nói:
- Không, ổng không nói gì. Mà cháu làm gì ổng đánh cháu mới được chớ!
- Ờ tao hỏi chừng vậy thôi. Chắc cháu đói bụng hung rồi, thôi ăn cơm đi.
- Ông Hai ăn chưa?
- Ăn rồi, ăn rồi!
Ông già đã nói dấu. Thiệt ra chiều nay ông đã bỏ cơm. Ông không ăn được. Giờ đây cái cơ thể già nua bệnh tật ấy chừng như đã tới lúc không nuốt được cơm nữa. Sau đó ông có thú thiệt rằng ông cũng có ráng ăn, nhưng chỉ trệu trạo nhai được vài miếng rồi gác đũa, rồi ho. Bây giờ ông ngồi bên nhìn tôi ăn hết chén nầy tới chén khác. Trong đôi mắt âm thầm bao giờ cũng như có rắc tro của ông già chợt thấy hắt lên cái ánh đỏ hồng của than củi ũng để ý dòm tôi, và dường như ai cũng biết tôi hổi giờ ở ruộng chưa hề đi xe vậy.
Chuyến xe đò chạy lên Bà-rịa. Tôi ngó thấy phố xá Bà-rịa mà ngớp. Xe đậu tại Bà-rịa một chút rồi chạy về tới Xà-bang vào lối mười giờ. Bảy Vàng ghé tạt vô nhà người quen ở chợ Xà-bang lấy chiếc xe mô-tô hắn gửi ởỉ đó rồi chở tôi về nhà hắn ở cách chợ chừng năm cây số. Cái cảnh ở Xà-bang là cái cảnh xứ đất đỏ hực, đỏ từ đường đi tới tường vách, nhà, cửa, đỏ áo quần người và cả những con chó chạy quanh cũng nhuộm đỏ bụi đường.
Xà bang bạt ngàn rừng cây cao su, rừng cây cà phê chia thành lô thẳng tắp, mịt mù. Nổi bật lên trên cái nền xanh ngắt của cây lá là mấy nóc biệt thự đỏ chói của chủ sở người Pháp và cạnh đó là mái nhà tôn xám xạm của cu ly cạo mủ.
Nhà của Bảy Vàng ở quá khỏi khu vực đồn điền một đỗi, cũng thuộc Xà-bang - Ngãi-giao, cái làng tiếp giáp với rừng Hắc-dịch nơi tôi từng nghe nói có nhiều sóc của người Châu Ro. Ngôi nhà Bảy Vàng nằm dưới chân một triền đồi đất đỏ. Từ xa ngó cơ ngơi nhà hắn loáng thoáng hiện ra như một cái trại. Ngôi nhà lợp ngói, nhưng vách là vách ván, chung quanh nhà có hàng rào cắm bằng những cây rừng lớn hơn bắp chân.
Chiếc mô-tô Bảy Vàng chở tôi vừa chạy tới cổng thì cánh cổng gỗ cũng vừa mở ra. Bảy Vàng cho xe vọt vào luôn. Tôi ngó ngoái lại, thấy người mở cổng đứng nép bên là một ông già nhỏ thó đang co ro như dấu người vào một cái áo bành tô màu cứt ngựa cũ rách. Và khi tôi quay nhìn tới trưóc thì thấy một người đàn bà yểu điệu đi ra. Người đàn bà nầy dáng dong dỏng, chân mày cạo sắc lẻm, mặc cái áo ni-lông ngắn tay để hở ngực.
Trông mụ sắc sảo như người ở ngoài chợ. Mụ nói với Bảy Vàng bằng một giọng uốn éo tôi chưa hề nghe thấy:
- Vậy mà tưởng bữa nay mình còn gặp con nào ở trên chớ. Ủa, mình chở thằng nhỏ nào về nữa đó?
- Nó ở trên anh Tư cho xuống phụ tiếp công việc. Lát nữa, để chỉ cho nó xuống Hai. Ông Hai ổng già yếu quá không còn coi nổi bốn mươi mốt con bò đâu!    
--------------------------------
Rỉ.
2      Kính dâm