ike Martin đến mộ Able Seaman Shepton ở nghĩa địa Sulaibikhat vào ngày đầu tiên của tháng Mười và phát hiện tin nhắn từ Ahmed Al-Khalifa. Anh không ngạc nhiên lắm. Nếu Abu Fouad đã nghe nói về anh, thì anh cũng có thể nghe nói về sự tăng lên không ngừng và phát triển của phong trào kháng chiến Kuwait và ánh sáng dẫn đường bí ấn của nó. Rằng cuối cùng họ phải gặp nhau có lẽ là điều không thể tránh khỏi. Trong sáu tuần lễ, vị thế của các lực lượng chiếm đóng của Iraq đã thay đổi rất nhiều. Trong cuộc xâm lấn của mình họ đã làm ào ào: và họ đã bắt đầu chiếm đóng với sự tự tin dâng cao. được bảo đảm rằng sự trú ngụ ở Kuwait có thể không có ý nghĩa như là một sự chinh phục. Sự ảo tưởng đã rất dễ dàng và có lợi, niềm vui phá huỷ, và sự sử dụng phụ nữ để giải trí. Kuwait, dù sao đi nữa, cũng là một con bồ câu béo chuẩn bị cho bữa ăn. Nhưng trong sáu tuần, con bồ câu đã bắt đầu mổ và cào Hơn một trăm lính Iraq và tám sĩ quan đã hoặc mất tích hoặc bị tìm thấy đã chết. Những sự biến mất có thể không phải lúc nào cũng có thể giải thích bằng sơ sảy. Lần đầu tiên, các lực lượng chiếm đóng đã trải nghiệm nỗi sợ hăi. Các sĩ quan không còn dám dạo chơi với chiếc xe riêng của mình mà phải có một xe chở đội hộ vệ đi kèm. Các toà nhà đại bản doanh phải được canh gác ngày cũng như đêm, khiến các sĩ quan Iraq đã mất ngủ vì bị gọi dậy nhiều. Đêm trở thành quãng thời gian không thể đi đâu hết. trừ khi di chuyển theo đội đông người. Các đội gác đường ẩn sâu vào trong trại của mình khi đêm tối buông xuống. Và mìn vẫn cứ nổ, những chiếc xe nổ tung cháy ầm ĩ hay dược nhận về với máy móc hỏng hết cả, những quá lựu đạn vẫn vung ra, và những người lính biến mất với cổ họng bị cứa đứt thành lỗ. Sự kháng cự dâng cao đã buộc hội đồng chỉ huy tối cao phải thay Quân đội Nhân dân bằng các lực lượng đặc biệt. các đội quân chiến đấu tinh nhuệ luôn đứng ớ tuyến đầu trong trường hợp người Mỹ tới. Vào đầu tháng Mười với Kuwait không phải là, như tiếng vọng của câu nói của Churchill, sự bắt đầu của cái kết cục, mà là kết cục của cái bắt đầu. Martin đã không có cách nào để trả lời bức thông điệp của Al-Khalifa khi anh đọc nó trong một vựa lúa, do đó cho đến ngày hôm sau anh mới đặt câu trả lời của mình vào đó. Anh đồng ý gặp, anh nói, nhưng chỉ với những điều kiện của anh. Để lợi dụng đêm tối nhưng để tránh giờ thiết quân luật vào 10 giờ, anh hẹn gặp vào lúc bảy giờ rưỡi. Anh cho địa diểm chính xác để Abu Fouad có thể đỗ xe của mình và khoảng rừng nhỏ nơi họ có thể gặp nhau. Địa điểm anh ấn định nằm ở quận Abrak Kheitan, rất gần với đường quốc lộ từ thành phố đi sân bay giờ đang bị chiếm giữ và không hoạt động. Martin biết nó là một khu vực xây bằng đá theo cổ truyền những ngôi nhà với mái ngói bằng. Trên một trong số những mái nhà đó anh có thể ngồi đợi hai giờ đồng hồ trước cuộc gặp để xem liệu viên sĩ quan người Kuwait có bị theo đuôi và bị ai theo nếu có: các vệ sĩ của chính ông ta hay là người Iraq. Trong một môi trường đầy thù địch như thế này, viên sĩ quan SAS vẫn tự tin vào trận. Anh chẳng hề biết gì về quan niệm của Abu Fouad về an toàn và đã không được chuẩn bị là ông ta kinh khủng đến thế. Anh ra cuộc hẹn cho đêm đó ngày mồng 7 và để lại câu trả lời giữa tấm bia mộ. Ahmed Al-Khalifa lấy nó vào mồng 4. Tiến sĩ John Hipwell chưa từng bao giờ bị gọi trong một cuộc trò chuyện thông thường đến thế đối với một nhà vật lý nguyên tử, để lại nhà khoa học đang làm việc trong sự an toàn chặt chẽ của Tổ chức Nghiên cứu Vũ khí Hạt nhân ở Aldermaston vẽ ra những thứ vũ khí plutonium cho những hoả tiển Trident sắp được ra đời. Một người quan sát thoáng qua sẽ cho rằng ông là một nông dân chất phác của Home Counties, hơn nữa còn bận rộn tính toán ở phiên chợ quê chứ không phải đang giám sát những cái đĩa khủng khiếp chứa chất plutonium trong vàng ròng. Mặc dù thời tiết vẫn còn dịu khi Hipwell lại xuất hiện trở lại trước Hội đồng Medusa, ông đã mặc, như vào tháng Tám. chiếc quần soóc kẻ ô vuông, ca vát bằng len, và áo jacket tweed. Không đợi được hỏi, ông đã dùng hai bàn tay hồng hào to tướng nhồi và bập cái tẩu dài thứ thuốc lá nặng để bắt đầu báo cáo của mình. Ngài Paul Spruce dí sát cái mũi nhọn của mình vẻ kinh tởm và bật máy điều hoà nhiệt độ để tránh mùi. - Rồi, thưa các ngài, tin tốt là người bạn Saddam Hussein của chúng ta không có bom nguyên tử có thể dùng được. Chưa có đâu, còn lâu cơ. Tiến sĩ Hipwell nói. như là biến mất vào làn khói màu xanh nhợt nhạt. Ngừng một chốc trong khi ông rít một hơi thuốc. Terry Martin thấy vui, nếu bạn mạo hiểm hít vào người một liều thứ khí plutonium chết người mỗi ngày, thì cái tẩu cũ kỹ kia đúng là chẳng hề mùi mẽ gì hết. Tiến sĩ Hipwell thoáng liếc vào các ghi chép của mình. - Iraq đã trên con đường làm quả bom nguyên tử cho riêng mình từ giữa những năm 1970, khi Saddam Hussein thực sự lên nắm quyền. Có vẻ như đó là nỗi ám ảnh của ông ta. Trong những năm đó Iraq đã mua một lò phản ứng hạt nhân nguỵên chiếc từ Pháp -cái đã không bị Hiệp ước loại trừ hạt nhân năm 1968 ngó ngàng dến vì nguyên nhân hợp lý đó. Ông hài lòng liếm và rít một hơi thuốc nữa. Lại ngó những giấy tờ của mình. - Tha lỗi cho tôi. ngài Paul nói. Cái lò phản ứng đó có phải là cho mục đích sản xuất điện không? - Có vẻ là như thế. Hipwell nhất trí. Hoàn toàn là bịa đặt. dĩ nhiên rồi, và nước Pháp cũng thừa biết điều đó. lraq có trữ lượng dầu lửa lớn thứ ba thế giới. Họ có thê có một trạm sản xuất năng lượng chạy dầu với gía rẻ. Không, vấn đề là cung cấp lò phản ứng hạt nhân với chất uranium làm nghèo, gọi là bánh vàng hay caramel, thế là có thể thuyết phục người ta bán nó đi. Sau khi sử dụng trong một lò phản ứng, cái sản phẩm cuối cùng sẽ là chất plutonium. Có những cái gật đầu xung quanh bàn. Mọi người đều biết rằng lò phản ứng hạt nhân của Anh tại Sellafield tạo ra điện cho năng lượng và làm ra chất pluto và chuyển đến Hipwell theo yêu cầu của ông ta. - Thê là người lraq vào việc. Hipwell nói. Đội đầu tiên trong số các đội biệt kích của họ đã gỡ cái turbine khổng lồ ở Toulon trước khi nó được đưa xuống tàu, đấy là dự án hai năm trước đây. Rồi vào năm 1981, khi các nhà máy Osirak 1 và 2 quý giá của Saddam chuẩn bị bắt đầu đi vào hoạt động, các máy bay ném bom của lsrael bay vào và ném bom. Kể từ đó: Saddam chưa bao giờ tiếp tục mua một cái lò hạt nhân nào nữa cả. Sau một thời gian ngắn, ông ta đã thôi không cố nữa. - Thế quái nào mà ông ta lại làm vậy. Harry Sinclair từ đầu bàn của mình hỏi. Bởi vì ông ta chuyển hướng: Hipwell nói với một nụ cười rộng: như một người đã giải xong một ô chữ trong một thời gian kỷ lục. Cho đến bây giờ, ông ta đang theo đuổi con đường plutonium. Với thành công ở mức nào đó, dù sao đi chăng nữa. Nhưng không đủ đâu. Chưa đủ. - Tôi không hiếu. ngài Paul Spruce hỏi. Đâu là khác biệt giữa một quả bom nguyên tử dựa trên plutonium và một quả uranium? - Uranium thì đơn giản thôi. nhà vật lý trả lời. Xem này. có nhiều chất phóng xạ có thể sử dụng cho phản ứng dây chuyền. nhưng với quả bom nguyên tứ đơn giản, nền tảng, có tác dụng của các ông thì uranium là chìa khoá đấy. Đó là hướng của Saddam kể từ sau 1982 - một quả bom dựa trên uranium cơ bản. Ông ta chưa có được nó, nhưng ông ta vẫn thử, và một ngày nào đó sẽ có được thôi. Hipwell ngồi xuống với một tiếng thở, như là ông đã tạo ra sự sáng tạo đầu tiên huyền bí. Cũng giống như phần lớn những người ngồi xung quanh bàn. Spruce vẫn còn rất lúng túng. - Nếu ông ta có thể mua uranium đó cho cái lò phản ứng đã bị phá huỷ của mình, thì tại sao ông ta không làm một quả bom với nó? ông hỏi. Hipwell chồm lên câu hỏi như một người nông dân lên một món lợi lớn. - Có nhiều loại uranium khác nhau lắm, ông bạn thân mến ạ. Cái loại đấy buồn cười lắm, uranium ấy. Rất hiếm. Từ một nghìn tấn quặng uranium, ông chỉ có thể thu được một khối bằng một cái hộp xì gà mà thôi. Bánh vàng. Nó được gọi là uranium tự nhiên, với số nguyên tố là 238. Ông có thể chạy một lò phản ứng công nghiệp với chừng ấy, nhưng không làm được một quả bom đâu. Chưa đủ độ tinh khiết. Để làm một quả bom ông cần có số nguyên tố nhẹ hơn, uranium 235. - Thế làm thế nào để có được nó? Paxman hỏi. - Nó nằm ở trong bánh vàng ấy. Trong cái khối cỡ một hộp xì gà đó có đủ uramum 235 để dán dưới một cái móng tay mà chẳng hề hấn gì hết cả. Quỷ quái là làm thế nào để tách được chúng ra. Nó được gọi là tách nguyên tố. Rất khó, rất kỹ thuật, rất đắt, và rất lâu. - Nhưng ông nói lraq đã có được nó rồi, Sinclair lưu ý. - Sẽ có nhưng giờ thì chưa, Hipwell nói. Chỉ có một cách khả thi để làm trong và lọc được bánh vàng cho chín mươi phần trăm tinh khiết cần thiết. Nhiều năm trước, trong kế hoạch Manhattan, các đồng hương của ông đã thử rất nhiều phương pháp. Họ có kinh nghiệm lắm đấy chứ? Ernest Lawrence thử một cách, Robert Oppenheimer thử cách khác. Trong những ngày đó họ đã sử dụng cả hai phương pháp với tốc độ khẩn trương và đã tạo ra đủ uranium 235 để chế tạo Little Boy. - Sau chiến tranh phương pháp ly tâm được phát minh và dần được hoàn thiện. Giờ đây chỉ có phương pháp này được sử dụng. Nói về nền tảng, ông nhét quặng vào một thứ gọi là một máy ly tâm, nó sẽ xoáy nhanh đến nỗi toàn bộ quá trình được thực hiện trong chân không. Dần dần những nguyên tố nặng hơn, cái mà ông không muốn, bị rơi ra ngoài cái lò tâm và nát ra. Cái còn lại là một ít chất đó tinh khiết hơn là khi ông bắt đầu. Chỉ có một tí chút thôi. Ông phải làm đi làm lại việc đó hàng nghìn tiếng đồng hồ, chỉ để có được một tí ti uranium đủ cấp để làm bom với kích thước chỉ bằng cái tem thư. - Nhưng ông ta sẽ làm thế chứ? Ngài Paul nằn nì. - Đúng vậy. Đang làm nó từ khoảng một năm nay. Những cái lò ly tâm đó... để tiết kiệm thời gian chúng ta nối chúng lại thành các dãy, gọi là các tầng. Nhưng ông cần hàng nghìn cái máy ly tâm đó để tạo được một tầng. - Nếu họ đã lao vào đó kể từ năm 1982, thì tại sao đến giờ vẫn chưa có? Terry Martin hỏi. - Các ông không đi vào cửa hàng bán đồ sắt và mua được một cái máy ly tâm chạy bằng gas được đâu, Hipwell chỉ ra. Đầu tiên họ đã thử nhưng thất bại - các tài liệu cho thấy điều đó. Kể từ năm 1985 họ đã mua các linh kiện để dựng lên cái của chính họ. Họ có khoảng 500 tấn bánh vàng uranium nguyên thuỷ, một nửa trong số đến từ Bồ Đào Nha. Họ mua phần lớn công nghệ ly tâm từ Tây Đức. - Tôi nghĩ Tây Đức đã ký các thoả thuận quốc tế đầy đủ hạn chế công nghệ sản xuất bom nguyên tử rồi cơ mà, Paxman phản đối. - Có thể họ đã làm vậy. Tôi không thể nào biết được về chính trị, nhà khoa học nói. Nhưng họ đã có được các mẩu và các linh kiện từ mọi nơi. Các ông cần thép tinh vi, thép siêu cứng, tàu chống rung, van đặc biệt, các lò đun nhiệt độ rất cao gọi là các lò "sọ người" bởi vì trông chúng giống như vậy, cộng với các bơm chân không và dưới đó - đó là cả một công nghệ dây chuyền đấy. Một ít thôi, rồi kỹ năng nữa, đến từ Tây Đức. - Cho tôi hỏi thẳng nhé. Sinclair nói, liệu Saddam đã có các máy ly tâm tách nguyên tố hoạt động được chưa? - Có rồi, có một tầng. Nó đã vận hành chừng một năm nay. Và một cái khác nữa sẽ sớm được đưa vào sử dụng nay mai. - Thế ông có biết tất cả những thứ thối tha đó ở đâu không? - Nhà máy có tầng ly tâm ở một nơi có tên Taji - ở đây này. Nhà khoa học chìa ra một bức ảnh chụp từ trên không ra trước mặt người Mỹ và khoanh vùng một loạt những toà nhà công nghiệp. Cái tầng dường như đang hoạt động ở ngầm dưới đất đâu đó không xa cái lò hạt nhân cũ của Pháp ở Tuwaitha lắm, cái lò mà họ gọi là Osirak. Tôi không biết liệu các ông có thể tìm thấy nó với một cái máy bay ném bom không nữa - chắc chắn nó ở dưới đất và được nguỵ trang rất kỹ. - Thế còn cái tầng mới? - Không biết gì hết cả. Hipwell nói. Có thể ở bất cứ nơi đâu - Có khả năng ở một chỗ khác chăng, Terry Martin đề xuất Người lraq thường tiến hành nhân đôi và giả mạo không bao giờ để tất cả trứng vào trong cùng một giỏ để rồi người lsrael thổi bay đi tất cả. Sinclair càu nhàu. - Sao ông có thể chắc- ngài Paul hỏi- rằng Saddam Hussein không thể đã có được quả bom đó? - Thực thế, nhà vật lý nói. Đó là vấn đề thời gian. Ông ta không có đủ thời gian. Để cho một quả bom nguyên tử cơ bản nhưng hữu dụng ông ta cần 30 đến 35 kg uranium 235 tinh khiết. Mới chỉ bắt đầu công việc được có một năm, dù có được cái nếp vận hành suốt 24 giờ một ngày - cái đó là không thể - thì một chương trình khó đến thế cần ít nhất 12 tiếng cho mỗi ly tâm. Ông cần có 1000 lần xoáy để có được từ không phần trăm đến chín mươi ba phần trăm tinh khiết đòi hỏi. Cần 500 ngày quay. Nhưng rồi khi nó đã sạch, phục vụ được, thì còn phải bảo trì, rồi còn hỏng hóc nữa chứ. Ngay cả với một nghìn cái lò ly tâm vận hành trong một cái tầng bây giờ cũng như trong năm vừa qua, ông cũng phải cần đến năm năm. Đưa thêm một tầng nữa vào năm tới - có thể rút ngắn xuống còn có ba năm. - Thế ông ta sẽ không có 35 kg cho đến 1993 hay sao? Sinclair chèn vào. - Không, ông ta không thể. - Một câu hỏi cuối cùng: nếu ông ta có được uranium, thì mất bao nhiêu lâu mới có được một quả bom nguyên tử? - Không lâu đâu. Chỉ vài tuần thôi. ông thấy đấy, một nước quan tâm đến việc làm ra quả bom cho riêng mình sẽ có khía cạnh cơ khí phát triển song song. Cơ khí, bom không phải tất cả đều phức tạp, miễn là ông biết ông đang làm gì. Và Jaafar cũng thế - ông ta sẽ biết mất bao lâu để xây dựng một cái và kích hoạt nó. Mẹ kiếp, chúng tôi đã đào tạo ông ta ở Harwell. Nhưng vấn đề là, chỉ tính riêng về thời gian thôi, Saddam Hussein cũng không thể có đủ uranium đâu. 10 kg, thế đã là quá rồi ông ta cần ít nhất là ba năm nữa cơ Tiến sĩ Hipwell được cảm ơn vì những tuần lễ làm phân tích, và cuộc họp kết thúc. Sinclair có thể quay trở về Đại sứ quán của mình và viết ra những ghi chép lằng nhằng, những cái sẽ quay trở về Mỹ với mật mã rất khó dò. Ở đó chúng có thể được so sánh với các phân tích của các đối tác của nước Mỹ - các nhà vật lý từ các phòng thí nghiệm của Sandia, Los Alamos, và đặc biệt là Lawrence Livermore ở California, nơi trong nhiều năm nay một phần bí mật có tên đơn giản là phòng Z đã giám sát sự mở rộng vững chắc của công nghệ nguyên tử khắp thế giới nhân danh Bộ Ngoại giao và Lầu Năm Góc. Mặc dù Sinclair có thể không biết, các kết quả của các đội người Anh và người Mỹ có thể khẳng định lẫn nhau với một mức độ khá cao. Terry Martin và Simon Paxman rời khỏi cuộc họp đó và đi dạo qua Whitehead trong buổi hoàng hôn đầu tháng Mười. - Phải nhắc lại, Paxman nói, là ông già Hipwell khá hấp dẫn đấy. Có vẻ như là người Mỹ nhất trí. Rằng lão con hoang đó đã đang ở gần quả bom nguyên tử của hắn rồi. Chẳng khác gì một cơn ác mộng. Họ chia tay nhau ở góc phố, Paxman đi qua sông Thames để đến Nhà Thế kỷ, Martin đi qua quảng trường Trafalgar và theo ngõ St. Martin để đến phố Gower. Biết được cái mà Iraq có, hay thậm chí có khả năng có, là một việc. Tìm chính xác ở đâu có chúng lại là chuyện khác hẳn. Việc chụp hình vẫn tiếp tục. Những chiếc KH-11 và KH- 12 vẫn bay qua thiên đường trong nhịp điệu vĩnh cửu của mình, chụp lại những gì chúng nhìn thấy trên đất Iraq dưới chân chúng. Tháng Mười, một thiết bị khác đã được đưa vào bầu trời, một máy bay trinh sát Mỹ bí mật đến nỗi đồi Capitol cũng chẳng hề hay biết. Được mang biệt danh Aurora, nó bay bên rìa không gian, đạt đến tốc độ của Mach 8, gần 5000 dặm môi giờ, mang theo đạn dược - đó là hiệu ứng ramjet - rất xa các ra đa của Iraq hay những quả hoả tiễn đối không. Thậm chí cả công nghệ tuyệt vời của Liên Xô cũng không dò được Rạng Đông, cái đã thay thế Chim Đen huyền thoại SR- 71. Thật mỉa mai, trong khi Chim Đen được bỏ ra khỏi phi vụ thì một cái khác thậm chí còn già lão hơn "lòng tin cũ" lại bay trên bầu trời Iraq mùa thu đó. Đã gần 40 năm tuổi, có biệt hiệu Bà Rồng. chiếc U-2 vẫn bay và vẫn chụp hình. Quay trở lại năm 1960 khi Gary Powers bị bắn hạ trong một chiếc U 2 trên bầu trời Sverdlovsk, Xibêri, và chính chiếc U-2 này đã phát hiện những tên lửa đầu tiên của Liên Xô được lắp đặt ở Cu ba trong mùa hè năm 1962, thậm chí ngay cả Oleg Penkovsky cũng cho chúng là vũ khí tấn công chứ không phải phòng vệ, do đó đã thổi bay các phản đối nực cười của Khrushchev và chỉ ra những mầm mống của sự phá huỷ thực tế của chính mình. Chiếc U-2 của năm 1960 đã được trang bị lại như một "máy nghe" hơn là một "máy nhìn' và được thiết kế lại TR-l, mặc dù nó vẫn chụp ảnh. Tất cả những thông tin này, từ các giáo sư và các nhà khoa học, các nhà phân tích và phiên dịch, những người theo dõi và những người nhìn, nhưng người phỏng vấn và những người tìm tòi, xây dựng một hình ảnh về Iraq thông qua mùa thu năm 1990, và một bức tranh đầy đe doạ đã có. Từ hàng nghìn nguồn tin khác nhau cuối cùng cũng được xâu chuỗi lại vào một căn phòng rất bí mật hai tầng dưới đại bản doanh không lực Arập Xêut trên đường Sân bay cũ. Căn phòng, nằm dưới con đường từ đó các quan chức quân sự ngồi hội họp và thảo luận về những kế hoạch không được phép của mình (bởi Liên Hợp Quốc) với sự xâm chiếm của Iraq, đã được gọi đơn giản là "Lỗ Đen". Chính tại Lỗ Đen các chuyên gia lập kế hoạch Anh và Mỹ rút ra từ ba cơ quan của mình và từ mọi cấp bậc, chỉ vào các địa điểm có thể bị tiêu huỷ. Cuối cùng, họ có thể tạo nên một bản đồ không chiến của tướng Chuek Horner. Nó chứa đựng 700 mục tiêu. 600 là mục tiêu quân sự - theo nghĩa là các trung tâm chỉ huy. cầu, sân bay, kho đạn, các hầm chứa thuốc nổ, các địa điểm có tên lửa, và các trại tập trung quân lính. Một trăm mục tiêu khác là những cái có liên quan đến các vũ khí của huỷ diệt, toàn bộ - các thiết bị nghiên cứu, các nhà máy sản xuất theo dây chuyền, các phòng thí nghiệm hoá học, các kho cảng. Tầng ly tâm ở Taji đã được đưa vào danh sách như là một cái gần kề, được biết, vị trí của cái tầng ly tâm ngầm dưới đất ở đâu đó trong khu Tuwaitha. Nhưng cái nhà máy sản xuất nước đóng chai ở Tarmiya lại không có trong danh sách: Al Qubai cũng không. Không ai biết gì về chúng hết cả. Một bản sao của báo cáo toàn diện do Harry Sinclair lập ở London được mang đến cùng với những báo cáo khác từ nhiều bộ phận của nước Mỹ và ở nước ngoài. Cuối cùng, một tổng hợp của tất cả những nghiên cứu chuyên sâu đó đã đến được với một nhóm rất nhỏ và rất kín đáo của Bộ Ngoại giao gọi là bộ não, chỉ được một nhóm rất hạn chế ở Washington như Tình báo Chính trị và Nhóm Phân tích biết đến. PIAG là một kiểu trung tâm phân tích các vấn đề ngoại giao và sản xuất ra các bản báo cáo tuyệt đối không dành cho sự tiêu dùng của quần chúng. Trên thực tế, đơn vị chỉ trả lời cho Bộ trưởng Ngoại giao, thời đó là James Baker. Hai ngày sau. Mike Martin nằm ngửa trên một mái ngói cho phép anh nhìn toàn bộ phần Abrak Kheitan nơi anh đã hẹn gặp Abu Fouad. Khá chính xác vào giờ đã hẹn, anh nhìn thấy một chiếc xe ôtô đơn độc rời khỏi đường cao tốc Keng Faisal hướng về sân bay và đi vào trong một phố ven đường. Chiếc xe từ từ thả xuôi phố, tách khỏi những chiếc đèn sáng của đường cao tốc và dòng xe cộ, và đi vào trong bóng tối. Anh nhìn thấy chiếc xe dừng ở chỗ anh đã miêu tả trong bức thông điệp gửi Al-Khalifa. Hai người đi ra, một người đàn ông và một phụ nữ. Họ nhìn quanh, kiếm tra không chiếc xe nào đi theo từ đường cao tốc, và bước đi chầm chậm, đi đến chỗ nơi một đám cây quây lấy một khoảnh đất trống. Abu Fouad và người đàn bà đã được cho biết là phải đứng chờ nửa giờ đồng hồ. Nếu người Bedou không xuất hiện, họ phải rời đi và quay trở về. Họ đã chờ đến 40 phút trước khi quay trở lại chiếc xe. Cả hai đều bực tức. - Hắn ta chắc đã bị tóm rồi, Abu Fouad nói với người đồng hành. Một đội lraq, có thể lắm. Ai biết? Dù sao, mẹ kiếp. Tôi sẽ lại phải bắt đầu lại. - Tôi nghĩ ông thật điên khi đi tin hắn ta. Người phụ nữ nói. ông chẳng hề biết hắn ta là ai hết cả. Họ nói rất ngắn gọn, chỉ huy kháng chiến Kuwait nhìn quanh phố để chắc không có tên lính Iraq nào xuất hiện khi ông - Hắn ta thành công và tinh quái, và hắn ta làm việc như một kẻ chuyên nghiệp ấy. Đó là mọi thứ tôi cần phải biết. Tôi muốn hợp tác với hắn, nếu hắn ta sẵn lòng. - Thế thì tôi chẳng có gì chống lại điều đó hết cả. Người phụ nữ bật ra một tiếng kêu khẽ. Abu Fouad nhảy dựng lên trên chiếc ghế của mình. - Đừng quay ngang ngửa. Chỉ nói chuyện thôi. giọng nói từ ghế sau vang lên. Từ gương chiếu hậu người Kuwait chỉ nhìn thấy lờ mờ chiếc keffiyeh Bedouin và bắt được mùi hôi. Ông thở phào nhẹ nhõm. - Anh di chuyển êm thật dấy. Bedou ạ. - Không cần gây tiếng động. Abu Fouad ạ. Nó sẽ làm bọn lraq để ý. Tôi không thích thế, trừ khi tôi đã sẵn sàng. Răng Abu Fouad nảy lên dưới chòm ria rậm. - Tốt lắm. Bây giờ chúng ta đã tìm được nhau rồi. Thì nói chuyện vậy. Nhân tiện, tại sao lại trốn vào trong xe? - Nếu cuộc gặp này là một cái bẫy đối với tôi, thì những lời đầu tiên của ông khi quay về xe sẽ khác nhiều. - Tự để lộ... - Tất nhiên. - Rồi sao - Ông có thể chết. - Hiểu rồi. - Ai đi cùng ông thế Tôi không hề nêu là có người đi cùng cơ mà. - Anh hẹn gặp. Chính tôi cũng tin anh cơ mà. Cô ấy là một đồng đội đáng tin. Asrar Qabandi. - Rất tốt. Hân hạnh, cô Qabandi. ông muốn nói về cái gì nào? - Về súng ống, Bedou ạ. Những khẩu súng máy Kalashnikov, lựu đạn hiện đại, Semtex-H. Người của tôi có thể làm tốt hơn với những cái đó. - Người của ông sẽ bị bắt, Abu Fouad ạ. Mười người đã bị vây trong một ngôi nhà bởi cả một đội lính bộ binh Iraq dưới sự chỉ huy của AMAM. Tất cả đều bị bắt. Tất cả đều còn rất trẻ. Abu Fouad im lặng. Đó là một thảm họạ rất lớn. - Chín thôi. cuối cùng ông nói. Người thứ mười giả chết và bò trốn đi được. Anh ta bị thương, và chúng tôi đang chăm sóc anh ta. Đó là người đã nói với chúng tôi. - Nói gì? - Rằng họ bị phản bội. Nếu anh ta chết, chúng tôi sẽ không thể biết được. - A, phản bội. Luôn luôn là mối nguy hiểm trong một phong trào kháng chiến. Thế còn kẻ phản bội? - Chúng tôi biết hắn rồi, tất nhiên. Chúng tôi nghĩ có thể tin hắn được. - Nhưng hắn đáng tội? - Có vẻ là như thế. - Chỉ có vẻ thôi à? Abu Fouad gật đầu. - Người sống sót thề là chỉ có người thứ mười một biết được cuộc họp, và địa chỉ. Nhưng cũng có thể có rò rỉ ở chỗ nào đó, hoặc ai đó trong số họ đã bị theo đuôi... - Thế thì cần phải kiểm tra nghi chứng này. Và nếu hắn ta có tội, thì phải bị trừng phạt. Cô Qabandi, liệu cô có thể cho chúng tôi nói chuyện riêng một lúc được không? Người phụ nữ trẻ liếc nhìn sang Abu Fouad, ông gật đầu. Cô ra khỏi xe và đi trở lại chòm cây. Người Bedou nói cẩn trọng với Abu Fouad chi tiết điều anh muốn ông ta làm. - Tôi sẽ không rời khỏi nhà cho đến bảy giờ, anh kết thúc. Thế dù hoàn cảnh thế nào ông cũng phải gọi điện vào bảy giờ rưỡi. Hiểu chưa? Người Bedou trườn ra khỏi chiếc xe và biến mất giữa những lối đi tối đen chạy giữa các ngôi nhà. Abu Fouad lái xe lên phố và đón cô Qabandi. Hai người đi về nhà. Người Bedou không bao giờ gặp lại người phụ nữ nữa. Trước ngày giải phóng Kuwait, Asrar Qabandi đã bị AMAM bắt, bị tra tấn hết sức dă man, bị hiếp tập thể, bị bắn, và chặt tay chân. Trước khi chết. cô không hề nói điều gì hết cả. Terry Martin gọi điện cho Simon Paxman, người đang lao đầu vào công việc và không muốn bị cắt đứt. Anh ta cần vị giáo sư cho các nghiên cứu bằng tiếng Arập và Paxman nên mới cầm lấy máy điện thoại. - Tôi biết tôi là một kẻ quấy rầy. nhưng anh có quan hệ gì với bên GCHQ không? - Có chứ. dĩ nhiên rồi. Paxman nói. Chủ yếu với bên chuyên trách Arập. Biết giám đốc ở đó. - Thế liệu anh có thể gọi ông ta một cú và hỏi ông ta có muốn gặp tôi không? - Mấy hôm nay lraq kinh khủng quá. Tôi đã nghiên cứu tất cả các bài phát biểu của Saddam: tất nhiên, và thấy rất nhiều lời tuyên bố về con tin và những lá chắn người và thấy PR trên vô tuyến. Nhưng tôi muốn biết liệu có cái gì khác bị lấy đi. cái đã không được làm sáng tỏ bởi Bộ Tuyên truyền. - Tốt thôi. cái việc mà GCHQ làm ấy, Paxman công nhận. Tôi không biết tại sao nữa. Nếu anh từng ngồi với những người của Medusa, anh có thể biết rõ hơn đấy. Tôi sẽ gọi điện cho ông ta. Chiều đó, qua hẹn gặp, Terry Martin lái xe đi về phía tây đến Gloucestershire và tự giới thiệu ở cánh cổng canh gác cẩn mật của dãy những toà nhà và ăng ten dựng lên cánh tay thứ ba quan trọng của tình báo Anh bên cạnh MI-6 và MI-5, Đại bản doanh của cơ quan liên lạc chính phủ- Giám đốc bộ phận Arập là Sean Plummer, dưới ông chính là ông Al-Khouri người đã kiểm tra tiếng A rập của Mike Martin tại hàng ăn Chelsea mười một tuần trước đây, mặc dù cả Terry Martin lẩn Plummer đều không biết. Ông giám đốc đồng ý gặp Terry Martin vào giữa ngày làm việc bận rộn vì, là một đồng nghiệp Arập. ông đã nghe nói về vị học giả trẻ tuổi của SOAS và ngưỡng mộ nghiên cứu độc đáo của ông về Abassid Caliphate. - Nào. tôi có thể làm gì cho ông đây? ông hỏi khi họ đã ngồi với một tách trà bạc hà, một sự xa xỉ mà Plummer tự cho phép để thoát ra khỏi những thứ cà phê công vụ khốn khổ. Martin giải thích rằng anh ngạc nhiên trước sự ít ỏi của số lượng những đoạn băng nghe trộm ở Iraq. Mắt Plummer ánh lên. - Ông nói đúng, dĩ nhiên rồi. Như ông biết đấy. những người bạn Arập của chúng ta có ý định chơi nổi lắm. Mấy năm trước, đường dây có khả năng đã hỏng mất rồi. Bây giờ, cả tính cách quốc gia cũng đã thay đổi rồi, hay... - Những cái dây bị cháy, Martin nói. Chính xác- Có vẻ như là Saddam và những người của ông ta đã thiêu cháy hơn 40-50 nghìn dây cáp liên lạc fiber-optic. Đó là cái mà họ đang nói đến đấy. Với tôi, cái đó tuyệt đối là rất bậy. Làm thế nào tôi có thể đưa cho các vị lãnh đạo ở London này hàng đống báo cáo thời tiết ớ Baghdad và về những danh sách giặt là của mẹ Hussein? - Đó là cách nói chuyện của ông ta, Martin nhận xét. Công việc của Plummer phụ trách nhiều hơn thế nhiều. - Họ vẫn nói dĩ nhiên - bộ trưởng, công chức, tướng lĩnh chuyện gẫu giữa các tay chỉ huy xe tăng trên biên giới Xêut. - Nhưng những cú điện thoại nghiêm túc. tuyệt mật đã bị ngăn trên không trung. Không bao giờ thấy được. Thế ông muốn nghe gì nào? Trong bốn tiếng đồng hồ tiếp theo. Terry Martin căng mắt trên một dãỵ những đoạn băng nghe trộm. Những đoạn băng quá rõ ràng; anh đang tìm một cái gì khác trong một cú điện thoại không được báo trước, một từ nói nhịu, một lỗi. Cuối cùng anh đóng các hồ sơ lại. - Liệu ông- anh hỏi-có thể để ý đến mọi thứ, cả những cái có vẻ ngớ ngẩn nhất không? Mike Martin bắt đầu nghĩ rằng một ngày nào đó anh nên viết một cuốn sách giới thiệu du lịch về các mái nhà của Kuwait City. Anh đã bỏ ra một thời gian cực kỳ nhiều nằm trên một trong số chúng theo dõi khu vực bên dưới mình. Mặt khác. chúng trở thành những vị trí tuyệt vời cho các LUP, các vị trí rình mò. Anh đã nằm trên một trong số đó gần như suốt hai ngày hôm nay, theo dõi ngôi nhà mà địa chỉ anh đã trao cho Abu Fouad. Nó là một trong sáu cái mà anh đã mượn của Ahmed Ai- Khalifa, và cái mà anh có lẽ sẽ không bao giờ sử dụng nữa. Mặc dù đã hai ngày trôi qua kể từ khi anh trao địa chỉ cho Abu Fouad và không có gì có vẻ xảy ra cho đến đêm nay, mồng 9 tháng Mười, nhưng anh vẫn tiếp tục theo dõi, ngày cũng như đêm, sống bằng một ít bánh mỳ và hoa quả. Nếu những người lính lraq đến trước bảy giờ rưỡi tối ngày mồng 9, anh có thể biết được ai đã phản bội mình - chính Abu Fouad. Anh liếc nhìn đồng hồ. Bảy giờ rưỡi. Viên đại tá người Kuwait nên gọi vào lúc này: như đã được chỉ dẫn trước. Bên kia thành phố, Abu Fouad trên thực tế đang cầm điện thoại, ông ta quay một số, có người trả lời khi chuông reo lần thứ ba. - Salah phải không? - Phải, ai đấy? - Chúng ta đã từng gặp nhau. nhưng tôi nghe nhiều thứ hay ho về ông lắm đấy - rằng ông trung thành và dũng cảm, một trong số chúng tôi. Người ta biết tôi với cái tên Abu Fouad. Một sự ngừng lại ở đầu dây. - Tôi cần sự giúp đỡ của ông, Salah ạ. Liệu chúng tôi, phong trào, dựa vào ông được không? - Ồ được chứ, Abu Fouad. Xin hãy nói cho tôi ông muốn làm gì. - Không phải chỉ cá nhân tôi, mà là một người bạn. Anh ta bị thương và yếu lắm. Tôi biết ông là một dược sĩ, ông phải cho anh ta uống thuốc ngay lập tức - băng bó, sát trùng, diệt khuẩn. - Ông đã bao giờ nghe nói về một người tên là Bedou chưa? - Rồi chứ, dĩ nhiên. Nhưng thế có nghĩa ông nói ông biết anh ta? - Không đâu. nhưng chúng tôi đã từng làm việc cùng với nhau trong nhiều tuần nay. Anh ta đặc biệt quan trọng đối với chúng tôi đấy. - Tôi sẽ đi xuống thang chỗ cửa hàng ngay lúc này và chọn những đồ anh ta cần và mang chúng đến cho anh ta. Tôi có thể tìm thấy anh ta ở đâu? - Anh ta đang ẩn náu ở một ngôi nhà tại Shuwaikh và không thể nhúc nhích được. Hãy mang đến đó bút chì và giấy. Abu Fouad đọc địa chỉ ông ta đã được đưa. Ở đầu dây bên kia người đàn ông chép lại. - Tôi sẽ lái xe đi ngay đây, Abu Fouad. Ông có thể tin tưởng ở tôi, Salah dược sĩ nói. - Ông là người tốt đấy. ông sẽ được thưởng xứng đáng. Abu Fouad bỏ máy. Người Bedou đã nói ông có thể gọi điện khi hoàng hôn xuống khi không có gì xảy ra, và có thể xác minh lòng trung thành của viên dược sĩ. Mike Martin nhìn, đúng hơn là nghe, tiếng chiếc xe tải đầu tiên ngay trước tám giờ rưỡi. Nó đang vận hành, cái máy không tạo ra tiếng động, và nó đi qua ngã tư của phố trước khi đi đến một chỗ dừng cách xa đó vài yard và ở ngoài tầm nhìn. Martin gật đầu. - Chiếc xe tải thứ hai cùng làm như thế một lúc sau. Từ mỗi chiếc xe, hai mươi người chậm rãi xuống, những chiếc mũ bê rê xanh với những người biết họ đang làm gì. Những người đàn ông đi vào theo hàng dọc phố, được dẫn đầu bởi một sĩ quan mặc đồ dân sự. Cái dish-dash màu trắng của anh ta chìm một nửa vào bóng tối. Với tất cả những cái bảng tên phố bị dỡ xuống, những người lính cần đến một người dẫn đường để tìm ra con phố. Nhưng số nhà vẫn còn. Người mặc đồ dân sự dừng lại trước một ngôi nhà, nhìn bảng số, và đưa tay chỉ. Viên đại uý chỉ huy có một cuộc nói chuyện ngắn gọn, thì thào với viên trung sĩ của mình: người mang theo 15 người xuống cái lốí đi bên cạnh để vây đăng Được số lính còn lại đi sau, viên đại uý thử mở chiếc cửa sắt đi vào cái vườn nhỏ. Nó mở. Họ đi vào trong. Trong vườn viên sĩ quan có thể nhìn thấy một ánh đèn mờ ảo trong căn phòng tầng trên. Phần lớn tầng dưới là một cái gara ôtô đang để trống. Ở cửa trước là những thứ linh tinh. Viên đại uý thử mở tay nắm: thấy nó bị khoá, và ra hiệu cho một người lính ở đằng sau mình. Người đàn ông bắn một phát từ khẩu súng trường tự động của mình vào ổ khoá trong cánh cửa gỗ và cửa mở toang ra. Với viên đại uý dẫn đầu, đội lính mũ xanh tiến vào trong. Một số đi đến những căn phòng tầng dưới u tối: viên đại úy và số lính còn lại đi thẳng vào phòng ngủ chính. Từ bậc thềm giữa hai tầng viên đại uý có thể trông thấy bên trong của cái buồng ngủ có giường thấp, cái ghế bành với chỗ dựa quay ra cửa và cái keffiyeh vắt trên nóc. Anh ta không bắn. đại tá Sabaawi của AMAM đã chỉ rõ: người đó cần được bắt sống để thẩm vấn. Khi anh ta lao lên trước, viên sĩ quan trẻ không cảm thấy cái lưới bắt cá bằng cước đang choàng lấy mình. Anh ta nghe thấy người của mình đang bắn vào từ đằng sau và những người khác lao lên tầng trên. Anh ta nhìn thấy một hình thù xấu xí tạo thành từ đất và chiếc áo trùm màu trắng, đầy rèm, và một quả dưa hấu lớn bọc trong keffiyeh. Khuôn mặt anh ta nhãn nhúm vì tức giận, và anh ta có đủ thời gian để văng ra một câu chửi tục vào thằng cha dược sĩ run như cầy sấy đang đứng ở cửa ra vào. Năm pound chất Semtex-H không kêu to lắm, và cũng không lan rộng đến thế. Những ngôi nhà xung quanh được xây dựng bằng đá và bê tông, những thứ đã bảo vệ những chỗ quanh đó, một số trong đó là chỗ ở của người Kuwait, chỉ chịu thiệt hại bề mặt. Nhưng ngôi nhà mà những người lính đang đứng có vẻ như đã biến mất. Những mảnh vỡ từ mái ngói của nó sau đó được tìm thấy cách đó hàng trăm yard. Người Bedou đã không đợi đến cùng để nhìn công trình của mình. Anh đã ở cách xa hai phố, đang thở phào, xem xét lại công việc của mình, khi anh nghe tiếng quả bom gầm lên, như là một cái cánh cửa bị bật tung, rồi một khoảng im lặng trống rỗng trong một giây, rồi tiếng ồn ã vang lên. Ba việc đã xảy ra vào ngày tiếp theo đó, tất cả đều trong bóng tối. Ở Kuwait, người Bedou đã có cuộc gặp thứ hai với Abu Fouad. Lần này, người Kuwait đến cuộc hẹn một mình, trong bóng tối của một cánh cửa ra vào rất sâu vào trong chỉ cách Sheraton có vài trăm yard. cái đang là chỗ của hàng chục sĩ quan cao cấp người Iraq. - Ông có nghe thấy không. Abu Fouad? - Dĩ nhiên rồi. Cả thành phố sôi lên. Họ mất khoảng 20 người và số còn lại bị thương. Ông nháy mắt. Sẽ có nhiều cuộc trả đũa vu vơ đấy. - Ông có muốn dừng lại bây giờ không? - Không. Chúng tôi không thể. Nhưng anh có thể chịu đựng được thêm bao lâu nữa? - Người Mỹ và người Anh sẽ đến. Một ngày nào đó. - Cầu thánh Allah cho nó đến sớm. Salah có đi cùng chúng không? - Hắn dẫn theo chúng. - Chỉ có một tên dân sự thôi, ông nói không có ai khác phải không? - Không đâu, chỉ một mình hắn thôi. Chắc hẳn là hắn rồi. - Hắn đã gây ra cái chết của 9 người trẻ tuổi. Hắn sẽ không thấy được Thiên đường đâu- - Thế à. Thế ông còn muốn tôi làm gì nữa nào? - Tôi không hề hỏi anh là ai và từ đâu đến. Với tư cách một sĩ quan quân đội được đào tạo chính quy, tôi biết anh không thể chỉ đơn giản là một người lái lạc đà Bedou từ sa mạc đến. Anh đã có nguồn cung cấp thuốc nổ, súng ống, đạn dược, lựu đạn. Người của tôi cũng có thể làm nhiều việc với những thứ đó. - Thế ông đề xuất gì? - Đến với chúng tôi và mang theo các nguồn cung cấp của anh. Hoặc là ở lại chỗ của anh nhưng chia cho chúng tôi các nguồn đó. Tôi không đến đây để doạ nạt, chỉ để yêu cầu mà thôi. Nhưng nếu anh giúp cuộc kháng chiến của chúng tôi, thì đó là cách để thực hiện đó. Mike Martin nghĩ một hồi lâu, Sau 8 tuần anh đã sử dụng hết một nửa số đồ của mình, vẫn còn giấu trong sa mạc hoặc được chia lẻ ở hai biệt thự anh sử dụng không phải để ở mà để chứa đồ. Trong bốn căn nhà khác của mình, một cái dã bị phá huỷ và cái khác, nơi anh dùng làm nơi gặp gỡ với các học trò của mình. đã không dùng dược nữa. Anh có thể đưa ra những dự trữ của mình và yêu cầu thêm qua hộp thư đêm - liều lĩnh nhưng khả thi, miễn là những thông điệp của anh gửi về Riyadh không bị dò thấy, điều anh không thể nào biết dược. Hoặc anh có thể đi một chuyến lạc đà nữa qua biên giới và trở về với hai giỏ nữa. Ngay cả nếu nó là không dễ dàng - bây giờ đã có tới 16 đội lính Iraq rải quân dọc theo biên giới, thì anh cũng đã ra vào được đến ba lần rồi. Đã đến lúc để liên lạc với Riyadh lần nữa và xin chỉ thị. Trong cùng lúc đó, anh có thể đưa Abu Fouad phần lớn những gì anh có. Nó nằm chếch phía nam ở biên giới; anh có thể cần đến lấy nó bằng cách nào đó. - Ông muốn chuyển nó đến đâu? anh hỏi. - Chúng tôi có một nhà kho ở cảng Shuwaikh. Nó khá là an toàn. Nó chứa cá. Người chủ là người của chúng tôi. - Trong sáu ngày nữa nhé, Martin nói. Họ thoả thuận về thời gian và địa điểm nơi một trợ tá đáng tin cậy của Abu Fouad có thể gặp người Bedou và dẫn anh đến chỗ còn lại của chuyến đi. Martin miêu tả chiếc xe anh sẽ lái và cái cách anh cải trang. Cùng đêm hôm đó, nhưng hai giờ sớm hơn bởi múi giờ khác nhau, Terry Martin ngồi trong một nhà hàng yên tĩnh không xa căn hộ của mình bao nhiêu nhâm nhi một chén rượu trong tay. Người khách anh đang đợi đi vào vài phút sau đó, một người đàn ông trọng tuổi với tóc nâu, đeo kính, và một cái cà vạt cong có chấm, ông ta nhìn quanh tìm kiếm. - Moshe. ở đây này. Người lsrael nhìn quanh quẩn đến chổ Terry Martin đang nhổm lên, và chào anh rất hăng hái. - Terry, con trai của tôi. anh thế nào - Khá hơn khi được gặp ông, Moshe ạ. Liệu có thể nào để ông đi qua London mà không ăn tối trò chuyện với tôi chứ. Người Israel khá già, ngang tuổi cha Martin, nhưng tình bạn của họ dựa trên mối lợi ích chung. Cả hai đều là học giả và đều là những nhà nghiên cứu nhiệt thành về các nền vãn minh cổ Trung Đông. văn hoá, nghệ thuật và ngôn ngữ vùng đó. Giáo sư Moshe Hadari trở về sau một chuyến đi xa. Khi còn trẻ, ông đã khám phá nhiều nơi ở Đất Thánh cùng với Yigael Yadin, là một giáo sư và một vị tướng trong quân đội- Điều tiếc nuối lớn của Hadari là, vì mình là người Israel, phần lớn Trung Đông đều là đất cấm với ông, ngay cả chỉ là học bổng đến nghiên cứu. Thêm nữa. trong địa hạt của ông. Ông là một trong những người giỏi nhất, và địa hạt này rất nhỏ, không thể tránh rằng hai vị học giả lại có thể gặp nhau ở một buổi hội thảo nào đó, như quả đã là thế mười năm trước đây Đó là một bữa tối thật tuyệt., và cuộc nói chuyện rôm rả về nghiên cứu gần đây nhất, về những quan niệm hoàn toàn mới mẻ về cách cuộc sống đã có trong các vương quốc của Trung Đông mười thế kỷ trước đây. Terry Martin biết anh được Hiệp ước bí mật chính thức bảo vệ, nên những hoạt động mới đây hợp tác với Nhà Thế kỷ không phải chủ đề để bàn luận. Nhưng trong khi uống cà phê cuộc trò chuyện của họ rất tự nhiên quay sang cuộc khủng hoảng vùng Vịnh và những nguy cơ chiến tranh. - Anh có nghĩ là ông ta sẽ rút khỏi Kuwait không hả Terry? Vị giáo sư hỏi. Martin lắc đầu. "Không. ông ta không thể, trừ phi ông ta được chỉ cho một con đường được đánh dấu cụ thể, những nhượng bộ ông ta có thể sử dụng để biện hộ cho sự rút lui của mình. Nếu ra đi trần trụi, nghĩa là ông ta thua." Hadari gật dầu. - Lãng phí ghê quá nhỉ. ông nói. Cả cuộc đời tôi. lãng phí nhiều quá. Số tiền đó đủ để làm cho Trung Đông trở thành một thiên đường. Tất cả những thiên tài đó, tất cả những cuộc đời trẻ trung đó. Và cho cái gì kia chứ? Terry, nếu nó xảy đến, liệu người Anh có chiến đấu bên cạnh người Mỹ không? - Dĩ nhiên là có chứ. Chúng tôi đã gửi Sư đoàn số bảy, và tôi tin sư đoàn bốn cũng sắp đến thôi. Nó làm thành một đại đoàn, ngoài những máy bay chiến đấu và tàu chiến. Đừng lo về chuyện đó. Đó là một cuộc chiến tranh Trung Đông trong đó Israel không chỉ có thể, nhưng bắt buộc phải, ngồi trên đống lửa. - Phải, tôi biết: người lsrael buồn rầu nói. Nhưng nhiều con người trẻ tuổi sẽ phải chết. Martin cúi về phía trước và gõ vào cánh tay người bạn. - Xem nào. Moshe. con người đó phải bị chặn đứng lại chứ. Sớm hay muộn thôi. Israel và các nước phải biết ông ta có thể đi đến đâu với vũ khí huỷ diệt của mình chứ. Theo một nghĩa nào đó, chúng ta chỉ phải tìm ra mức độ chính xác ông ta có được. - Nhưng người của chúng tôi đã giúp, tất nhiên. Chúng tôi có khả năng lao vào mục tiêu chính đó. - Phải. trong các phân tích mục tiêu, Martin nói. Vấn đề cơ bản của chúng tôi là tình báo có giá trị. tại chỗ. Chúng tôi không có tình báo cấp cao ở Baghdad. Cả người Anh lẫn người Mỹ đều không có, và thậm chí người của các anh cũng không. 20 phút sau bữa tối kết thúc, và Terry Martin nhìn giáo sư Hadari đi vào một chiếc ta xi để mang ông về khách sạn của mình. Vào khoảng nửa đêm, ba trạm tam giác được đặt ở Kuwait theo lệnh của Hassan Rahmani ở Baghdad. Chúng là các đĩa phát thanh được thiết kế để theo nguồn phát sóng đài và một vùng xung quanh đó. Một cái là trạm cố định. được đặt trên một mái nhà của một toà nhà cao ở quận Ardiya, một ở rìa cực nam ngoại ô Kuwait City. Mặt đĩa hướng ra ngoài sa mạc. Hai cái khác là các trạm di dộng, những chiếc xe to với những cái đĩa trên nóc, một bộ xử lý bên trong để phát điện, và một cái bên trong tối om nơi người trực có thể ngồi ở cần lái của mình và dõi theo các sóng không trung, tìm những đợt chuyển sóng, những cái họ đã được nói có thể gửi từ đâu dó trong sa mạc giữa thành phố và biên giới với Saudi. Một trong những chiếc xe lớn đó đang ở ngoài Jahra, xa về phía tây của chiếc máy đồng nghiệp của mình ở Ardiya, và cái thứ ba xuôi về phía bờ biển, trong vùng đất của bệnh viện Al Adan, nơi chị của người sinh viên luật đã bị hiếp trong những ngày đầu tiên của những cuộc tấn công. Máy dò ở Al Adan có thể có được mọi cái được đưa về từ những người quét xa hơn về phía bắc, rồi chuyển nguồn tin về cho một trung tâm vài trăm yard cách đó. Tại căn cứ quân sự Ahmadi, nơi có lúc Khaled Al-Khalifa đã bay chiếc Skyhawk của mình, một chiếc trực thăng Hind do Liên Xô sản xuất có súng trực chiến 24 giờ mỗi ngày. Đội bay của chiếc Hind đến từ Không quân, một sự thương lượng Rahmani đã thực hiện với vị tướng chỉ huy nó. Các đội dò sóng đều từ chính bên Phản gián của Rahmani sang, được đưa đến từ Baghdad và là những người giỏi nhất có được. Giáo sư Hadari qua một đêm không ngủ. Điều bạn ông nói với ông làm ông lo ngại sâu sắc, ông tự coi mình như là một người Israel tuyệt đối trung thành, sinh ra từ một gia đình Sephardic đã nhập cư ngay trong giữa những năm giữa thế kỷ theo những người như là Ben-Yehuda và Ben-Gurion. Bản thân ông được sinh ra ở bên ngoài Jaffa, khi đó nó vẫn là một cái cảng tí hon của người Arập Palestine, và ông đã học tiếng Arập khi còn là một đứa bé con. Ông đã nuôi dạy hai đứa con trai và thấy một đứa trong chúng chết trong một cuộc bạo loạn tồi tệ ở nam Lebanon. Ông là ông nội của năm đứa cháu nhỏ. Ai có thể nói rằng ông không yêu nước nào? Nhưng có điều gì đó sai trái. Nếu chiến tranh xảy đến, nhiều thanh niên trẻ sẽ chết, như là Ze'ev của ông đã chết. ngay cả khi họ là người Anh, Mỹ hay Pháp. Liệu đây có phải là lúc để Kobi Dror chứng tỏ sự mạt hạng, sự sôvanh nước nhỏ của mình không? Ông dậy sớm, thanh toán tiền khách sạn, sửa soạn đồ đạc, và gọi một chiếc taxi để đi ra sân bay. Trước khi rời khách sạn, ông lưỡng lự một lúc trước dãy điện thoại trong hành lang, rồi đột nhiên đổi ý. Nửa đường ra sân bay, ông bảo người lái xa dừng ở giữa đường M4 và tìm một bốt điện thoại. Càu nhàu vì mất thời gian và có thể gãp chuyện rắc rối, người lái làm theo, cuối cùng cũng tìm được một chiếc ở góc đường Chiswick. Hadari may mắn. Chính Hilary trả lời điện thoại ở căn hộ Bayswater. - Giữ máy nhé, ông nói, anh ta đang trên đường ra đến cửa đấy. Terry Martin đến máy điện thoại. - Moshe đây. Terry, tôi không có nhiều thời gian đâu. Hăy nói với người của anh rằng Viện có một nguồn tin rất cao cấp bên trong Baghdad. Hãy nói với họ rằng hãy hỏi điều gì xảy đến với Jericho. Tạm biệt. bạn của tôi. - Moshe, một lúc nữa nào. ông có chắc không? Làm sao ông biết đươc? - Điều đó không quan trọng. Anh đã không nghe thấy gì từ tôi đâu đấy nhé. Tạm biệt. Điện thoại im bặt. Ờ Chiswick nhà học giả già đi trở lại vào chiếc taxi của mình và đi tiếp đến Heathrow, ông run lên với sự việc lớn lao ông vừa mới làm. Và bằng cách nào ông có thể nói với Terry Martin rằng chính ông, vị giáo sư môn Arập của đại học tổng hợp Tel Aviv, là người đã thảo bức thư trả lời đầu tiên cho Jericho ở Baghdad? Cú điện thoại của Terry Martin tìm thấy anh ta ở Nhà Thế kỷ ngay sau mười giờ. - Ăn trưa hả? Xin lỗi, tôi không thể đâu. Một ngày tệ quá. - Ngày mai thì có thể đấy. - Thế thì muộn quá. Chuyện khẩn. Simon ạ. Paxman đồng ý. Không nghi ngờ gì nữa người bạn hàn lâm của anh ta đã tìm ra được một cách diễn dạt nào đó mới mẻ của một câu nói trong bản tin của lraq, cái có thể biến đổi ý nghĩa của cuộc sống. - Cũng không thể ăn trưa đâu. Cuộc họp quan trọng ở đây. trong nhà. Xem nào, uống nước nhé. Nhà hàng Lỗ trống trên tường. một quán nhỏ ngầm dưới đất ở cầu Waterloo, khá gần đây.Thế mười hai giờ nhé. Tôi có thể nói chuyện được nửa giờ, Terry ạ. - Hơn nữa mới đủ được. Hẹn gặp anh nhé. Martin nói. Ngay sau giữa trưa. họ ngồi với cốc bia trong căn nhà trên đó vùng nam trải đến Kem, Sussex, và Hampshire. Martin chưa đưa lộ nguồn tin của mình, nói về cái anh vừa được cho biết vào buổi sáng. - Trời ơi, Paxman thầm thì. Có người ở bên buồng bên cạnh. Ai nói cho anh biết thế? - Không thể nói dược. - Có, anh phải nói. - Xem nào. anh lưỡng lự. Tôi đã hứa rồi. Anh ấy là một học giả cao cấp. Đó là tất cả. Paxman suy nghĩ. Học giả, và có quan hệ với Terry Martin. Chắc chắn là một nhà Arập học khác. Có thể có quan hệ với Mossad. Dù sao đi nữa, thông tin phải được đưa về Nhà Thế kỷ không chậm trễ. Anh ta cám ơn Martin, bỏ cốc bia của mình, và lao ra đường về Nhà Thế kỷ. Bởi vì trong cuộc họp trưa nay. Steve Laing đã không rời khỏi toà nhà. Paxman lôi ông ra một chỗ và nói với ông. Laing cấp tốc báo thẳng lên chỉ huy. Ngài Colin, người không bao giờ nói gì quá lời, chửi tướng Kobi Dror là kẻ đồng nghiệp chó chết nhất. bỏ bữa trưa, ra lệnh mang gì đó đến bàn của ông, và lui lên tầng trên cùng. Ở đó ông gọi một cú điện thoại riêng vào một đường dây đặc biệt an toàn đến luật gia William Webster, Giám đốc CIA. Mới là tám giờ rưỡi sáng ở Washington, nhưng luật gia là một người thích dậy sớm cùng bình minh, và ông đang ngồi ở bàn làm việc để nói điện thoại, ông hỏi đồng nghiệp người Anh một số câu hỏi về nguồn thông tin, càu nhàu vì không có, nhưng đồng ý đó là cái gì đó không thể để xổng mất được. Webster nói với phó giám đốc (các chiến dịch) Bill Stewart, người giận điên lên, và rồi đã có cuộc nói chuyện nửa giờ với Chip Barber, chỉ huy các Chiến dịch cho Trung đông. Barber còn điên tiết hơn, vì ông đã từng là người ngồi trước mặt tướng Dror trong căn phòng sáng sủa trên đỉnh một ngọn đồi ở bên ngoài Herzlia và đã, có vẻ như vậy, đã nhận một lời nói dối. Giữa họ, họ phải làm điều họ muốn được thực hiện. và chuyển ý kiến trở về giám đốc. Vào giữa trưa William Webster có một cuộc gặp với Brent Scowcroft, Chủ tịch Hội đồng An ninh Quốc gia, và đưa vấn đề sang cho tổng thống Bush. Webster đã hỏi về cái ông muốn và được cho toàn quyền xử lý. Bộ trướng Ngoại giao James Baker đồng ý hợp tác, và ông thực hiện ngay lập tức. Đêm đó, Bộ Ngoại giao gửi một yêu cầu khẩn cấp cho Tel Aviv, yêu cầu này được trình bày với thành viên của nó vào buổi sáng tiếp sau đó, lúc mới ba giờ sáng do lệch múi giờ. Thứ trưởng Ngoại giao lsrael vào thời gian đó là Benjamin Netanyahu, một nhà ngoại giao đẹp trai, lịch thiệp, tóc màu trắng bạc và là anh của Jonathan Netanyahu người Israel duy nhất bị giết trong cuộc đột nhập vào sân bay Entebbe của Idi Amin, trong đó các lính biệt kích Israel đã cứu các hành khách của một chiếc máy bay Pháp bị không tặc bởi những tên khủng bố Palestine và Đức. Benjamin Netanyahu sinh ra ở thế hệ sabra thứ ba và được giáo dục một thời gian ở Mỹ. Nhờ được giáo dục tốt và chủ nghĩa dân tộc nhiệt thành của mình, ông ta là một thành viên của chính phủ đảng Likud của Itzhack Shamir và thường xuyên là người phát ngôn giàu sức thuyết phục của Israel trong các cuộc phỏng vấn với giới truyền thông phương Tây. Ông đến Washington hai ngày sau đó, vào ngày 14 tháng Mười, hơi bối rối bởi sự khẩn cấp của lời mời của Bộ Ngoại giao mà ông phải bay sang Mỹ để thảo luận về một vấn đề có tầm quan trọng rất lớn. Ông còn bối rối hơn khi hai giờ nói chuyện cá nhân với thứ trưởng Lawrence Eagleburger chỉ là một cái nhìn tổng quan của sự phát triển của Trung Đông kể từ ngày 2 tháng Tám. Ông kết thúc buổi nói chuyện hết sức tức tối, rồi đối mặt với một chuyến bay đêm quay trở về Israel. Chính lúc ông rời Bộ Ngoại giao một trợ lý tuồn một cái các rất đắt tiền vào tay ông. Chiếc các có hình một người, và người viết, với lối hành văn lịch thiệp, yêu cầu ông đừng rời Washington mà không đến nhà người đó cho một cuộc gặp ngắn, để bàn luận về một vấn đề có tầm khẩn cấp nào đó "cho cả hai đất nước chúng ta và cho toàn thể dân chúng của chúng ta." Ông biết chữ ký, biết người đàn ông, và biết quyền lực cũng như sự giàu có của bàn tay viết ra nó. Chiếc limousin của người viết đang đậu ngoài cửa. Viên thứ trưởng Israel quyết định nhanh và bảo thư ký của mình quay về Đại sứ quán với cả hai bộ hành lý và sẽ gặp lại ông ở ngôi nhà ở Georgetown hai giờ sau đó. Từ đó họ có thể đi đến Dulles. Rồi ông lên chiếc limousin. Ông chưa bao giờ đến ngôi nhà trước đó, nhưng đúng như ông đoán trước, một toà nhà tuyệt đẹp ở cuối đường M, chỉ cách có 300 yard từ khu học xá của đại học tổng hợp Georgetown. Ông được dẫn vào một phòng sách đầy ắp tranh ảnh và sách quý hiếm tột cùng với thẩm mỹ cao. Một lúc sau chủ nhà đi vào, tiến về phía cái thảm Kashan với cánh tay mở rộng. - Bibi thân mến của tôi, anh tốt biết bao khi dành thời gian như thế này. Saul Nathanson, chủ nhân và là nhà tài phiệt, nhiều nghề làm ông trở nên cực giàu có, nhưng tài sản thực sự của ông được giấu sau những gì được lộ ra, và bản thân người đàn ông được giáo dục quá tốt để mà lộ ra. Những bức Van Dykes và Breughels trên các bức tường không phải tranh sao chép, và những tặng phẩm từ thiện của ông, bao gồm một số thứ cho Israel, là thật huyền thoại. Giống như vị Bộ trưởng Israel, ông rất lịch thiệp và tóc cũng màu ghi, nhưng không giống người đàn ông trẻ hơn mình vài tuổi, ông mặc quần áo do nhà may Savile Row, London cung cấp và những chiếc áo lụa của ông thì từ Sulka. Ông chỉ người khách đến những chiếc ghế bành trước một lò sưởi đốt gỗ, một cái chai Anh đã được mở với một cái chai và hai ly rượu vang trên một cái khay bạc. - Một số thứ mà tôi nghĩ ông có thể thích, anh bạn của tôi, trong khi chúng ta trò chuyện. Người hầu bàn rót ra hai cốc Lalique thứ vang đỏ, trong khi người lsrael nuốt khan. Nathanson nhướng một mi mắt lên. - Thật tuyệt, dĩ nhiên rồi. Netanyahu nói. Château Mouton Rothschild năm 61 không dễ kiếm một chút nào. Người hầu để lại cái chai trong tầm với và rút lui. Saul Nathanson còn lâu mới đi ngay vào vấn đề ông muốn nói. Các kiệt tác được bàn luận đầu tiên. Rồi đến Trung Đông. - Sẽ có chiến tranh, anh cũng biết đấy, ông buồn bã - Tôi không hề nghi ngờ gì về điều đó, Netanyahu đồng ý - Trước khi nhiều những người Mỹ trẻ tuổi có thể phải chết, những người trẻ tuổi khác không đáng phải chịu. Chúng ta phải làm mọi thứ có thể để giữ con số đó nhỏ ở mức nhân đạo nhất, ông có thấy thế không? Rượu vang nữa nhé? - Tôi không thể uống thêm nữa. Người đàn ông này đang muốn lái vấn đề đến cái quỷ quái gì thế này? Vị thứ trưởng Ngoại giao lsrael thầm hỏi mà không tìm được câu trả lời. - Saddam, Nathanson nói. nhìn chằm chằm vào bếp lửa, là một mối đe doạ. ông ta phải bị chặn lại. ông có khả năng là một mối đe doạ hơn nữa cho Israel hơn là bất kỳ các nước láng giềng nào khác. - Chúng tôi đã nới về điều đó nhiều năm rồi. Nhưng khi mà chúng tôi ném bom phá lò phản ứng hạt nhân của họ, thì Mỹ lại lên án chúng tôi. Nathanson phác một cử chỉ phản đối bằng một tay. - Không có ý nghĩa gì đâu. dĩ nhiên rồi, mọi sự không có nghĩa rườm rà cho khuôn mặt của nhiều thứ. Cả hai ta đều biết điều đó, và cả chúng ta đều biết nhiều hơn. Tôi có một con trai phục vụ tại vùng Vịnh. - Tôi không biết đấy. Cầu cho anh ấy an toàn trở về. Nathanson tỏ ra xúc động sâu sắc. - Cám ơn anh. Bibi, cảm ơn anh. Ngày ngày tôi cầu nguyện điều đó. Đứa lớn nhất của tôi, đứa con trai duy nhất của tôi. Tôi chỉ cảm thấy rằng... Ở thời điểm này... hợp tác giữa chúng ta cần phải được thực hiện không có trở ngại nào hết cả. - Điều đó thì khỏi bàn cãi. Người lsrael dã có cảm giác khó chịu là tin xấu đang đến. - Để hạ mức thương vong xuống, anh cũng hiểu đấy. Đó chính là lý do tại sao tôi yêu cầu sự giúp đỡ của anh, Bibi ạ, để hạ mức thương vong xuống. Chúng ta cùng ở một phía mà, có đúng thế không nào? Tôi là một người Mỹ và là một người Do Thái. Chuỗi từ lơ lửng trong không khí. - Và tôi là người Israel và là người Do Thái. Netanyahu lẩm bẩm. Ông cũng có cả chuỗi từ. Nhà tài phiệt không có cách nào lân tránh nữa. - Chính xác. Nhưng bởi vì sự giáo dục ở đây. anh sẽ hiểu thế nào - à, thế nào là nói chứ? Những người Mỹ đôi khi cũng xúc động. Liệu tôi có dở hơi không? Một cái thở dài, người Israel nghĩ. - Nếu có điều gì đó được thực hiện có thể bằng cái cách nhỏ bé nào đó giữ số lượng thương vong thấp xuống, dù chỉ một chút ít thôi. cả tôi và những người đồng chí của tôi sẽ vĩnh viễn biết ơn bất kỳ ai đóng góp được cái gì đó. Nửa còn lại của tình cảm được giữ lại, nhưng Netanyahu đã quá kinh nghiệm của một nhà ngoại giao dễ mà bỏ mất nó. Và nếu có cái gì đó được làm hay không được làm có thể làm tăng những thương vong đó, nước Mỹ sẽ nhớ dai và sự trả thù của nó chẳng dễ chịu một chút nào cả. - Các ông muốn gì ở tôi nào? ông hỏi. Saul Nathanson uống cạn ly rượu vang của mình và nhìn chằm chằm vào những cái đồng hồ. - Có vẻ như là, có một người đàn ông ở Baghdad. Mật danh... Jericho... Khi ông kết thúc câu nói của mình, thứ trưởng Ngoại giao đầy ưu tư đi đến Dulles để bắt chuyến bay về nhà.