a tiếng trống vang lên, Ngô Tam Quế chậm rãi bước vào, tướng lĩnh trong đường đều đứng dậy. Thư sinh thiếu niên và Lưu Úc Phương vẫn ngồi yên. Lăng Vị Phong vốn muốn tranh luận với bọn võ sĩ, lúc này chàng cũng ngồi xuống. Lăng Vị Phong nhìn thì chỉ thấy Ngô Tam Quế tuổi quá lục tuần, đỉnh đầu đã cạo nhẵn bóng, mặt có vẻ hơi tiều tụy. Chàng thiếu niên thư sinh vẫn lạnh lùng, đôi mắt hơi giận, hai tay nắm chặt mép bàn, tựa như đang cố kìm chế mình. Ngô Tam Quế nhìn thiếu niên thư sinh, mừng rỡ nói: “Lý công tử đúng là người đáng tin, quả nhiên từ ngàn dặm đến đây, may mắn được gặp, may mắn được gặp!” thiếu niên thư sinh mới đứng dậy, hơi khom người nói: “Xin chào Bình Tây vương!” chàng ta nói ba chữ Bình Tây vương rất lớn, Ngô Tam Quế biến sắc, lúng túng vô cùng nói: “Lý công tử xin đừng gọi như thế, hôm nay chúng ta gặp nhau bằng sự chí thành!”. Bọn võ sĩ vây quanh Lăng Vị Phong cũng nhấp nhổm muốn đứng dậy. Ngô Tam Quế thấy Lăng Vị Phong tỏ vẻ cao ngạo, ngạc nhiên hỏi: “Lý công tử, bằng hữu này là ai?” Thiếu niên thư sinh mỉm cười: “Y là đại hiệp nổi danh miền Tây Bắc Lăng Vị Phong!” Bảo Trụ nghe thế thì cả kinh, y đã từng nghe tiếng tăm của Lăng Vị Phong, nhưng không ngờ rằng chàng đã đến Côn Minh, mà lại đi cùng đường với thư sinh thiếu niên. Lăng Vị Phong vẫn đứng hiên ngang, nói với Ngô Tam Quế: “Người dưới trướng của Vương gia muốn lấy thanh bảo kiếm này...” rồi chàng chỉ vào cây Du Long kiếm, chậm rãi nói: “Tôi đã lấy thanh kiếm này từ tay Sở Chiêu Nam, giờ đây y đã là vệ sĩ tâm phúc bên cạnh Hoàng thượng, Vương gia có biết người này không?” Chàng vừa nói ra lời ấy, tất cả các võ sĩ đều giật mình. Lăng Vị Phong lấy một phong thư đưa cho Bảo Trụ, nói: “Xin hãy đưa cho Vương gia!”. Ngô Tam Quế bóc thư ra xem, toàn thân toát mồ hôi lạnh. Té ra bức thư này là mật chiếu của triều đình gởi cho Tây An tướng quân Lý Bản Thâm đóng tại Côn Minh, bảo ông ta cùng tuần phủ Vân Nam Chu Quốc Trị mật mưu trừ khử Ngô Tam Quế. Y xem xong, gấp bức thư lại, định thần cười lạnh một tiếng, nói vài câu với bọn võ sĩ tùy tùng, bảo bọn chúng lui ra trước. Song xuôi Ngô Tam Quế nghiêm mặt, quát bảo bọn võ sĩ và ca nữ: “Các ngươi hãy lui hết cho ta”. Trong khoảnh khắc, đại đường trở lại yên tĩnh, bọn võ sĩ đều ra ngoài chờ đợi, bên trong chỉ còn lại Ngô Tam Quế và mấy nha tướng tâm phúc. Ngô Tam Quế lại bảo sắp xếp bàn tiệc, đích thân bưng chén rượu, nói với thư sinh thiếu niên: “Lệnh thúc tổ là bậc anh hùng trùm đời, công lao lu mờ nhật nguyệt. Năm xưa tôi tuổi trẻ khí thịnh, chỉ vì đi sai một nước cờ, vốn là chẳng có ý phản đối lệnh thúc tổ, chỉ muốn tiêu diệt kẻ gian tà bên cạnh lệnh thúc tổ, đập tan bọn Lưu Tông Mẫn Ngưu Kim Tinh, không ngờ xảy ra sự thể như hôm nay. Ba mươi năm qua, mỗi khi nhớ đến đều thấy lòng đau như cắt. Ngày trước cùng lệnh huynh viết thư thông chang, hôm nay lại được công tử không chê bai mà vượt đường xa đến đây. Xin mượn chén rượu nhạt này để giải mối hiềm giữa hai nhà!” Lăng Vị Phong nghe thế thì cả kinh. Té ra thư sinh thiếu niên này là cháu của Lý Tự Thành. Kim Nhai nghe xong cũng vỡ lẽ ra, biết rằng thân phận của mình kém xa y. Chỉ có điều ai cũng biết Lý Tự Thành thất bại là bởi Ngô Tam Quế dẫn quân Thanh vào Trung Nguyên, mối đại hận này làm sao có thể hóa giải? Họ không thể nào hiểu nổi tại sao cháu của Lý Tự Thành lại dám đến đây, mà Ngô Tam Quế lại đối đãi như thượng khách? Nói đến buổi gặp gỡ ly kỳ này phải nhắc đến một câu chuyện xảy ra cách đây ba mươi ba năm. Lúc đó vua cuối cùng của triều Minh là Sùng Trinh đang ở trên ngôi, quân nông dân của Lý Tự Thành từ Tây An đánh thẳng vào Bắc Kinh, Sùng Trinh phải treo cổ tự sát trên Môi Sơn, còn Ngô Tam Quế là Tổng binh trấn Liêu Đông, trấn giữ Sơn Hải quan, trong tay có hơn mười vạn binh. Khi Lý Tự Thành tấn công vào, kinh sư gặp nguy cấp, triều đình phong Ngô Tam Quế làm Bình Tây vương, bảo y mau mau đem binh về cứu. Nào ngờ y đi được nửa đường thì kinh thành đã bị phá, đành trở lại Sơn Hải quan chờ đợi. Sau khi Lý Tự Thành đánh vào Bắc Kinh, lực lượng của triều Minh tan rã chỉ còn lại cánh quân của Ngô Tam Quế là có chút thực lực. Lý Tự Thành vì muốn mau chóng thu dọn đại cuộc đã bảo cha của Ngô Tam Quế là Ngô Tương ra khuyên hàng. Lúc đầu Ngô Tam Quế thế lực của mình mỏng manh, chẳng phải là đối thủ của Lý Tự Thành, buộc phải chấp nhận đầu hàng. Không ngờ y chưa về đến Bắc Kinh thì nghe nói ái thiếp Trần Viên Viên bị Lưu Tông Mẫn đoạt mất, Ngô Tông Mẫn chính là một viên đại tướng dưới trướng Lý Tự Thành. Trong cơn đại nộ, y nghĩ nếu mình đầu hàng Lý Tự Thành thì chắc chắn sẽ bị bọn Lưu Tông Mẫn Ngưu Kim Tinh (tức là Tể tướng của Lý Tự Thành) ngồi trên đầu, lợi lộc không được như ý, cái hận bị đoạt tì thiếp khó tan, thế là đột nhiên thay đổi kế hoạch, mở cửa Sơn Hải quan rước quân Thanh vào, tiêu diệt Lý Tự Thành và chính quyền Nam Minh còn sót lại, tuy giành lại được Trần Viên Viên nhưng phải đội cái mũ Hán gian. Lý Tự Thành bị quân Thanh và Ngô Tam Quế vây đánh, đã tử chiến ở núi Cửu Cung tỉnh Hồ Bắc. Nhưng sau khi ông ta chết đi còn để lại bốn mươi vạn quân nông dân, do cháu của ông ta là Lý Cẩm xuất lãnh, vì đại địch đang ở phía trước, quân nông dân quyết định hợp tác với triều đình Nam Minh, triều đình Nam Minh còn phong quân của Lý Cẩm là Trung trinh doanh, phong vợ của Lý Tự Thành là Trung trinh phu nhân. Tuy Lý Cẩm hợp tác với triều đình Nam Minh nhưng vẫn giữ thế độc lập, gọi Lý Tự Thành là tiên đế, gọi Cao thị, vợ của Lý Tự Thành là Thái hậu. Sau đó Lý Cẩm chết trận ở Hồ Nam, quân đội do con nuôi của Lý Cẩm là Lý Lai Hanh xuất lãnh, chiến đấu ở miền Tứ Xuyên Vân Nam, mười vạn quân đều phan tán ẩn nấp ở nơi rừng núi. sau đó triều đình nhà Thanh phong Ngô Tam Quế làm Bình Tây vương, ra lệnh y quản hạt hai tỉnh Vân Nam, Tứ Xuyên, dụng ý là muốn y đối phó tàn dư của Lý Tự Thành. (Chú thích của tác giả: Truyền rằng Lý Lai Hanh đã tự thiêu ở bãi Cửu Niên núi Mao Lộc tỉnh Hồ Bắc vào năm Khang Hy thứ ba. Nhưng tiểu thuyết không phải là lịch sử, vả lại nói không chừng ông ta đã giả chết, bởi vậy tác giả mới viết rằng vẫn còn sống cho đến năm Khang Hy thứ mười hai). Sau khi Ngô Tam Quế lập phủ ở Côn Minh, đã nhiều lần sai quân càn quét, nhưng vùng giáp ranh hai tỉnh Vân Nam và Tứ Xuyên có núi sâu sông lớn, địa thế hiểm trở, quân của Lý Lai Hanh xuất quỷ nhập thần, nhanh nhẹn như cơn gió, bởi vậy trở thành một mầm họa lớn cho triều đình nhà Thanh từ sau khi nhà Minh bị diệt. Thế cuộc giằng co ấy kéo dài đến hơn mười năm. Lý Lai Hanh tuy không thể đánh ra ngoài nhưng Ngô Tam Quế cũng không dám đi sâu vào. Chàng thư sinh thiếu niên này tên gọi Lý Tư Vĩnh, là em của Lý Lai Hanh, văn tài võ lược đều suất sắc, tuy y không phải la chủ soái, nhưng tiếng tăm còn hơn cả anh trai của mình. Đến năm Khang Hy mười ba, Ngô Tam Quế bị triều đình nhà Thanh ép buộc, phải mưu phản tự cứu, lúc này mới nhớ đến bộ thuộc của Lý Tự Thành có thể sẽ đâm sau lưng của mình, nếu chưa giảng hòa với họ mà đã cất binh thì họ sẽ từ miền rừng núi đánh ra, lúc đó trước sau đều gặp địch, bởi vậy rất lo lắng. Lúc này Côn Minh đang là đêm trước ngày giông bão, người của triều đình, người của đốc phủ các tỉnh Tây Nam, sứ giả Bình Nam vương, Tĩnh Nam vương, bộ thuộc của Lý Lai Hanh, người các phe đều âm thầm hoạt động ở Côn Minh. Ngô Tam Quế vắt óc suy nghĩ, cuối cùng nghe lời một mưu sĩ, làm mặt dày sai sứ giả đến vùng giáp ranh Tứ Xuyên và Vân Nam gởi thư cho Lý Lai Hanh, yêu cầu bỏ mối hiềm khí cũ. Lý Lai Hanh và đại tướng dưới trướng bàn bạc ba ngày, có người bảo Ngô Tam Quế đã bức tử “tiên đế” (chỉ Lý Tự Thành), nên không thể hợp tác. Có người nói y đã quyết tâm kháng Thanh thì cũng nên hợp tác với y. Sau đó Lý Tư Vĩnh đã đưa ra tám chữ lớn: “Lấy ta làm chủ, trước ngoài sau trong”. Ý nghĩ của câu trên là nếu Ngô Tam Quế chịu chấp nhận hợp tác, hai nghĩa quân nông dân phải nắm chủ động; ý nghĩ của câu dưới là vì đối phó với Mãn Thanh, tạm thời gác xích mích với Ngô Tam Quế sang một bên. Kế sách đã định, Lý Tư Vĩnh liều thân đơn thương độc mã đến Côn Minh. Lại nói tiếp chuyện phía trước. Chuyện đang kể rằng Ngô Tam Quế thấy Lý Tư Vĩnh thì mừng rỡ, vội vàng giải thích, Lý Tư Vĩnh lạnh lùng nói: “Vương gia không cần nhiều lời, nếu chúng tôi nhớ đến thù xưa thì hôm nay đã không đến đây”. Ngô Tam Quế khen rằng: “Đúng thế! Nên chúng tôi rất bội phục Lý công tử! Chuyện hôm nay là phải đuổi Hồ Lỗ ra khỏi trầm ngâm trước”. Lăng Vị Phong nghe thế thì chợt hát một đoạn kịch: “Đó gọi là tháo chuông cần người buộc chuông, thành cũng Tiêu Hà, bại cũng Tiêu Hà”. Ý nghĩa rất rõ ràng. Chàng cười kẻ đã rước quân Thanh vào là Ngô Tam Quế, giờ đây đuổi quân Thanh cũng là Ngô Tam Quế. Bảo Trụ trừng mắt, quát lớn: “Nhà ngươi nói gì?” Lăng Vị Phong cười hì hì: “Không có gì làm, rảnh rỗi hát vài câu”. Ngô Tam Quế sợ mọi chuyện lại đổ bể, cười khan mấy tiếng rồi nói: “Tráng sĩ này thật vui tính, nhưng chúng ta đang bàn chuyện quan trọng”. Rồi y lại kể ra một lô một lốc tên của những viên đốc phủ triều đình, nói: “Bình Nam vương Thượng Khả Hỷ và Tĩnh Nam vương Cẩn Tinh Trung đều đã hưởng ứng, ta thấy nếu không phất cờ nghĩa thì thôi, hễ phất thì việc lớn tất thành. Đây chính là sứ giả của Bình Nam vương”. Nói xong thì chỉ Kim Nhai, Kim Nhai cúi người nói: “Chúng tôi đều nghe theo Bình Tây vương”. Ngô Tam Quế nhìn y nói: “Từ rày về sau đừng gọi ta là Bình Tây vương nữa, chức quan của ta giờ đây là Thiên hạ thủy lục đại nguyên soái, hưng Minh phạt Lỗ đại tướng quân!” nói xong thì mỉm cười với Lý Tư Vĩnh: “Hiền côn trọng xưa nay lấy phạt Lỗ làm trách nhiệm, chắc làn này cũng không phản đối!”. Lý Tư Vĩnh lạnh nhạt nói: “Phất cờ nghĩ nói thì dễ nhưng chỉ e làm thì khó!” Lăng Vị Phong chợt chen vào nói: “Xin hỏi Thiên hạ thủy lục đại nguyên soái, hưng Minh phạt Lỗ đại tướng quân là do ai phong? Nếu có người hỏi đến kết cuộc của Vĩnh Minh vương, đại tướng quân trả lời thế nào đây?” Vĩnh Minh vương là tông thất của nhà Minh, cũng là cánh quân Nam Minh kháng Thanh cuối cùng. Ngô Tam Quế đã đích thân đuổi Vĩnh Minh vương đến Miến Điện, bắt sống rồi giết. Lăng Vị Phong hỏi một cách mỉa mai, Ngô Tam Quế chẳng trả lời được, Bảo Trụ đã rút phắt thanh kiếm, đâm với tới, Lý Tư Vĩnh đứng dậy phất ống tay áo, chắn giữa hai người. Ngô Tam Quế kêu lớn: “Ngừng tay!” Bảo Trụ đỏ mặt, rút thanh kiếm về nhưng vẫn trừng mắt nhìn chàng. Lý Tư Vĩnh chậm rãi nói: “Mong đại tướng quân bớt giận, Lăng đại hiệp tuy có lời phạm đến oai hổ nhưng cũng không phải không có lý!” Ngô Tam Quế ngồi yên, lạnh lùng hỏi: “Lý lẽ gì? Mong được nghe!”. Lý Tư Vĩnh nói: “Nếu đại tướng quân đã chân thành gặp gỡ, chắc không ngại tôi nói thẳng. Với thân phận của đại tướng quân, hôm nay vẫn lấy phản Thanh phục Minh làm lời hiệu triệu thì e rằng không tiện lắm. Danh không chính thì ngôn không thuận, minh triều mất bởi tay tướng quân, thiên hạ đều biết. Hôm nay tướng quân tự xưng hưng Minh phạt Lỗ e rằng trăm họ khó tin!”. Ngô Tam Quế lúng túng và tức giận vô cùng nhưng không dám phát tác, y chỉ nhíu mày cố hỏi: “Vậy công tử có cao kiến gì?” Lý Tư Vĩnh thản nhiên nói: “Chi bằng dùng đuổi Lỗ hưng Hán, lấy danh nghĩa của nghĩa quân kêu gọi bốn phương, rồi gia huynh lại sẽ ra mặt”. Bảo Trụ tức giận hỏi: “Nói đi nói lại cũng là do các ngươi làm chủ. Còn bọn ta thì phải giành giang sơn cho các ngươi!” Lý Tư Vĩnh bực dọc nói: “Ta chỉ làm theo điều lợi cho thiên hạ, chỉ cần đuổi bọn Hồ Lỗ, không cần tính toán những điều khác, cũng không khiêm nhường né tránh!”. Ngô Tam Quế phất ống tay áo đứng dậy, cười khan nói mấy tiếng: “Lý công tử quả nhiên rất mau mắn, chuyện này trong nhất thời khó quyết, sau này hãy bản tiếp! Bảo Trụ, tiễn khách cho ta!” y nháy mắt với Bảo Trụ rồi bước ra ngoài. Bảo Trụ hiểu ý ngay, bưng trà tiễn khách, lúc này trong đại đường chỉ có Lý Tư Vĩnh, Lưu Úc Phương, Lăng Vị Phong và một mình Bảo Trụ. Bảo Trụ bưng chén trà, làm ra vẻ tiễn khách nhưng không đưa họ ra ngoài, cũng không bảo người dẫn đường. Lý Tư Vĩnh chỉ nghĩ đôi bên xung đột lời nói với nhau nên bọn chúng cố ý lạnh nhạt, trong lòng cười thầm Ngô Tam Quế hẹp lượng. Lăng Vị Phong thì lão luyện giang hồ, trong lòng rất nghi. Chàng đi được mười mấy bước, quay đầu lại nhìn thì chỉ thấy Bảo Trụ cười gằng, Lăng Vị Phong kêu lớn: “Lý công tử để ý!” Bảo Trụ dùng tay nhấn lên bức vách, đột nhiên nghe ầm một tiếng, ở giữa đại đường lõm xuống, Lăng Vị Phong thi triển khinh công tuyệt thế phóng vọt người như mũi tên về phía Bảo Trụ, Bảo Trụ vung hai ống tay áo, một cái vòng vàng phóng vút ra, Lăng Vị Phong thu người lại trên không trung rồi lộn qua né tránh cái vòng vàng nhảy bổ xuống chụp lấy Bảo Trụ. Chàng phóng tới nhanh như điện chớp khiến Bảo Trụ thất kinh, lúc này chàng đã xông đến trước mặt y. Bảo Trụ vung hai quyền ra, Lăng Vị Phong không né cũng chẳng tránh, ôm chặt lấy y, cả hai người cùng rơi xuống địa lao. Trong địa lao tối om om chẳng thấy nổi năm ngón tay, Lăng Vị Phong vừa đứng vững thì lập tức kêu lên: “Lưu cô nương, các người có ở đây không?” trong góc phòng vang lên giọng nói trong trẻo: “Là Lăng đại ca đấy ư? Chúng tôi đều ở đây cả!” Lăng Vị Phong buông Bảo Trụ, lò giò bước về hướng nàng. Nào ngờ Bảo Trụ vừa thoát thân thì đã đấm tới một quyền, Lăng Vị Phong gạt ra, quát: “Ngươi muốn chết?” Bảo Trụ chẳng nói một lời, liên tục đánh ra đến bảy tám quyền. Lăng Vị Phong bị Bảo Trụ đánh vào mấy quyền, biết không thể coi thường công lực của người này, làm sao có thể để cho y đánh tiếp, thế là thi triển chưởng pháp Bát quái du thân đi vòng quanh Bảo Trụ, Bảo Trụ không hề ngơi tay, mỗi quyền đều đánh vào chỗ yếu hại của Lăng Vị Phong tựa như toàn thân đều có mắt. Lăng Vị Phong biết y đánh La Hán quyền của Thiếu Lâm, loại quyền này coi trọng kình đạo, tốc độ, bởi vậy chàng không thể tiếp quyền. Chàng quát lên một tiếng, hai chưởng múa ra liên tục, chỉ đánh vào những chỗ trống, lúc này đôi chưởng của chàng tựa như hai món binh khí, chưởng phải thì như một cây ngũ hành kiếm, chưởng trái xỉa tới như đơn đao đâm vào huyệt đạo. Bảo Trụ chỉ cảm thấy chưởng phong vù vù, hiểm hóc vô cùng, chiêu số của Lăng Vị Phong đều đánh vào huyệt đạo của y, y không khỏi kinh hãi, thầm nhủ: “Lăng Vị Phong quả nhiên danh đồn không ngoa, trong bóng tối mà có thể nhận rõ huyệt đạo như thế!”. Lý Tư Vĩnh, Lưu Úc Phương nghe tiếng quyền chưởng đánh nhau bôm bốp, không biết là Lăng Vị Phong đã đánh nhau với ai, Lý Tư Vĩnh nói: “Lưu cô nương, có mang theo mồi lửa không?” mồi lửa là một trong những vật dụng cần thiết mà người giang hồ mang theo bên người. Lưu Úc Phương nghe chàng nhắc nhở thì mới thổi bùng mồi lửa lên, nàng cầm mồi lửa bước đến gần, Lăng Vị Phong thấy Lưu Úc Phương chậm rãi đi về phía mình thì dốc hết thần oai, quát lớn một tiếng, tung ra một cú đá khiến Bảo Trụ té sấp xuống đất. Bảo Trụ lộn người dậy, rút ra thanh thiết đao chém tới, Lăng Vị Phong lại tung ra một cú đá trúng vào cổ tay của Bảo Trụ, thanh thiết đao bay bổng lên không trung, Lăng Vị Phong dấn tới vỗ một chưởng vào lưng của y, Bảo Trụ lại lăn xuống đất, chàng giở chân đạp lên người y quát hỏi: “Ngươi có muốn đánh nữa không?” Bảo Trụ bị chàng đạp trúng huyệt Thông Tuyền, y chỉ cảm thấy xương cốt toàn thân rã rời, đau đớn đến tận gan phổi, thều thào nói: “Ngươi cứ giết chết ta! Dù ta có chết ngươi cũng chẳng sống nổi”. Lăng Vị Phong nhíu mày, giở chân đá thanh đao của y sang một góc, nói: “Ta không rảnh giết ngươi!” Lăng Vị Phong đang định bước tới Lưu Úc Phương thì chợt nghe xung quanh có tiếng nước chảy. Lăng Vị Phong cười khổ nói: “Đây là thủy lao” Bảo Trụ cười ha hả. Lý Tư Vĩnh nổi giận, giở y lên, đưa ra cửa sổ dìm xuống nước, Bảo Trụ xưa nay sống ở cao nguyên Vân Quý, chẳng hề biết bơi, bị nhúng xuống nước thì lập tức kêu hoảng nhưng lợn bị chọc tiết. Lý Tư Vĩnh cứ nhấc y lên rồi nhúng xuống nước trở lại, cười nói: “Ngươi có kêu nữa không?” lúc này tiếng nước bên ngoài ngừng lại, có người kêu lên: “Mời Lý công tử đáp lời!”. Lăng Vị Phong thấy thủy lao này được ghép lại bằng gỗ, ở cửa sổ tuy có tấm sắt nhưng cũng rất dễ gãy, có điều bên ngoài toàn là nước, lại được chôn dưới đất nên dù có phá hủy căn thủy lao cũng khó thoát. Chàng tiến đến sát cửa sổ, quát hỏi: “Ai thế?” người bên ngoài quát lớn: “Không cần nhà ngươi xen vào, kêu Lý công tử tới đây”. Lý Tư Vĩnh chậm rãi bước đến cửa sổ, lớn giọng nói: “Vương gia của các người nghĩ ra kế thật hay, nhưng đáng tiếc dù ngươi có ép chết mấy người bọn ta cũng không thể nào giết chết mười vạn huynh đệ của chúng ta!” người bên ngoài đổi giọng, khuyên rằng: “Vương gia nào dám coi thường công tử, chỉ vì công tử quá cố chấp, ý của Vương gia mà muốn công tử viết thư cho lệnh huynh, mời ông ta xuất binh đến Hồ Bắc, hai nhà vẫn thân thiết với nhau! Nếu công tử chịu chấp nhận thì hãy lập tức ra đây!” Lý Tư Vĩnh biết bọn chúng muốn bắt mình làm con tin để cho cánh quân của mình đánh thay bọn chúng. Chàng cười lạnh rồi hừ một tiếng nói: “Có gì mà kỳ kèo nữa? Nếu các ngươi có thánh ý kháng Thanh thì hãy lập tức đổi phiên hiệu, thay đổi cách ăn mặc, qui thuận vương triều Đại Thuận. Dù Ngô Tam Quế không chịu tự sát để tạ lỗi với người trong cả nước thì cũng giao ra binh quyền rút lui từ đây!” một lúc sau bên ngoài vẫn không nói, nước đổ vào òng ọc, đã sắp tràn lên đến cửa, Lý Tư Vĩnh vẫn tự nhiên, không ngừng cười lạnh, đột nhiên tiếng nước đổ ngừng lại, trên cửa thủy lao mở ra một cái lỗ, có người thòng giỏ thức ăn xuống, nói: “Xin mời Lý công tử dùng cơm”. Lưu Úc Phương chẳng dám động tay vào thức ăn. Lăng Vị Phong thì ăn uống nhồm nhoàm, cười nói: “Lúc này bọn chúng không dám bỏ độc!” nói xong thì nhìn Bảo Trụ, ném thức ăn sang cho y, Bảo Trụ quát lên: “Bên trên đừng thả thức ăn nữa, ta chịu đói được!” Lý Tư Vĩnh tung cước đá y một cái. Bảo Trụ đoán rằng, trong tình huống này, Ngô Tam Quế không giết bọn họ, bọn họ cũng không giết mình, chi bằng mình cứ nhịn đói thế nào bọn chúng cũng chịu khuất phục. Vả lại y đoán rằng, nếu bọn Lăng Vị Phong bị đói đến bủn rủn tay chân, võ sĩ bên ngoài sẽ xông vào thủy lao, lúc đó mình có thể thoát ra. Thế là bên trên cũng ngừng đứa thức ăn xuống. Bốn ngày sau, mọi người đều đói đến vàng mắt, Lăng Vị Phong đột nhiên sinh bệnh, toàn thân run bần bật, Lưu Úc Phương cũng ủ rũ chân tay, nàng nhích đến gần nắm tay chàng! Tuy trong thủy lao tối om nhưng Lăng Vị Phong vẫn có thể nhìn thấy đôi mắt đen láy của nàng, chàng cảm thấy tâm hồn mình đang run rẩy, so với nỗi khổ trong tâm hồn, căn bệnh thể xác chẳng đáng là gì. Lưu Úc Phương nắm tay chàng hỏi: “Vị Phong, e rằng chúng ta không thể ra khỏi đây! Hãy hứa với muội, huynh có thể nói thực cho họ biết không?” Lăng Vị Phong rút tay ra, lại bẻ ngón tay theo thói quen, rầu rĩ nói: “Nếu tôi muốn nói, trước khi chết tôi sẽ cho cô nương biết”. Lưu Úc Phương nín thở, nhìn chàng bẻ ngón tay, đột nhiên nắm lấy hai tay chàng, nói với giọng hết sức tự tin: “Suốt đời mình huynh có làm chuyện gì thật sự tàn nhẫn hay không? Nếu huynh đã làm thì phải biết điều đó càng khó chịu hơn cả cái chết! Tôi đã giết chết người bạn thời thơ ấu của mình, nếu y thật sự chết đi, tôi sẽ hối hận suốt đời. Nhưng nếu y giống như huynh, không chết đi, mà chỉ đi đến một nơi rất xa, suốt đời hận tôi, tôi không chỉ hối tiếc mà mỗi đêm đều nằm ác mộng, trong mộng tôi thấy xung quanh tối mịt, tựa như thủy lao này...”. Lăng Vị Phong đau đớn trả lời: “Cô nương nói thế đã quá tàn khốc! Tôi mong bằng hữu của cô nương chết đi thì hơn, nếu sống trở về thì e rằng càng tàn khốc hơn. Tôi chưa bao giờ cho cô nương biết chuyện thời thơ ấu của tôi như thế nào có đúng không? Giờ đây chúng ta sắp chết, cũng nên nhớ về thời thơ ấu một chút!”. Lưu Úc Phương nhìn chàng với ánh mắt chờ đợi, khẽ nói: “Huynh nói đi!” Lăng Vị Phong lại rút tay ra, vặn bẻ ngón tay của mình: “Mẹ tôi rất thương tôi, có lúc người cũng rất nghiêm khắc. Có lần có mấy đứa trẻ bức hiếp tôi, tôi đánh chúng một trận. Mẹ tôi trách tôi, tôi thấy rất ấm ức, đột nhiên tôi len lén bỏ nhà đi, nằm trên một đỉnh núi, lúc đó tôi nghĩ rằng, mẹ chắc chắn tưởng rằng tôi đã chết, lúc này người chắc chắn đang khóc. Tôi cứ nghĩ mãi như thế, trong lòng cũng cảm thấy khoái trá, nhưng cảm thấy rất đau buồn... Úc Phương, cô đang cười hay khóc? Cô có cảm thấy đứa trẻ này buồn cười hay không?”. Lưu Úc Phương thút thít nói: “Tại sao huynh phải hành hạ một người mình thương yêu?” Lăng Vị Phong nói: “Bản thân tôi cũng không biết, lúc đó có lẽ tôi cảm thấy mẹ thương tôi như thế thì không nên trách tôi khi chưa hỏi rõ ràng, ý nghĩ của trẻ con là như thế, đúng không?” Lưu Úc Phương thở gấp, lần thứ ba nàng nắm lấy tay chàng, nói: “Giờ huynh không còn là một đứa trẻ nữa!” Lăng Vị Phong thấy rất đau khổ, cố gượng cười: “Tôi không kể chuyện của chúng ta. Đương nhiên tôi không phải là người bằng hữu của cô nương. Song tôi nghĩ y có lẽ cũng sẽ nghĩ như môt đứa trẻ, vả lại nếu từ rất nhỏ y cũng giống như tôi, chạy đến một nơi lạnh lẽo!”. Lưu Úc Phương đột nhiên nắm tay chàng, nói bằng giọng tuyệt vọng: “Thật sự không thể tha thứ hay sao?” Lăng Vị Phong khẽ nói: “Tôi nghĩ y có thể tha thứ...” chàng vừa nói xong thì chợt từ trên thủy lao có một người đu dây xuống. Lý Tư Vĩnh đã bị đói mấy ngày, nhưng chàng vẫn có thể đi đứng được, lúc này thấy có một người từ trên đu dây xuống thì vội vàng bước đến hỏi: “Ai?” người ấy đội mũ che quá mặt, chẳng nói một lời chậm rãi bước tới. Lý Tư Vĩnh đợi y bước đến gần, vung tay ra chụp lấy mạch môn của y, ngón tay cái đè chặt vào huyệt Quan Nguyên. Huyệt Quan Nguyên là một trong ba mươi sáu đại huyệt, nếu bị người ta nắm thì sẽ lập tức mềm nhũn người. Chỉ nghe người ấy kêu hừ một tiếng, Lý Tư Vĩnh cảm thấy như bóp phải một khối bông, mềm mại chẳng hề chịu lực, chàng chợt giật mình, đây chính là công phu bế huyệt thượng thừa nhất mà Lý Tư Vĩnh chẳng hề biết. Thầm nhủ: “Sao trong phủ Ngô Tam Quế lại có một nhân vật như thế này?”. Người ấy kêu hừ một tiếng thì đột nhiên ghé tai Lý Tư Vĩnh nói: “Công tử đừng lo, tôi sẽ không hại công tử. Đừng kêu lên, chỉ cần cho tôi biết có phải Lăng Vị Phong ở đây không?”. Lý Tư Vĩnh đỏ mặt, vội vàng buông tay y ra, chỉ về phía Lăng Vị Phong, người ấy đảo mắt đi về phía Lăng Vị Phong. Lưu Úc Phương đang mê man, có người bước tới mà nàng vẫn không biết, vẫn nắm tay Lăng Vị Phong hỏi: “Huynh nói gì? Nói lại một lần nữa xem... huynh nói có thể tha thứ hay không? Vậy huynh là... là người ấy sao?” Lăng Vị Phong chợt vùng ra khỏi tay nàng, đẩy nàng ra, khẽ nói: “Có người đến!” Lưu Úc Phương thẫn thờ ngồi xuống đất, bị Lăng Vị Phong đẩy một cái thì như tỉnh cơn mơ, không biết nàng lấy đâu ra sức mà đứng bật dậy đánh một chưởng về phía người ấy. Người ấy nhẹ nhàng tránh qua một bên, Lưu Úc Phương không kìm lại được, chồm người về phía trước, người ấy đỡ nàng dậy, khẽ nói bên tai: “Điệt nữ, tỉnh dậy! Là ta! Ta đến trị bệnh cho điệt nữ!” người ấy nói hai lần Lưu Úc Phương mới nghe ra giọng, nàng khóc òa lên. Người này nhìn Lưu Úc Phương rồi lại nhìn xuống Lăng Vị Phong, khẽ vỗ vai nàng nói: “Điệt nữ đừng lo, ta sẽ trị bệnh cho Lăng Vị Phong”. Ông ta tưởng rằng Lưu Úc Phương chịu không nổi đau khổ nên khóc lên chứ không biết nàng có tâm bệnh. Nhắc đến bệnh xuống Lăng Vị Phong, Lưu Úc Phương tỉnh táo trở lại, nàng thút thít nói: “Thúc thúc, con không sao, người hãy xem trước cho y...” nàng nói đến đây thì ngừng lại, người ấy ngạc nhiên nhìn nàng, lắc đầu rồi ngồi xuống bắt mạch cho Lăng Vị Phong. Lăng Vị Phong lúc này cũng nhận ra người ấy, đang định kêu thì người ấy xua tay tỏ ý bảo chàng đừng lên tiếng. Bắt mạch xong người ấy lấy ra một cây ngân châm dài hơn một thước, ông ta cởi áo ngoài Lăng Vị Phong, đột nhiên dùng châm đâm lên người chàng. Lý Tư Vĩnh thấy thế cả kinh, vội vàng quát: “Ngươi làm gì?” Người ấy rút cây ngân châm ra, khi cởi áo ngoài của Lăng Vị Phong ra, Lưu Úc Phương cũng quay đầu xem, thấy Lý Tư Vĩnh định xông lên cản trở thì vội vàng ngăn lại: “Ông ta đang trị bệnh cho Vị Phong! Ông ta là thần y!” Lý Tư Vĩnh thấy cây kim đâm vào xương sống lưng Lăng Vị Phong đến hơn một nửa, Lăng Vị Phong thì vẫn tỉnh táo, chẳng kêu một tiếng, lúc này mới nửa tin nửa ngờ. Một hồi xuống Lăng Vị Phong kêu ối lên một tiếng, người ấy rút cân ngân châm ra, nói: “Tốt rồi, tốt rồi!” Lăng Vị Phong ngồi dậy, dập đầu lạy rằng: “Tuyệt kỹ chữa trị bằng ngân châm quả nhiên danh đồn không ngoa!” Lý Tư Vĩnh ngạc nhiên nhìn lại, chỉ thấy Bảo Trụ cũng bước tới gần. Lăng Vị Phong thấy Bảo Trụ bước đến gần thì đột nhiên điểm ra một chỉ, đâm vào Hôn huyệt của y, Bảo Trụ không kịp kêu lên một tiếng đã ngã xuống đất. Người ấy chỉ lên thủy lao, Lý Tư Vĩnh ngẩng đầu, chỉ thấy bên trên thủy lao ánh lửa bập bùng, bóng người thấp thoáng. Người ấy đột nhiên kêu lớn: “Lý công tử, Vương gia có ý tốt ra lệnh cho tôi đến đây trị bệnh cho các người, một lòng muốn kết minh, Lý công tử cần gì phải cứng rắn như thế!” nói xong thì khẽ bảo: “Lý công tử hãy mau đáp lời!” Lý Tư Vĩnh thông minh tuyệt đỉnh, chàng nghe là hiểu ngay, thế rồi nói lớn: “Đại phu hãy im miệng! Công trị bệnh đương nhiên phải đáp tạ, nếu nói đến việc lớn thì ngươi không được xen vào!” người ấy thở dài rồi giả vờ lầm bầm, Lý Tư Vĩnh nói giọng ôn hòa hơn: “Tôi sẽ kết giao cùng một người bằng hữu như ông, nhưng ông muốn làm thuyết khách cho Ngô Tam Quế thì đã phí công!” người ấy thở dài một tiếng, đu lên sợi dây, người trên thủy lao đã kéo y lên. Lăng Vị Phong và Lý Tư Vĩnh nhìn nhau cười, tiện tay giải huyệt đạo cho Bảo Trụ, cười nói: “Ngươi muốn bọn ta chết đói? Vương gia của ngươi chẳng nghe lời ngươi”. nói vừa dứt lời thì quả nhiên thức ăn lại được thả xuống, bọn Lý Tư Vĩnh ăn uống nhồm nhoàm, chỉ ném xương dư cho Bảo Trụ khiến Bảo Trụ tức đến suýt ngất đi, y tiếc mình đã chịu nhịn đói cùng với bọn họ, kết quả là mọi chuyện diễn ra khác hẳn. Từ đó về sau, cứ cách mỗi hai ngày thì đại phu xuống một lần, đem theo những loại trà thuốc khiến họ bổ huyết khí, mỗi lần xuống đều cố ý nói cười với bọn Lý Tư Vĩnh, hai ngày sau thì bóng người bên trên cũng không còn nhiều như lúc đầu nữa. Mười ngày sau bọn Lăng Vị Phong hoàn toàn hồi phục. Một ngày nọ, đại phu ấy đột nhiên phóng xuống, vừa gặp đã kêu lên: “Mau chạy theo ta!” Bảo Trụ đang lúc ngạc nhiên thì bị y đánh trúng một chưởng ngã lăn cù, y sử dụng thủ pháp phân thân thác cốt khiến toàn thân Bảo Trụ mềm nhĩn, rồi y lấy ra một cây trủy thủ, nói với Lưu Úc Phương: “Ta mượn Cẩm Vân Đâu của điệt nữ một lát!” Lý Tư Vĩnh biết ông ta cần dùng gấp nên tháo sợi lưu tinh chùy ở eo ra, đưa cho ông ta nói: “Cái này tốt hơn Cẩm Vân Đâu!” người ấy khen rằng: “Lý công tử đúng là người tài giỏi!” rồi ném cây trủy thủ trong tay lên cắm vào vách đá cao hơn mười trượng, dùng lực vọt một cái, tay phải chụp vào cây trủy thủ, tay trái buông sợi lưu tinh chùy xuống, Lưu Úc Phương nhảy lên cao đến mấy trượng, vừa vặn chụp trúng đầu chùy, người ấy giật mạnh lên, Lưu Úc Phương phóng vọt người thoát khỏi thủy lao. Té ra từ đáy thủy lao lên đến bên trên cao đến hơn ba mươi trượng, với công lực của ông ta tuy không cần dùng cây trủy thủ vẫn có thể phóng ra ngoài, nhưng ông ta đoán rằng Lưu Úc Phương chưa có được công lực như thế bởi vậy mới bám vào cây trủy thủ, dùng khinh công tuyệt đỉnh đẩy Lưu Úc Phương ra khỏi thủy lao. Tiếp theo Lý Tư Vĩnh cũng phóng ra như thế. Cuối cùng thì đến lượt Lăng Vị Phong, chàng kẹp Bảo Trụ, không cần nắm phi chùy mà phóng vọt người lên cao đến hơn mười trượng, rồi lại dùng mũi chân điểm vào vách đá, đổi thế cũng vọt lên tiếp, người ấy khen rằng: “Khinh công giỏi!” rồi thu phi chùy phóng ra ngoài! Ra khỏi thủy lao, chỉ thấy có năm sáu võ sĩ nằm la liệt dưới đất, không hỏi cũng biết là do người này đã điểm huyệt đạo của chúng. Có điều lúc nãy dưới thủy lao lúc nãy không hề nghe tiếng đánh nhau, có thể thấy ông ta đã ra tay nhanh đến mức nào. Điểm huyệt không khó, nhưng khó là ở chỗ chỉ trong khoảnh khắc đã chế phục được tất cả người này. Lý Tư Vĩnh rất khâm phục, lúc trước trong thủy lao nhìn không rõ, giờ đây đang ở chỗ sáng, chỉ thấy người này tóc bạc mặt hồng hào, râu dài ba chòm, trông rất tiên phong đạo cốt. Lý Tư Vĩnh đang định hỏi họ tên, Lưu Úc Phương đã nói: “Trong thủy lao không tiện nói cho công tử biết, ông ta chính là sư thúc của tôi, Phó Thanh Chủ tiên sinh!” Lý Tư Vĩnh kêu ồ một tiếng, vui mừng nói: “Té ra là lão tiền bối phái Chung Nam, chả trách nào võ công tinh thuần đến thế!” đang định thi lễ thì Phó Thanh Chủ đã kéo chàng, mỉm cười nói: “Đây không phải là nơi nói chuyện. Mau theo ta!”. Phó Thanh Chủ rất quen thuộc đường lối trong vương phủ, ông ta dắt mọi người phóng lên mái ngói, chạy thẳng ra hậu viên. Đang chạy thì Bảo Trụ đột nhiên kêu lớn: “Bọn ngươi chạy đi đâu cho thoát!” đột nhiên một loại ám khí như phi hoàn thạch bay tới, Lăng Vị Phong quát lớn: “Ngươi đã chán sống!” rồi tay phải kẹp mạnh, Bảo Trụ lập tức ngất đi. chàng đã lia Du Long kiếm ra múa thành một vòng thanh quang, số ám khí ấy rơi xuống như mưa. Ám khí bên dưới vẫn không ngừng đánh lên, lúc này Lý Tư Vĩnh đã múa sợi lưu tinh chùy, những món ám khí đều bị đánh bật ra! thủ pháp ứng phó ám khí của Phó Thanh Chủ càng đặc biệt hơn, chỉ thấy ông ta múa đôi tay áo phần phật, cuốn hết những ám khí bắn về phía mình. Lăng Vị Phong nhân lúc hai người Phó, Lý tiếp ám khí thì đút kiếm vào bao, lấy ra mấy cây phi mãng quát lớn: “Có đi mà không có lại chẳng lễ!” rồi chàng vung tay lên, mấy luồng kim quang bắn ra, bên dưới tiếng kêu thảm nổi lên liên tục, vài tên võ sĩ đã bị thần mãng cắm vào ngực lập tức đứt hơi. Sau một hồi đại loạn, Phó Thanh Chủ dắt mọi người nhảy vọt qua mấy lớp ngói chạy ra đến hậu viên. Lúc này Bảo Trụ cũng vừa mới tỉnh dậy, Lý Tư Vĩnh đi ở phía trước, thấy y tuy bị Lăng Vị Phong dùng lực kẹp nhưng vẫn cười gằng. Chàng chợt giật mình thì thấy phía trước vù một tiếng, một luồng lửa phun tới, mọi người đều biết loại lửa lưu huỳnh này rất lợi hại, vội vàng nhảy xuống bên dưới né tránh, đột nhiên bốn bề đều có lửa phụt ra, quét về phía Lăng Vị Phong trông như vài con rồng lửa toan nuốt chửng chàng. Lăng Vị Phong gầm lớn một tiếng, phóng vọt lên khỏi màn lửa, lao bổ xuống hoa viên, lăn người xuống đất dập tắt lửa bị táp vào người, Bảo Trụ cũng bị ném ra cách đó mấy trượng, đầu và mặt đều bị lửa táp. Y vừa thoát khỏi tay Lăng Vị Phong thì lập tức giật một cây côn trong tay một tên võ sĩ, hò hét bọn võ sĩ cùng tiến lên bao vây, quả nhiên không hổ là một viên mãnh tướng. Bọn Phó Thanh Chủ nhảy xuống vườn hoa theo Lăng Vị Phong, thấy trong vườn thấp thoáng bóng người, mười mấy tên võ sĩ trước mặt đều cầm ống phun lửa quét tới, hễ ngọn lửa phun đến đâu thì cây cối trong vườn đều bốc cháy. Bọn bốn người Lăng Vị Phong thi triển khinh công tuyệt đỉnh, luồn qua lách lại trong màn lửa, lại còn phải đối phó với các loại ám khí bên ngoài bắn vào, tình thế quả thực rất nguy hiểm! Dưới màn lửa lưu huỳnh của bọn võ sĩ, bọn bốn người Lăng Vị Phong chẳng thể nào tương trợ nhau được, ai nấy đều tách ra dùng khinh công tuyệt đỉnh đối phó với bọn chúng, nhưng dù họ chạy đi đâu lửa cũng phun theo. Lăng Vị Phong cả giận, cởi áo ngoài vung một cái. Một vòi lửa bắn tới như con hỏa xà, Lăng Vị Phong không né tránh mà lao tới chụp áo xuống, người phóng vọt lên, tay trái đã cầm Thiên Sơn thần mãng, khi chàng vọt người lên thì vòi lửa đã bị chiếc áo bao trùm. Lúc này chiếc áo đã bốc lửa cháy phừng phừng, nhưng Lăng Vị Phong nhờ có chiếc áo che chắn nên không bị thương. Tên võ sĩ ấy không ngờ rằng Lăng Vị Phong lợi hại đến thế, đột nhiên thấy chàng phóng vọt người lên không trung như con quái điểu, y trợn mắt há mồm. Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, một luồng ô kim bắn qua màn lửa, y không né tránh kịp, vội vàng giơ ống phun lửa lên cản theo bản năng, chỉ nghe bốp một tiếng, lửa bắn tung tóe, lập tức ngọn lửa bao phủ toàn thân, bị thiêu cháy như con lợn quay! Không những thế bọn võ sĩ gần đấy đều hoảng hồn chạy tránh, lúc này Lăng Vị Phong đã từ trên không hạ người xuống, cầm chiếc áo đã bắt lửa quét quanh một vòng, tiện tay ném vào đám người ấy, tay phải thì rút cây Du Long kiếm đánh tới như mưa bão, ống phun lửa chỉ tiện đánh xa chứ không tiện đánh gần. Bọn võ sĩ chỉ đành đặt ống phun lửa xuống, rút ra binh khí. Lăng Vị Phong mở được một đường máu, bọn Phó Thanh Chủ vội vàng phóng người thoát theo đường ấy. cả bốn người như bốn con mãnh hổ, chẳng ai ngăn cản nổi. Có điều bọn vệ sĩ trong vườn hoa không ít, vừa thấy bóng người toan xông ra khỏi vòng vây thì lập tức từ bốn phương tám hướng kéo tới bao vây trùng trùng. Lăng Vị Phong dẫn đầu đi trước, Phó Thanh Chủ ở phía sau, Lý Tư Vĩnh và Lưu Úc Phương ở giữa, Lý Tư Vĩnh múa tít trái chùy lưu tinh, đẩy những tên võ sĩ đứng gần mình ra xa. Lưu Úc Phương thì ném ám khí giúp Lăng Vị Phong mở đường. Du Long kiếm tuy có thể chém sắt như bùn, người vì kẻ địch quá đông, chẳng thể nào chém xuể, vả lại gặp phải những loại binh khí nặng nề cũng chẳng làm gì được chúng. Tuy bốn người đánh đến nỗi trời xoay đất chuyển, nhưng vừa xông ra được ba bước thì phải lùi hai bước, chẳng thể nào thoát thân. Đang gây cấn Phó Thanh Chủ chợt hú dài mấy tiếng, tiếp theo tiếng hú dài ấy, một tràng tiếng tù và rúc lên, võ sĩ trong vương phủ ngạc nhiên nhìn xung quanh, đột nhiên có một tiếng nổ như trời long đất lở, bốn bức tường của hoa viên đổ xuống ào ào theo tiếng nổ, bọn võ sĩ đến gần đều nằm chúi xuống, Lăng Vị Phong thừa thế đại triển thần oai, mở ra một đường máu! Sau tiếng nổ khủng khiếp ấy, hai ha ba mươi đại hán từ bên ngoài xông vào, kẻ đi đầu là một thiếu nữ áo xanh và một thiếu niên áo vàng. hai người này vừa xông vào thì liên tục phóng tên, chỉ chọn những chỗ đông người mà bắn vào, dù bọn võ sĩ trong vương phủ được huấn luyện kỹ càng nhưng cũng lúng túng! Lưu Úc Phương nhận ra thiếu nữ dẫn đầu chính là Mạo Hoàn Liên. Còn chàng thiếu niên áo vàng thì nàng không biết là nhân vật thế nào. Còn Lý Tư Vĩnh thì không quen biết thiếu niên nam nữ dẫn đầu, nhưng những người còn lại đều là thuộc hạ của chàng. Khi chàng đến Côn Minh đã sắp đặt trước. Có điều chàng rất không hiểu tại sao thuộc hạ của mình lại nghe theo sự chỉ huy của đôi thiếu niên nam nữ lạ mặt này? Đám người ấy càng đánh càng dữ, nhất là thiếu niên áo vàng, chàng ta sử dụng một đôi trường kiếm, ánh ngân quang chói mắt, thi triển toàn những chiêu số sấm sét! Bảo Trụ tức tối nhảy bổ về phía Lý Tư Vĩnh, múa tròn cây gậy trong tay, vạch ra một màn gậy đến cả trượng vuông rồi bổ xuống đầu chàng. Lý Tư Vĩnh phóng vút trái chùy lưu tinh ra, quấn vào một đầu cây gậy, dùng lực kéo một cái nhưng chàng lại bị kéo tới hai bước. Lăng Vị Phong đứng hơi xa, không kịp quay lại cứu chỉ thấy thiếu niên áo vàng gầm lớn một tiếng lao bổ tới, hai kiếm chém xuống, sợi dây chùy cũng bị chém đứt. Trái chùy bay thẳng lên không trung! Lý Tư Vĩnh vả Bảo Trụ đều cả kinh thất sắc, đôi bên lùi đến mấy bước. Thiếu nữ áo xanh chỉ Lý Tư Vĩnh kêu lớn: “Là người của chúng ta”. Thiếu niên áo vàng không nói một lời, xoay người đuổi theo Bảo Trụ, lại chém xuống một kiếm. Bảo Trụ xoay bước lách người, cây gậy đánh ra một chiêu Trường Xà Nhập Động đâm thẳng vào, cây kiếm trên tay phải của chàng thiếu niên chém ra, kiếm tay trái đâm ngược lên, rồi chàng thét lên một tiếng, chặt thêm một đoạn trên cây gậy của Bảo Trụ, kiếm phải đổi chém thành đâm vừa nhanh vừa chuẩn, đã đâm thủng vai của Bảo Trụ. Bảo Trụ nhảy vọt ra sau, ôm vết thương tháo chạy. Phạm Tân vội vàng chạy đến ngăn cản, Ma vân kiếm pháp của y có sở trường nhanh nhẹn nhẹ nhàng, y lướt người tới đâm xuống đầu thiếu niên áo vàng, khi hạ người xuống thì gót chân đạp vào ngực của thiếu niên áo vàng. Thiếu niên áo vàng hai tay đánh ra một chiêu Cử Hỏa Thiêu Thiên, chàng hất kiếm lên, gạt kiếm của Phạm Tân từ trên không trung nhưng ngực của chàng cũng bị Phạm Tân đá trúng một cú. Lăng Vị Phong đang xoay người lại giải vây thì thấy chàng ta đã bị đá trúng, thế là vội vàng dùng thân pháp Long hình phi bộ lướt tới mấy trượng, nào ngờ chưa đến nơi thì chỉ thấy Phạm Tân đã bị đánh văng ra cách đó mấy trượng, đầu chảy máu ròng ròng, té ra thiếu niên ấy bị đá mà không hề biết đau! Lăng Vị Phong cũng thầm thất kinh, trông chàng ta chỉ mới hơn hai mươi tuổi mà võ công nội ngoại kiêm tu, chỉ trong vòng ba chiêu hai thức đã đánh bại Bảo Trụ và Phạm Tân, quả thực võ công của chàng ta chẳng kém gì mình! Phía vương phủ, hai tướng vừa đại bại thì bọn võ sĩ cũng tháo chạy, Mạo Hoàn Liên huýt một tiếng sáo, dắt mọi người chạy ra khỏi vườn hoa, bên ngoài vườn hoa đã có hơn hai mươi thớt tuấn mã. Mạo Hoàn Liên nói: “Hai người một ngựa, mau rút lui!” Lăng Vị Phong kéo thiếu niên áo vàng: “Tôi và huynh đệ đi cùng một ngựa”. Rồi kéo tay chàng lên ngựa, thiếu niên áo vàng vẫn chẳng nói một lời, vừa lên ngựa đã kẹp bụng ngựa một cái, thớt ngựa phóng vọt tới hí dài trên đường phố. Chỉ trong chớp mắt mọi người đã chạy ra đến ngoại ô, Lăng Vị Phong thầm nhủ: “Thiếu niên này thật kỳ quái!” chàng vỗ nhẹ vai thiếu niên nói: “Chậm một chút!” thiếu niên chỉ lầm lì nói: “Được!” rồi chàng phóng vọt người nhảy xuống lưng ngựa, nói: “Huynh đài sợ nhanh, tôi không đi ngựa với huynh đài nữa!” nói xong thì co giò chạy gấp còn nhanh hơn cả chạy ngựa. Chỉ trong chốc lát mọi người chạy đến một vạt rừng, chàng ta đang đứng dưới một gốc liễu, đột nhiên miệng ngâm nga một tiểu khúc. Lăng Vị Phong bước đến gần, chàng ta cũng chẳng thèm để ý! Lăng Vị Phong nghe chàng ngâm nga rằng: “Trong hồ có con cá nhảy, chỉ rong chơi trên mặt nước. Trên bờ có người, chỉ nên nghe chứ chẳng nên nhìn. Càng không nên cầm theo cần câu bắt cá ta. Người đã nghĩ nhầm lẫn rồi đấy, cá tuy nhỏ, năm hồ bốn biển đều rong chơi, cũng từng làm nên sóng gió!”. Lăng Vị Phong nghe chàng ta hát thì bất giác thở dài. Thầm nhủ: “Chả lẽ y cũng như mình, đang tuổi thanh xuân mà trải qua nỗi đau khổ của kiếp người?” Chàng tiến về phía trước mấy bước, nói với thiếu niên áo vàng: “Tôi tên Lăng Vị Phong, từ Hồi Cương đến đây. Xin hỏi huynh đài tôn tính đại danh, là người ở phương nào?”. Lăng Vị Phong tự báo họ tên, tưởng rằng chàng ta sẽ động dung, không ngờ chàng ta chỉ lạnh lùng nhìn mình như chưa từng nghe tên, khẽ gật đầu rồi đáp: “Tôi không biết họ của tôi là gì, cũng không biết tôi từ đâu tới, tôi đang muốn hỏi người ta!”. Lăng Vị Phong không khỏi ngạc nhiên, nhủ rằng: “Chả lẽ y có tâm sự gì đau lòng, không chịu nói rõ họ tên?” rồi Lăng Vị Phong bước lên nắm tay chàng ta nói: “Cùng là người trầm luân trong cõi thế, gặp nhau cần gì phải quen nhau? Huynh đài không chịu nói cũng chẳng sao. Chỉ là hôm nay được giúp đỡ, chúng ta đã là bằng hữu, hãy nói chuyện với nhau một lát!” thiếu niên áo vàng vung tay ra, nói: “Ngươi muốn nói gì với ta? Ta chỉ như đứa trẻ mới sinh ra đời, chẳng biết gì cả!” Chàng ta thấy Lăng Vị Phong không vui, mới nói tiếp: “Ta nói toàn là lời thật, ngươi không tin ta cũng chẳng còn cách nào!”. Lăng Vị Phong chưa bao giờ thấy một người quái lạ như thế, chàng không khỏi bực mình, khi thiếu niên vùng tay ra, chàng đã ngầm vận nội lực nắm chặt, thiếu niên kêu ối một tiếng, đột nhiên hạ cổ tay xuống rút phắt ra, nói: “Ngươi thật vô lý!” Lăng Vị Phong không giữ được tay của chàng, cũng kêu ối lên một tiếng, công lực của hai người đều là tám lạng nửa cân, Lăng Vị Phong thấy chàng thiếu niên lộ vẻ giận dữ, tưởng rằng chàng ta sẽ trở mặt, không ngờ chàng ta lại bước ra, dựa vào gốc cây, hai tay ôm đầu tựa như đang suy nghĩ một điều gì đó rất khó khăn, miệng cứ lẩm bẩm: “Sao ai gặp cũng hỏi họ tên của ta, ta phải tìm ai để hỏi đây? Ta là ai?” khi lẩm bẩm thì nước mắt tuôn rơi! Lăng Vị Phong thấy thế thì cũng chẳng biết làm gì. đưa mắt nhìn ra xa chỉ thấy bụi cuốn lên mù trời, bọn Phó Thanh Chủ, Mạo Hoàn Liên, Lý Tư Vĩnh đã đuổi tới. Mạo Hoàn Liên nhảy xuống ngựa, mỉm cười nói với Phó Thanh Chủ: “Phó bá bá, điệt nữ đoán y đang ở đây, bá bá thấy có phải không? Y vẫn còn nhớ nơi chúng tôi đã hẹn với y, sao không thể chữa trị được?” Phó Thanh Chủ lắc đầu, nói: “Ta thấy rất khó!” Mạo Hoàn Liên phụng phịu nói: “Khó không có nghĩa là không có hy vọng”. Mạo Hoàn Liên bước tới, dịu dàng nói với thiếu niên áo vàng: “Huynh hãy theo tôi, chúng tôi có rất nhiều bằng hữu, họ cũng là bằng hữu của huynh, nhà bằng hữu cũng là nhà của huynh! Huynh nghe lời tôi, vài ngày nữa tôi sẽ cho huynh biết huynh là ai”. Rồi nàng quay sang Lý Tư Vĩnh nói: “Đây là con cháu của Sấm vương”. Thiếu niên áo vàng lẩm bẩm: “Lý Sấm vương, Lý Sấm vương”. Mạo Hoàn Liên vội vàng hỏi: “Huynh đã từng nghe có ai tên gọi Lý Sấm chưa?” thiếu niên áo vàng nói: “Không nhớ nổi, không biết có nghe hay chưa, chỉ là cái tên này hình như rất quen thuộc”. Nói xong thì ôm đầu khổ sở suy nghĩ. Mạo Hoàn Liên nhoẻn miệng cười, nói: “Nghĩ không ra thì tạm thời đừng nghĩ nữa. Được, chúng ta đi”. Thiếu niên áo vàng rất nghe lời nàng, Lăng Vị Phong nhảy lên lưng ngựa nói: “Huynh đệ là bằng hữu của nàng cũng là bằng hữu của ta. Ta và huynh đệ sẽ đi chung một ngựa”. Phó Thanh Chủ quay sang Mạo Hoàn Liên mỉm cười, Mạo Hoàn Liên đỏ mặt, bảo Lưu Úc Phương thúc ngựa đi. Họ chạy đến nhà một người bằng hữu của Lý Tư Vĩnh. Trước đây người này là nha tướng của Lý Cẩm, sau thời Sấm vương, ông ta được lệnh của Lý Cẩm ẩn cư ở ngoại ô Côn Minh, hai mươi năm qua vẫn thường liên lạc với thuộc hạ cũ của Sấm vương. Mọi người đến nơi thì trời đã về chiều, chủ nhà đã chuẩn bị sẵn, lập tức bày cơm rượu ra khoản đãi quần hùng. Trong sân ngôi nhà này có hai cây đơn quế, khí hậu Côn Minh ôn hòa, lúc này là đầu mùa thu, hoa quế nở rộ, hương hoa thơm ngát khiến ai cũng ngây ngất. Thiếu niên áo vàng khi bước vào sân thì đột nhiên nhíu mày, trong lòng rất lo lắng, Mạo Hoàn Liên thấy thế nhưng cũng không lên tiếng. Cơm nước xong chủ nhà lấy kẹo hoa quế ra đãi khách, thiếu niên áo vàng chợt nổi giận, ném kẹo hoa quế xuống đất, chủ nhà rất lấy làm lạ, Phó Thanh Chủ khẽ nói bên tai chàng mấy câu, chàng ta lập tức xin lỗi rằng: “Thấy hoa quế hình như tôi nhớ được điều gì, nhưng không nghĩ ra nỗi, không biết thế nào lại cảm thấy bực dọc. Mong ông đừng trách”. Mọi tuy thấy thiếu niên áo vàng hành động quái lạ nhưng cũng không trách chàng. Lý Tư Vĩnh và Lăng Vị Phong đều lấy làm thắc mắc. Lý Tư Vĩnh muốn hỏi thuộc hạ của mình tại sao lại gặp thiếu niên áo vàng. Lăng Vị Phong cũng muốn hỏi Phó Thanh Chủ tại sao đột nhiên đến Côn Minh mà lại lẩn vào vương phủ giả thành đại phu, Phó Thanh Chủ hình như cũng biết tâm sự của họ, cơm nước xong thì nói với họ rằng: “Các huynh đệ chắc cũng đã mệt. Nhân lúc còn sớm hãy nghỉ ngơi, đợi sáng mai ta sẽ kể rõ mọi việc!” Phó Thanh Chủ cũng là một lão tiền bối, Lăng Vị Phong thấy ông ta nói thế, tuy rất thắc mắc nhưng cũng đành đi ngủ. Đêm ấy Lăng Vị Phong suy nghĩ mông lung, chẳng thể nào ngủ say nổi. Lúc thì chàng chợt nhớ đến tâm trạng kích động của Lưu Úc Phương trong thủy lao, lúc thì nhớ đến hành vi quái dị của chàng thiếu niên áo vàng. Chàng không thể ngủ được nên vén mền ngồi dậy, dạo một mình dưới ánh trăng. Bên ngoài phòng chàng chính là sảnh đường, chàng vừa ra thì gặp một chuyện lạ, Phó Thanh Chủ ngồi đoc sách một mình trong sảnh đường, vừa thấy chàng bước ra đã nói: “Lăng tráng sĩ, hãy đến đây, lát nữa dù có xảy ra chuyện tráng sĩ cũng đừng la, cũng đừng ra tay!” Lăng Vị Phong thấy ông ta nghiêm nghị trịnh trọng như thế thì chỉ đành lui vào trong phòng, để ý động tịnh ở bên ngoài. Khoảng nửa canh giờ sau, lúc này đã là nửa đêm, Lăng Vị Phong thấy bên ngoài chẳng hề có động tĩnh gì, Phó Thanh Chủ vẫn ngồi yên như pho tượng đá, mắt không rời sách, chàng rất lấy làm lạ, toan quay vào nằm xuống ngủ. Đột nhiên có một người từ trên lầu bước xuống, Lăng Vị Phong vội vàng nhìn ra thì chỉ thấy thiếu niên áo vàng ấy tay cầm hai kiếm, tựa như một cái xác khô, mắt đã đứng tròng, mặt đầy sát khí, từng bước đi về phía Phó Thanh Chủ. Lăng Vị Phong kinh hoảng, định ra ngăn cản nhưng nhớ Phó Thanh Chủ đã dặn nên ngừng tay lại. Phó Thanh Chủ hình như cũng chẳng hề hay biết, ông ta vẫn ngồi yên đọc sách. Đúng là: Nửa đêm gặp chuyện lạ, hào hiệp cũng lạnh mình. Muốn biết sau đó thế nào, mời xem hồi sau sẽ rõ.