ỗ Nhất Khí đã theo bác suốt bao năm qua, nhưng cậu không hề biết rắng bác mình luôn đeo món trang sức này trên người. Khi nó được kéo ra từ trước ngựa ông, cậu nhìn thấy một vầng khí linh động, tỏa sáng lung linh; những tia hào quang màu đỏ sẫm, xanh sẫm và trắng ngà lưu động không ngừng. Đó là một lưỡi rìu được chạm từ ngọc, không có cán; mặt ngọc lốm đốm những vết hoen cổ kính, thuần hậu trơn bóng. Nhìn vào những nét chạm khắc đơn sơ, có thể đoán rằng miếng ngọc chí ít cũng có hai nghìn năm lịch sử…* Đây là một câu thành ngữ, có nghĩa là múa rìu qua cửa Lỗ Ban, múa rìu qua mắt thợ. Nhưng “Lộng phủ” trong truyện là tên gọi của một lưỡi rìu.
Chương 6.1 VIỆN TRONG VIỆNNăm xưa ra khỏi nhà đã gian nan đến vậy, giờ đây quay trở về càng khó khăn gấp bội phần. Lỗ Thịnh Hiếu đưa tay gạt mồ hôi, thở dài một tiếng. Giờ đây, điều ông hối hận nhất chính là đã kéo Lỗ Nhất Khí vào con đường chết. Ông không hề tiếc nuối mạng sống của mình, chỉ thương cho đứa cháu duy nhất vừa mới chớm bước vào độ tuổi thanh xuân, đã sắp phải tan chảy trong biển nước đỏ máu đang sôi trào trước mắt. Giờ đây, ông còn có thể làm được gì? Ông đã hoàn toàn bất lực! Có lẽ ông chỉ còn biết cầu mong, cầu mong một kì tích tiếp tục xuất hiện. Ông nhìn chằm chằm vào phần đuôi cá của Mắt cá dương, tấm gương đồng tại chỗ đó cũng đang chảy xuống, song không hề xuất hiện một chỗ khuyết để thoát thân như năm trước, khảm diện không hề bị phá. Ông biết, nếu mọi thứ tiếp tục nóng chảy, lỗ hổng sớm muộn cũng sẽ xuất hiện. Song chắc chắn họ sẽ không thể đợi được tới lúc đó. Cho dù có đợi được, thì khi đó, hỗn hợp nước đỏ và đồng nóng chảy cũng sẽ bao trùm phần đuôi cá, không thể vượt qua.
- Nếu bây giờ chỗ đó bị phá vỡ thì tốt biết mấy! – Lỗ Thịnh Hiếu lầm bầm như tự nhủ với mình.
Lỗ Nhất Khí cởi phăng tấm áo bông đã bị thủng một mảng lớn, phần vì cậu cảm thấy nóng bức không chịu nổi, phần nữa là muốn lót xuống dưới lưng Quỷ Nhãn Tam, để tránh cho hắn khỏi bị nướng chín. Nghe bác nói vậy, cậu bèn nhìn theo hướng mắt của ông, chỗ đó là phần đuôi của cá dương. Cậu lại nhìn xuống dòng nước đỏ rừng rực và những vũng đồng nóng chảy dưới mặt đất. Mắt cá dương vẫn chưa bị chìm ngập hoàn toàn, họ vẫn còn đường để băng qua đó.
- Chỗ đó có thể thoát ra thật sao? – Lỗ Nhất Khí vừa vực Quỷ Nhãn Tam dậy vừa hỏi. Cậu biết, nếu không tranh thủ thời gian, thì con đường rồi cũng sẽ mau chóng bị nhấn chìm dưới làn nước đỏ.
- Năm xưa ta đã chạy thoát từ một lỗ hổng ở phương vị tương tự như vậy, nhưng giờ đây, ở đó không có lỗ hổng nào! – Lỗ Thịnh Hiếu nói với giọng nặng nề.
- Như vậy ở đó rất có thể có đường sống, chí ít đó cũng là chỗ xung yếu, có thể phá được cũng nên!
Lỗ Nhất Khí vẫn chưa quen dùng những thuật ngữ chuyên môn của giới Khảm tử. Kì thực, con đường sống mà cậu nói phải gọi là chỗ khuyết, còn chỗ xung yếu nên gọi là chỗ không.
Vừa nói, Lỗ Nhất Khí vừa xốc Quỷ Nhãn Tam lên lưng. Lỗ Thịnh Hiếu một tay chống cây đục sắt, một tay giương Vũ Kim Cương. Tình thế trước mắt không cho phép họ trì hoãn thêm một giây nào nữa. Họ mau chóng di chuyển về phía đuôi cá, bởi lẽ con đường thông tới đó sắp bị nước sôi tràn lấp, cũng bởi lẽ nền nhà đã bỏng rát đến không thể đặt chân.
Đi được nửa đường, Lỗ Nhất Khí đột nhiên khựng ngoảnh đầu nhìn bác, bình thản buông một câu hỏi:
- Vẫn về nhà chứ ạ?
Lỗ Thịnh Hiếu thoắt ngẩn người. Đã đến nước này rồi mà còn hỏi câu đó! Đứa cháu do chính tay ông nuôi lớn thành người trong ngày hôm nay đã khiến ông phải kinh ngạc hết lần này đến lần khác, ông không biết trả lời ra sao, đành hỏi lại:
- Còn lui được hay sao?
Lỗ Nhất Khí liền cõng Quỷ Nhãn Tam vòng trở lại quay về chỗ cũ. Lỗ Thịnh Hiếu ngạc nhiên bám theo sau không hiểu Lỗ Nhất Khí muốn làm gì. Con đường dẫn tới phần đuôi cá đang dần dần bị nhận chìm dưới dòng nước sôi sùng sục, họ đã mất đi cơ hội cuối cùng.
Lỗ Nhất Khí đặt Quỷ Nhãn Tam xuống đất, cầm lấy cây Vũ Kim Cương từ tay bác, che chắn trước mặt Quỷ Nhãn Tam, rồi ra hiệu cho bác nấp vào sau Vũ Kim Cương. Lỗ Thịnh Hiếu khó nhọc ngồi xuống, nỗi đau đớn trên thân thể và hơi nóng hầm hập khiến ông gần như không còn thở nổi.
Lỗ Nhất Khí đứng trước mấy tấm gương đồng ở mé đông nam. Cậu lôi súng ra, nạp đầy đạn vào ổ xoay, song cậu chưa vội bắn ngay, mà vẫn đứng nhìn chằm chằm vào gương, dường như là đang ngắm bóng mình trong đó. Lỗ Thịnh Hiếu bắt đầu sốt ruột, dòng nước đang lan dần đến gần, nền nhà bỏng giãy như một vỉ nướng khổng lổ, tấm vải choàng đen của Quỷ Nhãn Tam tiếp giáp với nền nhà đã bắt đầu bốc khói trắng, có thể bùng thành ngọn lửa bất cứ lúc nào.
Ở một chỗ khuất nào đó cũng có một kẻ đang sốt ruột, sốt ruột vì nước sôi và đồng nóng chảy chưa đủ nhanh. Kẻ đó cũng không rõ Lỗ Nhất Khí muốn làm gì, đã có bốn gã Bách tuế anh theo lời hắn ẩn nấp sau những tấm gương đồng kia, sẵn sàng lao ra tập kích bất cứ lúc nào.
Lỗ Nhất Khí nâng súng lên, rồi bất ngờ nghiêng người chạy vụt về phía đông bắc, vừa chạy vừa nổ súng. Viên đạn xuyên vào vách tường đồng ở góc đông bắc, nó chính là chỗ đã từng mở ra để thổi gió vào đám cúc ma, cho dù không phải là chỗ khuyết, cũng có thể là chỗ không. Chỗ không kì thực chính là nơi ẩn giấu nút của khảm diện, cũng bao gồm cả khoảng trống nhỏ bé để cho lẫy bật ra và khu vực đường biên trong phạm vi phát huy tác dụng của nút. Lỗ Nhất Khí vừa đứng trước tấm gương đồng hướng đông nam, tấm gương đấy chính là chỗ không; bức tường đồng cậu đang bắn vào cũng là chỗ không. Điều này cũng giống như võ thuật, chiêu thức càng nhiều, sơ hở càng lắm; trong khảm diện càng cài nhiều nút, càng nhiều chỗ không.
Do bức tường đồng dày hơn gương đồng, bởi vậy, cú bắn cũng giống như bắn vào Bách tuế anh treo ngược phi nãy, lỗ đạn tròn xoe, không có những vết rạn nham nhở. Lỗ Nhất Khí chạy sáu bước, bắn sáu phát súng, sáu lỗ thủng tròn xoe nối tiếp nhau, tạo thành một hình cánh cung còn thiếu đúng hai viên đạn nữa sẽ thành một vòng tròn hoàn chỉnh, như vậy, có thể tách được một miếng đồng nhỏ ra.
Nhưng súng đã hết đạn, cũng không kịp nạp thêm đạn mới. Lỗ Nhất Khí lao đến trước bức tường đồng, nâng báng súng lên nện thật mạnh. Cậu phải hành động thật nhanh, trước khi kẻ giấu mặt phát hiện ra ý đồ của cậu, và trước khi bọn Bách tuế anh kịp đuổi tới.
Kẻ giấu mặt không rõ Lỗ Nhất Khí muốn làm gì song hắn vẫn phát hiệu lệnh. Bốn gã Bách tuế anh đã mau chóng di chuyển trong khảm đạo tới phía sau bức tường đồng mé đông bắc.
Hình vòng cung trên gương đồng sau vài cú đập phá đã hơi cong vào trong một chút, Lỗ Nhất Khí móc quả lựu đạn ra, rút chốt, nhét vào trong khe hở.
Lựu đạn nổ tung. Vào đúng lúc Lỗ Nhất Khí kịp nhào vào phía sau Vũ Kim Cương, tiếng nổ đã vang lên chát chúa. Những tấm gương đồng bị xé nát, mảnh vỡ bắn tung tóe như mưa rào, sức ép từ quả lựu đạn suýt nữa hất bay cả Vũ Kim Cương. May mà Lỗ Thịnh Hiếu và Quỷ Nhãn Tam đã dồn sức giữ chặt lấy cán dù và các gọng dù, mới có thể giữ được tấm lá chắn để che chở họ trước vô số mảnh vỡ tán loạn.
Làn sóng sức ép vừa qua đi, Lỗ Nhất Khí lại nâng khẩu súng đã kịp nạp đầy đạn, lao tới phía trước lỗ hổng. Bên ngoài lỗ hổng là bốn gã Bách tuế anh nằm sóng sượt, đang giãy giụa, đang co giật, trên đầu mặt, trên cơ thể găm đầy những mảnh đồng vỡ, máu trào ra từ thất khiếu.
Lỗ Nhất Khí lập tức chạy về, cõng Quỷ Nhãn Tam lên, chạy tới trước lỗ hổng, Lỗ Thịnh Hiếu cũng bám sát theo sau. Họ vừa đặt chân tới bên lỗ hổng, dòng nước sôi sục đã tràn lên nơi họ vừa đứng, chiếc áo bông trải đất làm đệm cho Quỷ Nhãn Tam bốc cháy bừng bửng rồi biến mất trong làn nước đỏ ngầu.
Lỗ thủng không rộng, song rất thích hợp cho Bách tuế anh ra vào. Phía sau tấm đồng, ngay bên cạnh là một lớp đá dày, may mà chọn đúng chỗ, nếu không, cho dù có nổ tung vách tường, họ cũng không có lối thoát.
Lỗ Nhất Khí chui vào trước tiên, sau đó đón lấy Quỷ Nhãn Tam, cuối cùng là Lỗ Thịnh Hiếu. Lỗ Nhất Khí đưa mắt liếc nhìn Mắt cá dương một lần cuối cùng. Cậu thấy nước sôi và đồng nóng chảy đã phủ kín toàn bộ khảm diện, phần nền nhà ở giữa đã tan chảy và sụt xuống dưới. Nước đồng trên nóc nhà nhỏ xuống rào rào như mưa. Nơi đây thực sự đã trở thành một hầm lửa ác quỷ, một lò lửa ma quái.
Bên ngoài lỗ thủng là một bức tường cao, đen trùi trũi, không nhìn rõ nó cao chừng nào, ngẩng đầu nhìn lên, chỉ thấy một vài bông tuyết nhỏ bay xuống. Lỗ Nhất Khí định vị một lát, rồi cõng Quỷ Nhãn Tam rẽ sang phải men theo bức tường mà đi. Lỗ Thịnh Hiếu một tay vẫn chống cây dục sắt, tay kia cầm Vũ Kim Cương bước theo sau. Họ bước đi hết sức vội vã, liên tiếp vòng qua mấy khúc ngoặt. Cuối cùng, cả hai đều đi không nổi nữa, họ thở phì phò như trâu, chẳng ai bảo ai cùng dừng bước.
Lỗ Nhất Khí biết nơi này không thể ở lâu, cậu chỉ muốn lấy lại nhịp thở.
- Nhất Khí, đường này có đúng không? – Lỗ Thịnh Hiếu vừa hổn hển vừa hỏi.
Lỗ Nhất Khí không trả lời. Một lúc sau, khi hơi thở đã ổn định trở lại, cậu mới nói:
- Năm xưa, bác phá vỡ đuôi cá thoát ra là để trốn khỏi nhà. Hôm nay, chúng ta muốn trở về nhà, phải phá vỡ đầu cá mới ra được. Bức tường này là được xây uốn lượn theo sống lưng cá, sau khi thoát ra, rẽ sang bên phải là hướng đông bắc. Nếu bên ngoài cá âm dương có bố trí Bát quái đồ, thì hiện giờ có lẽ chúng ta đang đi tới phương vị Khôn. Quẻ Khôn trong Bát quái đều là hào âm, tượng của hào âm là đứt ở giữa, vừa hay cho thấy đây là đường sống.
- Liệu đối thủ có bố trí đảo ngược không? Để chúng ta tự rơi vào đường chết? – Lỗ Thịnh Hiếu cảm thấy không yên tâm đối với suy đoán có phần mạo hiểm của đứa cháu còn thiếu kinh nghiệm thực tế này. Vừa lúc nãy, khi lựa chọn đường đi trong Miệng cá âm, ông đã nghe theo cậu, kết quả là đã rơi vào một khảm diện không có đường sống.
- Có lẽ là không! Bác từng nói, năm xưa khi bác chạy trốn, khảm diện cuối cùng là Mắt cá dương, cuối cùng bao giờ cũng là nguy hiểm nhất. Hôm nay chúng ta xông vào, thì nó có lẽ cũng được bố trí ở cuối cùng. Nếu như bên ngoài nó đã không còn khảm diện nữa, thì cách bố trí của đối thủ có thể sẽ khôi phục lại phương vị thông thường, bởi vì đường đi phía sau nó là để cho họ đi. Trong tính toán của họ, chắc hẳn họ không ngờ sẽ có người đột nhập vào được tới đây!
Nghe cách Lỗ Nhất Khí nói, có thể thấy cậu rất tự tin đối với suy đoán của mình.
Đi chưa được bao xa, quả nhiên họ nhìn thấy một môn lâu* sơ sài, nối tới viện thứ hai.
* Tức phần gác có mái che xây trên cổng, có thể là gác thật, cũng có thể là gác giả để tạo độ cao.Lỗ Nhất Khí và Lỗ Thịnh Hiếu thở muốn đứt hơi, chệnh choạng bước tới trước cổng. Đó là một môn lâu rất đỗi bình thường, trông khá mong manh so với hai bức tường vây cao lớn hai bên. Đứng từ cổng nhìn vào, có thể thấy được rằng viện này rộng lớn một cách khác thường. Kết hợp với cánh cổng nhỏ bé, khác nào chiếc miệng anh đào mọc trên mình một con trâu to lớn.
Kết cấu mỏng manh như vậy thì rất khó bố trí khảm diện. Hơn nữa, theo như phân tích của Lỗ Nhất Khí, cánh cổng này để dành cho đối thủ đi lại, vậy thì càng không có khả năng có cạm bẫy. Bởi vậy, bọn họ đều rất ung dung khi đứng trước cổng.
Cánh cổng đang mở rộng. Qua làn tuyết mỏng phất phơ, có thể nhìn thấy thấp thoáng trong sân có một khối kiến trúc. Trong Lỗ Nhất Khí bỗng trỗi dậy một cảm giác rất đỗi thân quen, thế là cậu chẳng kịp nghĩ ngợi, đã bước thẳng về phía cổng.
Cậu đã nhìn rõ kiến trúc này. Đó là một trạch viện nhỏ, một tứ hợp viện giống như bao ngôi nhà bình thường khác ở Bắc Bình, một tứ hợp viện được bao quanh bởi một tứ hợp viện khác.
Đây chính là nhà của cậu! Bác cậu chưa kịp tiếng, cậu đã tự cho mình một đáp án.
- Thả tôi xuống! – Quỷ Nhãn Tam vừa nói vừa giãy lên đòi xuống – Tôi không thể vào được!
Lỗ Nhất Khí ngạc nhiên hỏi:
- Tại sao?
- Phép tắc, là phép tắc!
Quỷ Nhãn Tam đang nói đến phép tắc trong giang hồ, cũng là phép tắc của nhà họ Nghê. Giữa các môn phái trong giang hồ có quy ước ngầm rằng không được phép bước vào tổng đường hoặc từ đường của đối phương. Còn phép tắc của Nghê gia quy định, không được vào nhà tổ của người khác, bởi lẽ nhà tổ sẽ có linh hồn của tổ tông trong họ và gia thần bảo hộ, gây bất lợi cho những người làm nghề trộm mộ.
Tuy Lỗ Nhất Khí không phải là người trong giang hồ, song cậu cũng hiểu, trong giang hồ có một số phép tắc còn quan trọng hơn cả tính mạng. Thế là cậu thả Quỷ Nhãn Tam xuống, để hắn ngồi xuống dưới mé trong bậc tam cấp. Cậu lấy lại cây Vũ Kim Cương và viên đá Thi khuyển từ chỗ Lỗ Thịnh Hiếu, rồi đặt cây dù xuống bên cạnh Quỷ Nhãn Tam, đưa đá Thi khuyển cho hắn cầm lấy, sau đó nắm chặt lấy bàn tay hắn.
Trong lòng Lỗ Nhất Khí trào dâng một nỗi chua xót không nói thành lời, song giọng nói của cậu lại bình tĩnh một cách lạ thường:
- Anh nằm yên đây, đừng cử động nhiều, nếu không, hơi thở và nhịp tim vừa mới hồi phục có thể ngừng lại bất kì lúc nào. Tôi sẽ mau chóng quay lại đưa anh ra khỏi đây!
Quỷ Nhãn Tam chỉ cười, không nói câu nào. Nhưng Lỗ Nhất Khí vừa định đứng lên bước đi, thì Quỷ Nhãn Tam bỗng chụp lấy cánh tay cậu, nói:
- Cậu vẫn chưa nói tại sao thi ngẫu lại biết hát?
Lỗ Nhất Khí lắc lắc đầu nói:
- Anh đúng thật là… Có biết hộp bát âm không? Khi nào trở về tôi tặng anh một cái, anh nhìn thấy sẽ biết ngay thôi. Bởi vậy, anh nhất định phải sống, nếu không, tôi sẽ không biết phải tặng hộp bát âm cho ai nữa!
Quỷ Nhãn Tam khăng khăng:
- Cho tôi! Nếu tôi chết, bỏ vào trong mộ, như vậy đồng đạo trộm mộ đời sau của tôi không đến nỗi phải ra về tay không!
Lỗ Nhất Khí bèn cười:
- Để tôi kiếm một thi ngẫu chôn cùng với anh nhé!
- Mau đi đi, trời sắp sáng rồi! – Lỗ Thịnh Hiếu thúc giục, xem chừng ông đang rất sốt ruột và bất an. Nói xong, ông liền đi thẳng về phía tứ hợp viện, tuy bước chân xiêu vẹo, song rất kiên định.
Lỗ Nhất Khí cũng đứng dậy. Quay đầu nhìn lại, thấy Quỷ Nhãn Tam há to miệng ra mấp máy một hồi, không phát ra tiếng nói. Hắn chỉ chỉ ngón trỏ cháy đen, cứng đờ chênh chếch về một phía, Lỗ Nhất Khí không cần nhìn theo hướng ngón tay, cũng biết hắn đang chỉ Lỗ Thịnh Hiếu, song miệng hắn đang mấp máy điều gì, cậu không đoán ra được. Quỷ Nhãn Tam lại mấp máy một cách khoa trương hơn nữa, nhưng vẫn không phát ra tiếng nào. Lần này Lỗ Nhất Khí đã hiểu ra, bởi vậy, cậu cũng mấp máy đáp lại Quỷ Nhãn Tam.
Khóe miệng của Quỷ Nhãn Tam lộ ra một nét cười mơ hồ, sau đó hắn khó nhọc kéo tấm vải đen lên, trùm kín cả người lẫn đầu mặt.
Bước được vài bước, Lỗ Nhất Khí lại ngoảnh nhìn Quỷ Nhãn Tam. Quỷ Nhãn Tam nằm bất động dưới tấm vải đen, hệt như một xác chết chờ chôn. Hoa tuyết lác đác rơi lên tấm vải, đọng tại các nếp gấp, vẽ nên những vệt nông màu trắng. Chiếc áo bông của cậu đã bị thiêu cháy trong Mắt cá dương, trên người cậu chỉ còn lại tấm áo ngắn rách tả tơi, cậu bỗng rùng mình một cái.
Lỗ Nhất Khí đang đứng trong cổng tứ hợp viện, song cậu không hề có nỗi xúc động khi trở về nhà. Môn lâu của viện rất thấp nhỏ, cửa đóng im ỉm, hai bên dán một đôi câu đối “Định phương viên bất xả quy củ; Chấp đại công nan đắc tâm tính,”* phía trên có bức hoành phi: “Tượng tâm huệ hoà.”** Chỉ nhìn vào câu đối này cũng có thể biết đây là một gia tộc theo nghề mộc.
* Có nghĩa là: Định vuông tròn không rời khuôn thước; Làm việc lớn khó được tâm tính.** “Tượng tâm” vừa có nghĩa là cái tâm của người thợ mộc, vừa có nghĩa tâm tư khéo léo xảo diệu. “Huệ hoà” có nghĩa là thông minh, hài hoà.Trong khi đó, Lỗ Thịnh Hiếu quả thực trông rất giống như đã trở về nhà. Ông bước lên bậc thềm, lắc lắc khoen cửa vài cái, cánh cửa liền mở ra. Ông chỉ đẩy ra một khe đủ rộng để nghiêng người lách vào, Lỗ Nhất Khí cũng bước theo sau. Bước vào trong cổng, ông lại không vội vào trong ngay, mà đóng cửa lại, cài then, rồi lôi từ khe tường bên khung cửa ra một sợi dây làm từ lông đuôi ngựa, buộc vào một lỗ nhỏ ở đuôi then cửa.
Lỗ Nhất Khí biết, bác cậu đang kéo lẫy, bày khảm. Động tác của ông rất nhanh, bố trí xong khảm, lập tức quay người bước qua bức chiếu bích, rồi lật ngược viên gạch thứ tư tính từ dưới lên ở góc tường, bố trí tiếp khảm thứ hai. Kì thực Lỗ Thịnh Hiếu hiểu rõ, những cạm bẫy này không đủ sức ngăn cản cao thủ của đối phương, ông chỉ muốn có thêm chút thời gian.
Lỗ Nhất Khí ở ngay sau lưng ông, không nói câu nào. Quả thực cậu cũng không thể giúp được ông điều gì, chỉ biết lẳng lặng nhìn theo những động tác thành thục của ông. Tuy nhiên, cậu vẫn cảm giác có gì dó không ổn, cậu nhìn bác, hi vọng ông có thể phát hiện ra điều gì đó. Nhưng Lỗ Thịnh Hiếu vẫn bận rộn với công việc của mình, ông lê tấm thân đầy thương tích tới sau cửa thùy hoa, xoay chuyển ô chữ Tỉnh thành ô chữ Khẩu, bố trí khảm thứ ba.
Bố trí xong ba khảm, Lỗ Thịnh Hiếu đã mệt đến đứt hơi, lại thêm nỗi đau đớn từ các vết thương nghiêm trọng, khiến mồ hôi nóng mồ hôi lạnh theo nhau vã ra, chảy xuống đầm đìa. Lỗ Nhất Khí biết ông đang mệt mỏi, suy nhược cực độ. Từ canh một tới giờ, họ chưa động đến một giọt nước hạt cơm, lại luôn ở trong tình thế căng thẳng cao độ, giao đấu kịch liệt, ông cũng đã bị thương đến mấy lần.
Trong sân, Lỗ Thịnh Hiếu định bố trí thêm “hình ảnh song mê chướng.”* Ông khom lưng định di chuyển một chậu hoa hải đường, song không thể dịch chuyển nổi. Lỗ Nhất Khí đang định giúp, thì ông đã lắc đầu xua tay nói:
- Thôi khỏi cần, mau đi thì hơn. Thêm một khảm nữa cũng chẳng ngăn cản họ được bao lâu!
* Là một kĩ pháp có tác dụng che mắt, kết hợp các chậu cây với không gian xung quanh, khiến con người khi lạc vào trong đó bị sai lệch thị giác, có cảm giác người đi bóng không đi, người không đi bóng lại đi, do đó không thể phán đoán được phương hướng, cự li di chuyển và thực hư dưới chân.Hai người không còn chạm vào bất kì thứ gì nữa mà bước thẳng tới cửa phòng chính. Lỗ Thịnh Hiếu lấy chiếc móc câu hoạt thiệt ra, thận trọng khều bung nút móng đạp bươm bướm trên khoen cửa, rồi bước vào trong gian phòng chính không rộng lắm. Trong phòng tối tăm, song Lỗ Thịnh Hiếu dường như vẫn nhìn rất rõ. Ông không hề va vấp phải thứ gì, đã châm sáng được mấy ngọn nến. Gian phòng chính bừng sáng, một bức hoành phi rất lớn ở đại đường đập vào mắt Lỗ Nhất Khí.
Trên bức hoành phi có hai chữ triện thiếp vàng, do thời gian đã lâu nên có phần phai nhạt, song nét chữ vẫn rắn rỏi có lực, hình thần đầy đủ. Lỗ Nhất Khí nhận ra đó là hai chữ “Ban môn.” Hai chữ này khiến cậu cảm thấy vừa thân quen lại vừa như xa lạ. Còn Lỗ Thịnh Hiếu, mỗi đồ vật trong phòng đều khiến ông cảm khái muôn phần. Ông thốt lên:
- Hơn hai mươi năm rồi! Mọi thứ ở đây vẫn không hề thay đổi!
Lời nói của ông khiến Lỗ Nhất Khí cảm thấy băn khoăn bất giác khẽ chau mày. Cậu nhìn hai chữ “Ban môn” trên tấm hoành phi, rồi lại nhìn bác, ngập ngừng muốn nói nhưng lại thôi…
- Đừng hỏi gì hết, hãy bái lạy môn tông tổ tiên trước đã!
Lỗ Thịnh Hiếu đã nhìn thấu nỗi nghi hoặc trong lòng cậu, ông đã chặn cậu lại với vẻ mặt vô cùng nghiêm nghị. Giờ đây, không cần thiết phải giải thích điều gì, nếu như Lỗ Nhất Khí thực sự có linh cảm siêu phàm, chỉ một lát nữa thôi cậu sẽ biết tất cả. Còn nếu như cậu không có khả năng thiên phú đó, có lẽ biết càng ít lại càng tốt.
Lỗ Nhất Khí bước tới trước bàn thờ. Trên tấm bài vị lớn nhất ở chính giữa chỉ có bảy chữ: “Tổ sư tượng thần Ban Công vị.”* Lỗ Nhất Khí rút lấy ba que hương trong ống đựng hương bên cạnh, tiện tay sờ lên mặt bàn thờ, rồi châm lửa đốt hương, cung kính cắm hương vào trong lư. Trước bàn thờ có một tấm đệm bái, Lỗ Nhất Khí qùy sụp xuống tấm đệm, dập đầu liền ba cái thật mạnh.
* Có nghĩa là: bài vị của tổ sư, thần thợ mộc họ Ban.Lỗ Thịnh Hiếu ra hiệu cho Lỗ Nhất Khí đứng dậy, rồi đi về phía cậu, dùng cây đục sắt gạt tấm đệm bái sang một bên. Bên dưới tấm đệm là nền nhà lát đá xanh. Lỗ Thịnh Hiếu lại vô cùng thận trọng kéo từ trong cổ ra một thứ.
Lỗ Nhất Khí đã theo bác suốt bao năm qua, nhưng cậu không hề biết rằng bác mình luôn đeo món trang sức này trên người. Khi nó được kéo ra từ trước ngực ông, cậu nhìn thấy một vầng khí linh động, tỏa sáng lung linh; những tia hào quang màu đỏ sẫm, xanh sẫm và trắng ngà lưu động không ngừng. Đó là một lưỡi rìu được chạm từ ngọc, không có cán; mặt ngọc lốm đốm những vết hoen cổ kính, thuần hậu trơn bóng. Nhìn vào những nét chạm khắc đơn sơ, có thể đoán rằng miếng ngọc chí ít cũng có hai nghìn năm lịch sử.
Muốn đánh giá độ quý của ngọc, trước hết cần phải xem niên đại và chất của ngọc, tiếp theo là xem độ bóng. Thông thường, đồ ngọc càng cổ, càng không thể có đường nét chạm khắc quá tinh xảo. Bởi vậy, những bảo vật quý hiếm thực sự từ thời viễn cổ đa phần đều là những loại ngọc khuyết, vòng ngọc có vẻ ngoài giản dị, cũng có một số ít đồ ngọc có hình dạng và công dụng khác. Như lưỡi rìu bằng ngọc đang cầm trong tay Lỗ Thịnh Hiếu, có thể nói là một món đồ cực phẩm vô cùng quý hiếm.
Lỗ Thịnh Hiếu cúi người xuống, tìm ra một khe hở không lớn lắm trên nền đá xanh phía dưới tấm đệm, nhẹ nhàng cắm lưỡi rìu vào đó. Lưỡi rìu trượt vào khe hở, khớp vào khe một cách khít khao. Hai tay Lỗ Thịnh Hiếu nắm chắc hai nhánh của sợi dây đeo trên lưỡi rìu, kéo thật căng hướng ra ngoài, sau đó xoay tròn một góc một trăm tám mươi độ.
Thực hiện xong những thao tác này, Lỗ Thịnh Hiếu đứng thẳng lên, lùi về sau hai bước. Thấy bác lùi lại, Lỗ Nhất Khí cũng lùi theo. Trong khoảnh khắc đó, cậu chợt cảm thấy hồi hộp vô cùng, không còn bình tĩnh như lúc đứng ngoài cánh cổng. Trong lòng cậu trào dâng một cảm giác hoang mang khó tả, một nỗi hoang mang tựa như cảm giác ngập ngừng sợ sệt của kẻ đi xa khi sắp bước vào nhà. Cậu nghe thấy cả tiếng tim mình đập thình thịch, một tiếng, hai tiếng… Tới tiếng thứ năm, nền nhà lát đá bỗng vang lên những tiếng rền, rồi từ từ xoay chuyển, mở ra một miệng hầm hình tròn.
Ánh nến trong phòng không chiếu được xuống hầm, nhưng Lỗ Nhất Khí không hề cảm thấy bên trong có vẻ gì tăm tối. Ngay từ lúc miệng hầm mở ra, cậu đã nhìn thấy một làn khí tía phun trào mạnh mẽ, tỏa hào quang rực rỡ, khí lành tràn trề. Đó là bảo khí, đó chính là bảo khí! Lỗ Nhất Khí không cần phải tĩnh tâm ngưng thần để tập trung cảm nhận, bảo khí đã tựa như một làn ráng mây đỏ tía bao bọc quanh cậu. Làn khí tía đang tung bay vần vũ, đang lên xuống nhấp nhô, xòe ra trên miệng hầm như một đóa hoa sen. Những vòng hào quang màu đỏ tía liên tục xoay tròn, lồng vào nhau tầng tầng lớp lớp, như từng đợt sóng lan tỏa khắp bốn hướng.
Lỗ Thịnh Hiếu không có được cảm giác đó. Ông không thể cảm nhận được về thế giới mà Lỗ Nhất Khí đang sở hữu, tuy nhiên, ông đã nhìn thấy rõ sự khác lạ trên nét mặt của cậu. Ông không nói lời nào, chỉ đứng nhìn đứa cháu dường như đã bị hớp hồn, đang đi thẳng về phía miệng hầm.
Chương 6.2 ĐÁ TAM THÁNHPhong thủy học có phân chia thành dương trạch và âm trạch*. Những người mong muốn nhà hưng tộc vượng đều rất chú trọng đến phong thủy âm trạch, tìm đủ mọi phương cách để tìm ra huyệt tốt tàng phong tụ khí, hiện long ngọa hổ để đặt mộ phần cho tổ tiên. Nhưng kì thực, phong thủy dương trạch lại có ảnh hưởng lớn hơn đối với vận trình phúc họa. Mặt khác bản thân dương trạch, từ môi trường địa điểm, bố cục cấu tạo đều có liên quan mật thiết với tâm sinh lí của người sống trong đó. Bởi vậy thời xưa, những nhà phú quý biết tính toán lâu dài đều lựa chọn những nơi giao thông thuận tiện, gần dòng nước chảy, dựa nơi tươi tốt để xây dựng dương trạch. Hơn nữa, trong quá trình xây dựng, còn phải bố trí bảo vật trấn trạch tại huyệt nhãn phong thủy.
* Dương trạch tức nhà cửa của người sống, âm trạch tức mộ phần của người chết.Nhưng tục ngữ có câu “phong thủy luân lưu chuyển,” phong thủy không phải bất biến mà vẫn có thể biến đổi. Ví dụ như câu “dựa nơi tươi tốt,” nhà ở dựa vào núi non, rừng cây, nhưng bản thân cây cối cũng có sự biến đổi tốt tươi khô héo theo bốn mùa. Bảo vật trấn trạch dù có tốt đến mức nào, thì sức mạnh bảo hộ từ khí may mắn của nó rồi cũng sẽ suy yếu. Bảo vật thông thường đều là một trăm năm khí lành phấn phát, giúp nhà cửa và người nhà thịnh vượng; một trăm năm khí lành bình hoà, đem lại gia cảnh bình thường, không giàu cũng không đói khổ; lại một trăm năm khí lành suy kiệt lúc này, bảo vật cần phải hấp thụ tinh hoa của nhật nguyệt thiên địa, nó đã không còn tác dụng phù hộ nữa. Dân gian có câu “ai giàu ba họ,” chính bởi nguyên do này.
Lỗ Nhất Khí bước xuống hầm theo những bậc thang lát bằng gạch xanh. Càng đi sâu xuống dưới, làn khí tía sinh động tràn trề khi nãy lại càng mờ nhạt. Dưới đáy hầm có gì, cậu không hề biết, cậu chỉ cảm nhận một cách rõ nét, làn khí tía sôi nổi kia đang tỏa ra từ một tảng đá lớn đen tuyền.
Tảng đá phải lớn bằng một chiếc giường, mặt phía trên rất bằng phẳng. Lỗ Nhất Khí bất giác cảm thấy tảng đá sao mà thân quen ấm áp, đó chính là xuất phát điểm của cậu, cũng là nơi trở về của cậu, giống hệt như ngôi nhà cũ trong mơ. Cậu mơ hồ cảm thấy kiếp trước cậu là một tảng đá, cậu chính là một góc rơi ra từ tảng đá.
Lỗ Nhất Khí đi thẳng đến đó, không một chút trù trừ; không một chút do dự. Trong tâm khảm cậu trào dâng một cảm giác yêu thương và hưng phấn khó diễn tả thành lời, cậu vươn đôi tay ra, khao khát được vuốt ve, chờ mong được ôm ấp.
Những ngón tay của cậu khẽ chạm lên tảng đá, rất nâng niu, rất dịu dàng, tựa như đang vuốt ve cơ thể của người yêu. Cậu cảm nhận rõ sự láng mượt, mịn màng dưới những đầu ngón tay, thế nhưng bề mặt tảng đá lại không hề nhẵn nhụi, mà đầy những đường vân lồi lõm. Những đường vân rất thân quen như đã từng gặp gỡ, trông giống chữ viết, cũng giống hình vẽ, dường như chúng đang muốn nói với cậu một điều gì.
Những ngón tay cậu vẫn tiếp tục vuốt ve, mơn trớn, cậu từ từ áp sát khuôn mặt mình lên tảng đá, trong chớp mắt, cậu cảm thấy những chữ viết và họa tiết trong trí não mình đang nhảy múa và xoay tròn, những thứ cậu chưa hiểu, chưa biết, chưa thấu tỏ đang cất giữ trong kí ức bỗng nhiên tụ lại một chỗ. Và một bức tranh như trải ra trước mắt, với núi non trập trùng, rừng rậm đồng xanh, một dòng sông cuộn chảy, bên bờ liễu rủ thướt tha. Ẩn hiện như có ba người tóc búi, trang phục cổ xưa ngồi xếp bằng trên phiến đá vuông rộng lớn, khoa tay múa chân, chỉ vào núi sông trời đất, đang bàn luận chuyện gì.
Cậu bất giác giật mình, nhấc khuôn mặt khỏi tảng đá. Trước mắt cậu vẫn là làn khí tía mờ mờ tỏa ra từ khối đá đen tuyền, ảo ảnh vừa qua biến mất không tăm tích. Nhưng đối với cậu, ảo ảnh đó sao mà chân thực, giống như xem một bức tranh, như đọc một cuốn sách, như ngắm qua khung cửa sổ. Cậu lại vô thức áp mặt vào tảng đá. Ảo ảnh lại tiếp tục hiện về. Nhưng lần nay, cậu không vội vã rời đi, trong tâm khảm cậu tràn đầy sự hiếu kì và ngưỡng mộ đối với cảnh tượng trong ảo ảnh, trong cậu dấy lên một khao khát mãnh liệt muốn dung hòa vao tảng đá, và tảng đá dường như cũng tỏa ra một sức hút, lôi cuốn cậu, dung nạp cậu.
Lỗ Nhất Khí lại rời khỏi tảng đá, lùi về sau một bước dài. Lúc này, đôi mắt cậu bỗng trở nên mông lung, như không thấy; vẻ mặt cậu ngẩn ngơ, không vui không buồn, không mừng không giận. Cậu từ từ trút bỏ toàn bộ quần áo trên người, nguyên sơ như một đứa trẻ sơ sinh, bước về phía tảng đá. Cậu nằm sấp lên đá, cơ kể cuộn tròn lại trong bộ dạng của một bào thai.
Trong khoảnh khắc này, tư duy của cậu hoàn toàn biến mất, trong trí não cậu chỉ còn vô số những văn tự và hình vẽ đang nhảy múa và xoay tròn, có thứ là ở trên mặt tảng đá, có thứ lại ở trên những phiến đá, những đồ ngọc cổ còn lưu trong kí ức cua cậu. Cậu không còn cảm thấy cái lạnh tê tái của buổi đầu đông, mà thay vào đó là hơi ấm tựa như tỏa ra từ cơ thể mẹ. Giờ đây, cậu chính là một bào thai quay trở về trong cơ thể mẹ, để cảm nhận về một thế giới khác mà cơ thể mẹ mang lại…
Hai nghìn bốn trăm năm về trước, tại nước Lỗ có một người thợ mộc tên là Công Thâu Ban. Ông là một thợ mộc tài giỏi có tấm lòng nhân hậu, thông minh tuyệt đỉnh. Ông đi khắp thiên hạ, xây nhà bắc cầu, làm đường dựng miếu. Ông thường tìm gặp những thợ khéo cao nhân, cầu học kĩ nghệ hơn người. Nhưng dù đi đến nơi đâu, sau ông lúc nào cũng có một vị đạo nhân, không quản ngày đêm tay đều không rời bút, nhưng chỉ có bút mà không có thẻ tre, cả ngày viết vạch lên không trung, không rõ là viết cái gì.
Công Thâu Ban và đạo nhân không hề quen biết, ông cũng không rõ đạo nhân đi theo mình từ lúc nào. Đạo nhân hình như không biết nói, chưa bao giờ hé với Công Thâu Ban một lời. Công Thâu Ban bản tính nhân hậu, vốn rất kính trọng những người tu hành xuất thế, mỗi lần nghỉ tay ăn cơm đều mời đạo nhân ngồi cùng bàn dùng bữa, lại nhường ông ta ăn trước. Ngay cả gia chủ mời dùng cơm, hay bày tiệc khởi công, khánh thành, ông cũng đều nhường đạo nhân ngồi ghế trên. Đạo nhân đi theo Công Thâu Ban đã tròn ba năm, đệ tử của ông đều gọi ông ta là Bút Đạo Nhân.
Vào năm 448 trước Công nguyên, Sở Vương phát binh tấn công nước Tống, mời Công Thâu Ban tới nước Sở chế tạo máy móc công thành. Tuy không muốn, song Công Thâu Ban không thể cự tuyệt Sở Vương. Khi đó, thủy tổ của Mặc gia là Mặc Địch bất chấp nguy hiểm tính mạng, đã tới nước Sở khuyên Sở Vương ngừng chiến, nhưng Sở Vương không nghe theo. Mặc Địch bèn nói, Sở Vương sẽ không thể công phá được nước Tống, vì ông đã phái Cầm Hoạt Li* dẫn ba trăm đệ tử của Mặc môn mang theo công cụ, máy móc giữ thành do ông thiết kế và chế tạo, đến trợ giúp nước Tống giữ thành. Sở Vương không tin công cụ giữ thành của Mặc Địch có thể địch lại công cụ đánh thành của Công Thâu Ban, nên đã cho hai người thi thố tài nghệ. Công Thâu Ban đã sử dụng nhiều loại công cụ, máy móc và phương pháp để tiến hành công thành chín lần (cửu công), nhưng đều bị Mặc Địch lần lượt hóa giải, đánh lui chín lần (cửu cự). Sở Vương thấy máy móc của Công Thâu Ban quả nhiên không thể công phá được sự phòng ngự của Mặc Địch, bèn từ bỏ kế hoạch tấn công nước Tống.
* Cầm Hoạt là một họ cổ xưa của người Hoa Hạ. Cầm Hoạt Li là người nước Ngụy thời Xuân Thu, tương truyền ông là đệ tử thân tín nhất của Mặc Tử, tự là Thận Tử. Con cháu ông lấy tên tự của ông làm họ, hình thành nên họ Thận.Khi Mặc Địch rời khỏi cung điện của Sở Vương, Công Thâu Ban đã đợi sẵn bên ngoài. Ông mời Mặc Địch tới một nơi vắng vẻ, bày ra chín biến pháp công thành. Mặc Địch xem xong vô cùng kinh ngạc. Chín biến pháp này ông đều không có cách nào phá giải. Công Thâu Ban lúc này mới nói rằng:
- Chín biến pháp này không phải do tôi nghĩ ra, tôi sẽ dẫn ông tới gặp người đặt ra cửu biến!
Mặc Địch nghe vậy, hăm hở đi theo Công Thâu Ban.
Họ cùng đi tới bên bờ sông. Thấp thoáng xa xa núi non trập trùng, trước mắt đồng xanh bát ngát, rừng rậm um tùm. Trên một tảng đá lớn đen tuyền dưới hàng liễu rủ, có một người ngồi xếp bằng, người đó chính là Bút Đạo Nhân.
Bút Đạo Nhân mỉm cười, ra hiệu cho Công Thâu Ban và Mặc Địch cùng ngồi lên tảng đá, sau đó lấy ra một cuộn vải lụa, trải ra trên mặt đá để hai người cùng xem…
Thời gian vụt trôi, bất giác đã qua ba ngày ba đêm. Đạo nhân cuộn bức vải lụa lại, lấy bút viết xuống mặt đá hai chữ “luận đắc.” Mặc Địch bèn nói trước, ông thuật lại một lượt những điều đã học được từ cuộn sách lụa trong ba ngày qua, còn chỗ nào nghi ngờ thắc mắc, Bút Đạo Nhân bèn viết lên mặt đá để chỉ điểm thêm. Sau đó, tới lượt Công Thâu Ban thuật lại những điều đã học, để Bút Đạo Nhân tiếp tục giảng giải. Và như vậy, một ngày một đêm lại tiếp tục trôi qua.
Vào sáng sớm ngày thứ năm, gió mát sương trong, khói mờ vấn vít. Bút Đạo Nhân lấy ra một tấm thẻ ngọc, tám chiếc hộp ngọc, sau đó miệng tiên hé mở, sang sảng cất lời:
- Thuở xưa vua Vũ chia chín châu, định cương giới, cương giới này không phải là cương giới Thần Châu Nhất nguyên đại thống. Đó là bởi vì trong hình Nhất nguyên có tám huyệt nhãn cực hung ở tám nơi trên thế gian, phá vỡ cách cục Nhất nguyên đại thống. Trước đây trong sự kiện diệt Trụ phong thần, các tiên gia đã phạm vào ách sát phạt huyết quang, hủy hoại thiện quả chân tu hàng trăm hàng nghìn năm. Bởi vậy, sự nghiệp Bát bảo định phàm cương cần phải dựa vào sự nỗ lực của thánh hiền trong cõi phàm. Ta quan sát trong thiên hạ, có đủ tấm lòng bác ái và kĩ thuật xảo diệu, chỉ có hai vị đây. Đại sự tạo phúc thế gian lần này, hai vị nhất định không được từ chối!
Đạo nhân lại chỉ vào tám hộp ngọc, nói:
- Đây là tám bảo vật của trời, mang theo tám đạo tiên chỉ Ngũ hành Tam tài, tức là Kim, Mộc, Thủy, Hoả, Thổ, Thiên, Địa, Nhân. Ở gần tám huyệt nhãn cực hung trên thế gian đều có một vùng đất cực kì tốt đẹp khống chế. Hai vị cần phải xây dựng những công trình kiên cố tại những vùng đất may mắn kia để cất giữ Bát bảo. Nếu hợp với ý trời lòng người, bảo vật trải qua một chu kì số Bát cực, sẽ tích lũy đủ tinh hoa của nhật nguyệt thiên địa, tràn đầy muôn nghìn khí tượng của nhân gian. Lúc đó hãy đem Bát bảo ném vào các huyệt nhãn cực hung, cương giới của nhân gian sẽ vững bền mãi mãi.
- Thế nào là chu kì Bát cực? – Mặc Địch hỏi.
- Trăm năm hưng, trăm năm bình, trăm năm ẩn, ba trăm năm một vòng, Bát cực là tám vòng chu kì.
- Vậy chúng tôi làm sao có thể thực hiện được sự việc của mấy nghìn năm sau? – Công Thâu Ban cũng hỏi.
- Vậy thì phải trông vào con cháu đời sau của hai vị có thể đời đời kế thừa nghề khéo, thế thế sinh bậc hiền nhân. Nhưng sự đời đến thần tiên cũng khó lường, ý trời vẫn phải nhờ sức người lo liệu. Một số sự việc vẫn phải xem người đời tạo tác.
Đạo nhân đẩy ba hộp ngọc tới trước mặt Mặc Địch, đẩy năm hộp còn lại tới trước mặt Công Thâu Ban, nói tiếp:
- Trong bốn ngày bốn đêm vừa qua, hai vị đều đã học được những phần cơ xảo* khác nhau. Công Thâu Ban xảo nhiều hơn cơ, ông hãy định năm bảo Thiên, Địa, Nhân, Kim, Mộc, tại hướng đông bắc, đông, đông nam, nam, tây nam. Ông hãy ghi nhớ cảnh tượng, địa hình của năm huyệt nhãn trên tấm thẻ ngọc này. Còn Mặc Địch cơ nhiều hơn xảo, ông hãy định ba bảo Hoả, Thủy, Thổ, tại hướng tây, tây bắc, bắc. Ba nơi này khó khăn hơn nữa, phải vượt hiểm phá nguy, diệt yêu trừ quái. Mặc gia nhiều dũng sĩ hiệp nghĩa, ông định ba bảo này cũng là hợp với ý trời. Ông hãy ghi nhớ cảnh tượng, địa hĩnh của ba huyệt đó.
* Cơ tức là thiên cơ, xảo tức là khéo léo.Đợi Công Thâu Ban và Mặc Địch ghi nhớ xong những nội dung cần thiết trên thẻ ngọc, đạo nhân cẩn thận gói tấm thẻ ngay ngắn vào trong cuộn lụa, sau đó điểm vạch lên tảng đá một hồi. Từ trên tảng đá bỗng mở ra một ngăn rỗng. Đạo nhân cất cuộn lụa và thẻ ngọc vào trong ngăn đá, sau đó đóng kín lại. Tảng đá liền lại như cũ, không hề thấy một khe hở.
Thực hiện xong việc đó, Bút Đạo Nhân nhìn hai người, cười mỉm rồi nói tiếp:
- Hôm nay, ba người chúng ta cùng ngồi trên tảng đá này để bàn về đại cục hàng đầu của Tam giới trong vòng mấy nghìn năm, tảng đá này vì thế mà cũng được lây phúc trạch. Người đời sau sẽ gọi nó là đá Tam Thánh. Đợi đến khi số Bát cực đủ vòng, tự khắc đá vỡ trời kinh. Bần đạo còn có vài câu kệ muốn tặng hai vị, hoặc giả có thể giúp cho con cháu suốt mấy nghìn năm không thay đổi di nguyện của tổ tiên!
Đạo nhân trải tấm lụa trắng, viết lên mấy chữ: “Bảy phần thiên cơ ba phần khéo, giữ thì một phương, trao thì thiên hạ,” rồi giao cho Mặc Địch, nói:
- Con cháu Mặc môn của ông sau này khó mà bỏ được hiệp nghĩa sát phạt, công danh phú quý, song cũng có người từ bỏ để thành ẩn sĩ, hiền nhân!
Tiếp đến lại viết: “Ba phần thiên cơ ít người hiểu, gieo báu nhiều, lo lắng ít; Bảy phần nghề khéo truyền nhân gian, giúp thế nhân, nuôi già trẻ,” rồi giao cho Công Thâu Ban, nói:
- Con cháu Ban môn tuy không có địa vị cao quý, song đời đời kiếp kiếp cơm no áo ấm, tài nghệ nức tiếng thiên hạ.
Cuối cùng, Bút Đạo Nhân tiện tay vẽ một vòng tròn trên tảng đá, một vòng tròn vành vạnh. Không cần đến khuôn thước mà vẫn định được tròn vuông, không phải là người có cái tâm sáng trong muôn dặm, không nhiễm chút bụi trần, thì không thể làm được.
- Mong rằng thực sự có thể tám phương tám định, mong rằng cương giới cõi phàm có thể tròn vẹn như hình!
Đạo nhân nói xong, ung dung lướt đi, chốc lát đã chìm khuất trong khói sương vấn vít. Trên tảng đá lúc này chỉ còn lại hai người Mặc Địch và Công Thâu Ban, cũng dần dần bị sương mờ phủ kín…
Lỗ Nhất Khí choàng tỉnh. Cậu không biết thời gian đã trôi qua bao lâu, cậu vừa trải qua một giấc mơ kì lạ.
Lúc này, ý thức của cậu vẫn mơ màng trong mộng, chưa kịp hồi tỉnh. Cậu chợt phát hiện có một đường vân hình tròn trên mặt đá phía trước, tròn vành vạnh, giống hệt như vòng tròn mà đạo nhân đã vẽ trong mơ. Trong vòng tròn đó, đường vân ngang dọc, lên xuống nhấp nhô, tựa như một tấm địa đồ. Tiếp đó, cậu lại phát giác, dưới tay cậu hình như chính là vị trí mà đạo nhân đã mở ra ngăn đá. Các ngón tay cậu bắt đầu điểm, vạch một cách vô thức. Kì thực trong giấc mơ khi nãy, cậu không chú ý tới động tác điểm vạch của đạo nhân. Song dường như cậu bẩm sinh đã biết, các ngón tay của cậu cứ thế tự nhiên di chuyển. Và ngăn đá từ từ mở ra không một tiếng động. Bỗng chốc, cậu cảm thấy làn khí tía đang lưu chuyển càng trào lên cuồn cuộn, mạnh mẽ và linh hoạt khác thường. Cậu đứng dậy, vươn cổ vào bên trong ngăn đá. Cậu thấy, trong đó có một gói lụa. Đúng vậy, đó chính là cái gói mà vị đạo nhân trong mơ đã cất vào.
Lỗ Nhất Khí khẽ khàng đưa tay xuống, thận trọng nhấc gói lụa ra. Trong khoảnh khắc đó, một sứ mệnh thiên cổ bỗng chốc đè lên vai cậu, nặng trĩu.
Cuộn lụa không phải tơ, củng không phải da, không rõ làm bằng chất liệu gì. Cậu đặt nó lên trên tảng đá, rồi từ từ trải ra. Tuy trong hầm tối đen, song cậu vẫn có thể nhờ vào ánh linh quang đỏ tía bao trùm, nhìn thấy rõ ràng trên cuộn vải lụa đã hơi ố vàng chi chít những chữ Triện rất nhỏ. Cuộn lụa đã trải ra hết, cậu nhìn thấy trên cùng bên góc phải có ba chữ triện lớn hơn, Lỗ Nhất Khí đọc được ba chữ này, đó là “Cơ xảo tập.” Phía dưới có đúng một hàng chữ riêng rẽ, viết rằng: “Biết được Tam giới biến hóa đều có quy luật, gọi là cơ; chế ra máy móc thần kì đổi thay quy luật, gọi là xảo. Có đủ cơ xảo, tâm, khí, lực, trí đều đạt tới chí thánh; như vậy có thể ban phúc cứu thế, muôn đời thành tựu.” Trong cuộn lụa vàng nhạt, còn có một tấm thẻ ngọc mỡ cừu*. Trên tấm thẻ ngọc cũng khắc dày đặc những chữ nhỏ li ti, tự thể càng cổ kính, nhìn qua không rõ là chữ Kim văn hay chữ Giáp cốt.
* Ngọc mỡ cừu là một loại ngọc mềm cực phẩm, có màu trắng thuần khiết như mỡ cừu.Lỗ Nhất Khí bỗng cảm thấy toàn thân lạnh buốt, lúc cậu mới ý thức được rằng mình đang không một vải che thân. Cậu bèn trượt xuống tảng đá, mặc quần áo vào, gói ghém “Cơ xảo tập” và tấm thẻ ngọc lại như cũ, bỏ vào trong túi của lần áo trong cùng. Giờ đây, cậu đang sốt ruột muốn trở lên. Cậu không rõ mình đã ở trong hầm bao lâu, và trên kia liệu có xảy ra chuyện gì bất trắc.
Lỗ Nhất Khí vừa bước lên bậc thang, chợt sau lưng vang lên một tiếng nổ lớn. Ngoảnh đầu nhìn lại, thì ra tảng đá Tam Thánh đã tự nhiên vỡ tung, chỉ còn lại một đống đá nát vụn. Vầng hào quang đỏ tía trong chớp mắt cũng tan biến sạch không. Lỗ Nhất Khí thầm nghĩ, quả nhiên ứng với lời nói “đá vỡ” của đạo nhân trong giấc mộng, nhưng không biết “trời kinh” sẽ ứng với điều gì.
Lỗ Nhất Khí hết sức thận trọng nhô lên khỏi miệng hầm. Cậu cực kì cảnh giác, cơ bắp hai bên sống lưng căng thẳng, lực dồn vào bắp chân và mũi chân, tựa như một con báo đang nép người rình mồi, sẵn sàng phóng vụt ra, hoặc bỏ chạy trong nháy mắt.
Một bầu im lặng nặng nề bao trùm khắp gian phòng chính, vài ngọn lửa nến vẫn lay lắt bập bùng. Cửa phòng mở toang, không thấy Lỗ Thịnh Hiếu đâu cả. Lỗ Nhất Khí không lên tiếng, lặng lẽ quan sát xung quanh, căn phòng liệu có gì xáo trộn. Cậu từ từ tiến về phía cửa, vừa bước qua bậu cửa, liền nhìn thấy Lỗ Thịnh Hiếu. Ông đang đứng phía dưới bậc tam cấp của phòng chính, quay lưng về phía cửa, hoa tuyết đã phủ kín đỉnh đầu và hai vai ông. Dường như ông không hề cảm thấy lạnh trong chiếc áo mỏng manh, dù đang đứng giữa sân tuyết giá.
Cậu khẽ gọi một tiếng:
- Bác ơi!
Lỗ Thịnh Hiếu không hề phản ứng, vẫn đứng trơ trơ không nhúc nhích. Lỗ Nhất Khí không gọi nữa, cũng không bước ra, mà từ từ lùi lại, lùi vào bên trong bậu cửa. Sau đó, cậu dang rộng hai tay, nắm lấy hai mép cánh cửa hai bên, rồi cũng đứng im bất động, quan sát Lỗ Thịnh Hiếu.
Trước khi Lỗ Nhất Khí bước vào nhà, Quỷ Nhãn Tam đã chỉ về phía Lỗ Thịnh Hiếu và ra dấu với cậu. Đến lần thứ hai cậu mới đoán ra, Quỷ Nhãn Tam muốn nói hai tiếng: “Cẩn thận.” Bởi vậy, cậu cũng mấp máy đáp lại Quỷ Nhãn Tam hai chữ: “Biết rồi.” Bác cậu quả thực có nhiều hành động rất bất thường, Lỗ Nhất Khí đã phát hiện ra từ trước, song cậu chỉ nghĩ rằng có lẽ ông đã luyện thứ công phu gì đó mà tẩu hỏa nhập ma.
Cơ thể Lỗ Thịnh Hiếu bắt đầu run lên bần bật, càng lúc càng dữ dội, khiến lớp tuyết đọng trên đỉnh đầu và hai vai bị hất rơi lả tả. Trong cơn run rẩy, ông từ từ quay người lại, từng chút một. Và Lỗ Nhất Khí đã nhìn thấy một khuôn mặt, một khuôn mặt đau đớn, khủng khiếp, méo mó biến dạng, sắc mặt xanh lét, hai mắt đỏ ngầu, song ánh nhìn lại vô hồn đờ đẫn, không rõ là đang nhìn cái gì. Các cơ trên mặt rung lên bần bật và co giật liên hồi, kèm theo đó là những giọt mồ hôi to bằng hạt đậu lăn xuống hai gò má. Ông bắt đầu rảo bước, đi thẳng vào phòng. Bước chân ông dần dần áp sát, Lỗ Nhất Khí cũng từ từ khép hai cánh cửa lại.
Ánh mắt vô hồn của Lỗ Thịnh Hiếu đột nhiên dại hẳn đi, hai con mắt đỏ ngầu nhìn chòng chọc vào Lỗ Nhất Khí. Trong ánh mắt đó, cậu cảm nhận thấy sự điên cuồng thú tính và sát khí khát máu.
Lỗ Thịnh Hiếu thình lình chạy vụt lên như một tia chớp, đôi bàn tay rắn chắc vạm vỡ chụp thẳng về phía Lỗ Nhất Khí. Ánh mắt của ông khiến Lỗ Nhất Khí kinh ngạc tột độ, nên động tác của cậu cũng khựng lại theo. Đến khi đôi bàn tay to khỏe của Lỗ Thịnh Hiếu sắp vồ đến trước mặt, cậu mới bừng tỉnh, vội vã sập cửa lại. Song đã muộn mất rồi, hai cánh cửa đã không thể khép lại được nữa, hai tay của Lỗ Thịnh Hiếu đã kẹp giữa hai cánh cửa.
Lỗ Nhất Khí dồn sức ghì chặt lấy cánh cửa, cánh cửa đang bị đẩy vào với một lực đạo cực lớn. Hai cánh tay đang kẹp giữa khe cửa không ngừng khua khoắng, vồ chụp. Chúng phải tìm được một thứ gì đó để phát tiết; chúng muốn túm chặt, muốn vò nát, muốn xé vụn.
Hai cánh cửa rung lên dữ dội, trụ cửa phát ra những tiếng cót két rợn người. Lỗ Thịnh Hiếu chợt gầm lên một tiếng quái dị. Tiếng gầm vừa vang lên, Lỗ Nhất Khí lập tức bị một luồng lực đạo rất mạnh đẩy văng vào trong, ngã bật về phía sau đến bốn năm bước. Trục cửa gãy rời, hai cánh cửa đổ đánh rầm xuống hai bên. Lỗ Thịnh Hiếu nhảy xổ vào trong, lao về phía Lỗ Nhất Khí. Lỗ Nhất Khí lăn tròn trên đất, né vội sang một bên. Lỗ Thịnh Hiếu xông tới trước bàn Bát tiên, vung tay tung chiếc bàn, rồi xoay người, tiếp tục lao về phía Lỗ Nhất Khí. Lỗ Nhất Khí vừa kịp đứng dậy, tiện tay nhấc chiếc kỉ trà, chặn Lỗ Thịnh Hiếu lại, nhưng ông vẫn tiếp tục lao đến. Lỗ Nhất Khí không thể chống đỡ được xung lực đó, hai chân trượt thẳng về phía sau, cho tới khi va vào góc tường. Cậu chống hai chân vào góc tường, mượn lực để đẩy trở lại, chặn được Lỗ Thịnh Hiếu.
Hai người tiếp tục giằng co. Từ miệng Lỗ Thịnh Hiếu liên tục phát ra những tiếng gầm gừ quái dị, hai bàn tay ông liên tục quờ quạng, rướn về phía Lỗ Nhất Khí, may nhờ chiếc kỉ trà dài hơn tầm với của ông, nên hai bàn tay chỉ chộp vào khoảng không.
Lỗ Nhất Khí dần dần đuối sức, hai chân tì lên tường bắt đầu run rẩy, cánh tay cũng không đủ sức để đẩy chiếc kỉ trà, đành phải tì ngực vào mép bàn, mượn sức của vai và lưng để ngăn cản Lỗ Thịnh Hiếu.
Lỗ Thịnh Hiếu đã thôi không khua khoắng đôi tay một cách vô ích. Ông cúi đầu xuống một cách cứng nhắc, nhìn vào chân bàn đang chống trước ngực mình. Hai tay ông đột ngột vung lên chặt mạnh, chân bàn phút chốc gãy vụn thành mấy mảnh bay tung tóe, bắn lên tường cột, nóc nhà. Lỗ Nhất Khí đột ngột mất đi điểm tựa, bố nhào về phía trước. Cậu vừa định bước chân lên chống đỡ thì cổ họng đã bị Lỗ Thịnh Hiếu túm chặt. Sức mạnh từ đôi bàn tay của ông thật khó tưởng tượng, Lỗ Nhất Khí biết một đôi tay với sức mạnh nhường đó có thể lấy mạng cậu chỉ trong chốc lát. Cậu chẳng kịp nghĩ ngợi, tiện tay đập ngay mặt kỉ trà còn cầm trên tay vào cánh tay ông.
Hai bàn tay vẫn không chịu buông, hai cánh tay cũng không động đậy, trong khi kỉ trà lập tức vỡ tan tành. Lỗ Nhất Khí ném mảnh vỡ trong tay đi, hai tay chụp lấy cổ tay Lỗ Thịnh Hiếu, cố gắng giằng giật sang hai bên, song đôi tay không hề nhúc nhích. Lỗ Nhất Khí đành phải giơ chân lên, tì vào bụng Lỗ Thịnh Hiếu đẩy mạnh.
Đôi tay Lỗ Thịnh Hiếu siết chặt vào cổ cậu, Lỗ Nhất Khí đã không còn thở nổi, đầu óc trống rỗng, hai mắt hoa lên, hai chân mềm nhũn, cú tung chân muốn đạp Lỗ Thịnh Hiếu ra đã trở thành động tác co giật trong cơn hấp hối. Não cậu đã tê liệt, ý thức đã mơ hồ, cậu thấy đôi mắt đỏ ngầu của Lỗ Thịnh Hiếu mỗi lúc một xa, xa dần, xa dần, cuối cùng biến mất hẳn, chỉ còn một màu đen thăm thẳm…
Chương 6.3 RÌU BAN MÔN“Keng…”
Một tiếng vang lanh lảnh như tiếng chuông vàng, là tiếng va đập của lá kim loại mỏng. Lỗ Thịnh Hiếu đột nhiên khựng lại, chiếc cổ cứng nhắc xoay giật cục ra phía ngoài sân, hai mắt lộn ngược. Lại một tràng tiếng kim loại vỡ vọng đến. Lỗ Thịnh Hiếu bỗng như sực nhớ ra điều gì, đẩy vội Lỗ Nhất Khí ra, rồi lao nhanh ra ngoài.
Lỗ Nhất Khí ngã ngửa trên nền nhà. Cậu cố gắng nhấc người lên, há to miệng thở lấy thở để. Suốt hai mươi năm qua, đây là lần đầu tiên cậu khao khát được thở đến như vậy. Một hồi lâu sau, cậu mới lật nghiêng được thân người, đứng dậy một cách chật vật. Cậu lo sợ Lỗ Thịnh Hiếu đột ngột quay lại, khi đó, cậu sẽ chết chắc. Giờ đây, cậu cần phải nhanh chóng tìm nơi ẩn nấp.
Nhưng cậu lại không biết trong nhà mình có nơi nào ẩn nấp được hay không mà dù có biết, Lỗ Thịnh Hiếu chắc chắn cũng sẽ tìm ra. Cậu vịn vào cây cột trụ trong gian phòng chính, nhìn sang hai bên, thấy cửa hai phòng đều đóng chặt. Cậu không dám tùy tiện mở cửa, bởi vì dù đứng ở trong nhà mình, song cạm bẫy khám diện không có mắt, với ai cũng như nhau. Hơn nữa ngay từ khi mới đặt chân vào căn phòng, cậu đã phát hiện thấy có rất nhiều hiện tượng bất thường.
Cậu thầm nghĩ hay là quay trở xuống hầm, sau khi xuống sẽ rút lưỡi ngọc lên, như vậy người bên ngoài sẽ không thể vào được. Hơn nữa, cậu cũng tin rằng mật thất của nhà họ Lỗ chắc chắn sẽ có đường ra. Cho dù không có đường ra, cậu vẫn có một lá bùa hộ mạng, đó chính là “Cơ xảo tập” cậu đang mang trên người. Có được cuốn sách lụa đã làm nên thành tựu huy hoàng của hai người thợ vĩ đại không tiền khoáng hậu, chắc chắn việc tìm cách mở cửa mật thất sẽ không quá khó khăn.
Cậu chệnh choạng đi đến trước miệng hầm, nhìn xuống dưới, rồi lại nhìn vị trí của lưỡi rìu. Tiếp đó, cậu nắm lấy sợi dây buộc trên lưỡi rìu, không chút do dự kéo nó lên. Lập tức, những phiến đá xung quanh miệng hầm bắt đầu xoay chuyển, miệng hầm nhanh chóng thu nhỏ lại. Lỗ Nhất Khí vội bước lại, chuẩn bị nhảy xuống miệng hầm. Đúng lúc đó, ngoài cửa vọng lại một tiếng rú thê thảm. Tiếng rú quét thành một đường vòng cung trong căn phòng rồi đáp xuống sau lưng cậu, kết thúc bằng một tiếng rơi nặng nề. Ngay sau đó, một bàn tay túm chặt lấy gót chân cậu.
Lỗ Nhất Khí vội cúi xuống nhìn, người đang nằm dưới đất chính là Lỗ Thịnh Hiếu. Nét mặt ông đã hết vẻ cuồng dại, chỉ còn lại nỗi đau đớn cùng cực. Lần áo mỏng trước ngực ông đã thủng một mảng lớn hình răng cưa trông như chiếc lá phong lộ rõ một khoảng da thịt tím bầm, hai bên mép trào ra từng dòng máu đỏ tươi.
Khi Lỗ Nhất Khí vừa cúi xuống, cửa hầm đã khép chặt, nền nhà lát đá xanh lại bằng phẳng như chưa từng có chuyện gì xảy ra.
Cùng lúc đó, một cái bóng cao lớn vạm vỡ lù lù hiện ra trước cửa.
Người đứng trước cửa quả là một gã khổng lồ, phải cao hơn Lỗ Nhất Khí tới hai cái đầu. Dưới lớp áo bông dày, vẫn có thể nhận ra một thân hình cơ bắp cuồn cuộn, lưng hổ eo báo. Lỗ Nhất Khí không nhìn thấy mặt hắn, do hắn đứng quay lưng vào cửa, hai tay chắp sau lưng.
Bóng người đột ngột dịch chuyển hai bước trên không lui về phía sau. Hai bước chân của hắn chuyển động mạnh một cách bất thình lình không hề có dấu hiệu nào báo trước, thân hình không hề động đậy, ngay cả vạt áo cũng không nhúc nhích.
Lỗ Nhất Khí giật mình, lẽ nào lại là một thi ngẫu nữa. Nếu vậy, cậu hoàn toàn không có khả năng đối phó, chỉ còn cách mau chóng mở hầm, chui vào trong đó. Nhưng cậu còn chưa kịp cắm lưỡi rìu ngọc vào khe đá, Lỗ Thịnh Hiếu đã hồi phục trở lại. Đúng là ông ấy đã hết cơn điên loạn, ông đang cố nén nỗi đau đớn kịch liệt mà nói với Lỗ Nhất Khí:
- Đỡ ta dậy!
Lỗ Nhất Khí vừa đỡ Lỗ Thịnh Hiếu đứng dậy, ông đã đẩy cậu sang một bên, nói khẽ:
- Nấp dưới bàn thờ!
Còn ông lê tấm thân đầy thương tích, đi từng bước khó nhọc tới phía trước cây cột nhà thứ hai bên trái, đưa tay ấn vào một cái mấu vẫn thường thấy trên thân gỗ, sau đó lôi từ trong đó ra một vài sợi dây mảnh.
Thân hình hộ pháp kia lại di chuyển hai bước trên không, chớp mắt đã lọt vào trong cửa. Lỗ Nhất Khí nãy giờ vẫn nhìn hắn không chớp mắt song cậu không thể nhận ra hắn làm thế nào để vượt qua được bậc cửa cao hơn nữa thước.
Lỗ Thịnh Hiếu cao giọng quát lớn:
- Bao vây Ban môn chúng ta suốt hai mươi năm, hôm nay lại muốn đuổi cùng giết tận, giờ ta sẽ cho ngươi được toại nguyện, nếu ngươi không sợ chết thì lại đây!
Nghe những lời này, Lỗ Nhất Khí bỗng giật nảy mình, hàn khí chạy dọc sống lưng. Các hiện tượng bất thường mà cậu đã phát hiện ra từ khi bước chân vào nhà đều hiện ra trước mắt. Cậu hét lớn:
- Không!
Rồi cầm súng trong tay chạy vụt đến Lỗ Thịnh Hiếu, giữ chặt lấy tay ông mà nói:
- Lẫy này không kéo được! Bọn họ đã bao vây nhà chúng ta suốt hai mươi năm, chắc chắn đã đến nơi này. Để tìm kiếm bí mật mà chúng ta cất giấu, trong hai chục năm qua họ hẳn đã cày xới đảo lộn cái nhà này lên rồi, khảm diện trước đây họ không thể không phát hiện ra. Khi bác bố trí khảm diện ngoài cổng, con thấy các khớp lẫy chuyển động trơn tru không chút kẹt rít, đã cảm thấy nghi ngờ. Bước vào trong nhà, lại thấy mọi thứ sạch sẽ khác thường; khi qùy lạy, đệm bái không hề tung bụi, giọt nến chảy còn mới. Trên mặt bàn thờ, con sờ tay không thấy một mảy bụi. Khí hậu ở thành Bắc Bình chỉ cần một đêm là bụi phủ hàng lớp, vậy mà ở đây mảy bụi cũng không có. Chắc chắn là trước khi chúng ta vào đây, đã có người làm chuyện mờ ám!
Bóng người kia cũng đứng im, dường như hắn cũng đang lắng nghe những phân tích của Lỗ Nhất Khí. Lỗ Nhất Khí vừa nói tới đó, hắn đột nhiên cười phá lên một tràng ha hả, rồi nói:
- Thật không ngờ Lỗ gia vẫn còn người! Thảo nào có thể xông đến tận đây. Bao nhiêu bố cục tinh xảo, cạm bẫy tuyệt mệnh vẫn không cản trở được ngươi!
Giọng nói của hắn nghe sang sảng như tiếng chuông đồng. Nghe giọng nói ấy, Lỗ Nhất Khí mới biết rằng hắn không phải là thi ngẫu, mà là người, là con người thực sự, một gã hộ pháp với động tác nhanh như chớp xẹt.
Thân người từ từ quay lại. Lỗ Nhất Khí nhìn thấy đôi mắt trước tiên, một đôi mắt chứa đầy sát khí và thù hận. Cậu đã nhìn thấy đôi mắt đấy không chỉ một lần, nhưng đến giờ, cậu mới nhìn thấy chủ nhân của chúng.
Người này thực sự không có gì đặc biệt ngoài thân hình cao lớn khác thường, và một vết sẹo kéo dài từ trán tới tận khóe miệng trên khuôn mặt đen bóng. Nhìn vào phong thái và cách ăn mặc, hắn chẳng khác nào một phu khuân vác hay gã kéo xe.
- Đã tới đây rồi hãy ở lại thêm nửa ngày nữa, đợi chủ nhân của ta về đến sẽ nói chuyện với hai vị! – Giọng nói của hắn có vẻ ngang ngược không dễ thương lượng.
- Không, ta không muốn ở lại! – Lỗ Nhất Khí không lớn tiếng, ánh mắt cũng không hề dữ tợn, mà vẫn từ tốn bình hòa như một ngọn núi.
- Đã bận rộn gần hết một đêm rồi, ta không muốn phí sức thêm nữa, trừ phi hai người ép ta! – Ngữ khí của hắn vẫn hết sức ngạo mạn, tuy nhiên nhiều khi, vẻ ngạo mạn bề ngoài lại bộc lộ sự thiếu tự tin trong nội tâm.
- Ngươi bận rộn cả đêm liệu có tác dụng gì không? Nếu ép ngươi, ngươi cảm thấy có mấy phần thắng? – Lỗ Nhất Khí bắt đầu uy hiếp.
- Hừm! Việc này cậu hãy hỏi ông ta! – Gã hộ pháp chỉ vào Lỗ Thịnh Hiếu – Ông ta biết rõ ta có bao nhiêu phần thắng! – Lúc này, giọng nói của hắn ta rõ ràng có ít nhiều lo lắng.
- Vậy ngươi cảm thấy, nếu so sánh về kĩ nghệ trong môn phái của ngươi, thì các ngươi giỏi võ thuật hơn, hay giỏi đặt cạm bẫy hơn? – Giọng nói của Lỗ Nhất Khí càng lúc càng tỏ rõ sự mỉa mai.
Gã hộ pháp cứng họng không biết phải trả lời như thế nào, vẻ mặt hắn có phần lúng túng. Hắn không dám nhận võ nghệ của mình kém cỏi, càng không dám nói chủ nhân bài trí khảm diện thấp tay.
- Cũng khó trách, ngươi chẳng qua cũng chỉ là kẻ sai vặt, làm sao biết được chỗ kì diệu của khảm diện, nút lẫy. Chủ nhân của ngươi chẳng qua chỉ sai ngươi canh nhà, bật lẫy, ngươi có khác gì con chó dại ngoài kia! – Rõ ràng, Lỗ Nhất Khí đang muốn chọc tức hắn.
Quả nhiên gã hộ pháp đã nổi giận, mắt hắn như tóe lửa. Thân hình hắn vẫn bất động, chỉ có bàn chân lướt trên không trung xáp tới như một cái bóng.
- Ngươi có biết chủ nhân của ngươi bao vây ngôi nhà này suốt hai mươi năm để tìm kiếm thứ gì không? – Lỗ Nhất Khí vẫn không hề phản ứng trước động tác lướt đến thình lình của hắn.
Gã khổng lồ di chuyển rất nhanh, chớp mắt đã áp sát Lỗ Nhất Khí. Bàn tay rộng lớn của hắn đã sắp chạm được vào cổ cậu, có vẻ như muốn vặn đứt cổ cậu đến nơi. Nhưng vừa nghe thấy lời này, hắn lập tức rụt tay về, thân hình hơi khựng lại.
- Ngươi thử nói xem, nếu ta phá hủy thứ mà chủ nhân của ngươi muốn có, thì ngươi và ta sẽ có kết quả ra sao? – Lỗ Nhất Khí vẫn không thèm đếm xỉa tới phản ứng của hắn, thản nhiên nói.
Phản ứng của hắn bỗng trở nên trì độn. Hắn không di chuyển nữa, hình như đang suy nghĩ về vấn đề này.
Vào đúng khoảnh khắc đó, tiếng súng vang lên. Lỗ Nhất Khí vẫn giấu súng trong túi vải, cậu vừa nổ súng phía sau lớp vải.
Cậu biết, từ khi xông vào trạch viện, cậu đã nổ súng rất nhiều lần. Vậy mà gã hộ pháp này dám đứng xoay lưng trước cửa, chắc chắn hắn không sợ khẩu súng trong tay cậu. Hơn nữa, vừa rồi cậu thậm chí còn không nhìn rõ hắn bước qua bậu cửa thế nào, tốc độ di chuyển của hắn chắc hẳn không thua kém tam canh hàn. Nên Lỗ Nhất Khí đã tính toán rất kĩ, nếu muốn bắn trúng kẻ này, cần phải dùng đến biện pháp khác.
Lúc này, khoảng cách giữa hai người đã rất gần, mà hắn lại có vẻ phân tâm, bởi vậy, đây chính là cơ hội tốt nhất, và cậu nổ súng.
Lỗ Nhất Khí không bắn vào chỗ hiểm của đối phương, cậu biết muốn bắn vào chỗ hiểm, phải dịch nòng súng lên cao hơn, động tác nhỏ đó chắc chắn sẽ không qua nổi cặp mắt của hắn, chỉ nhích ngón tay và bóp cò.
Gã hộ pháp không cần nhún đầu gối đã nhảy vọt lên cao, viên đạn bay sượt qua dưới đế giày hắn. Hắn biết không thể lùi về phía sau, trong lúc nhảy về phía sau nếu bị truy kích, hắn sẽ khó mà tránh né được khi thân thể lơ lửng trên không. Bởi vậy vừa nhảy vụt lên cao, hắn đã gập lưng về phía trước, bay vèo qua đầu Lỗ Nhất Khí, đáp xuống sau lưng cậu.
Lỗ Nhất Khí cũng hành động, song động tác của cậu rất khó coi, ba chân bốn cẳng vừa bò vừa toài, nhưng cũng rất nhanh chóng. Khi gã hộ pháp bay qua đầu Lỗ Nhất Khí, cậu liền thụp xuống theo bản năng rồi lao về phía trước, tay trái chống đất, lăn người sang một bên, đồng thời tay phải vung lên bóp cò về phía gã hộ pháp vừa chạm đất.
Gã hộ pháp tuy quay lưng lại với Lỗ Nhất Khí, song lập tức trượt thẳng thân người về phía trước mau lẹ như một bóng ma, nhẹ nhàng tránh được phát đạn của cậu.
Lỗ Nhất Khí tiếp tục lăn thêm nửa vòng rồi ngồi bật dậy, người hai ngả ra sau, giương súng bắn tiếp phát thứ ba.
Lúc này gã hộ pháp đã kịp xoay người lại, phát đạn thứ ba bay đến giữa trán, hắn né tránh càng dễ dàng hơn cơ thể gần như không cần nhúc nhích.
Lỗ Nhất Khí cảm thấy hơi tuyệt vọng. Cậu biết đã bỏ lỡ thời cơ tốt nhất, giờ đây đã không còn cơ hội để bắn trúng hắn.
Gã hộ pháp di chuyển về phía trước hai bước. Tuy biết Lỗ Nhất Khí không thể gây tổn thương đến hắn, nhưng không hiểu vì sao trong lòng hắn vẫn có một cảm giác sợ hãi rất khó lí giải, tựa như nỗi kính sợ đối với chủ nhân của hắn.
Lỗ Nhất Khí đột ngột quay ngoặt nòng súng lại, chĩa vào bên sườn trái của mình, vừa cười thản nhiên vừa nói:
- Ngươi muốn phá hủy thứ mà chủ nhân của ngươi cần ư?
Gã hộ pháp khựng lại. Một lần nữa, hắn lại đứng yên tại chỗ không dám tiến bước, đây là lần thứ hai hắn phạm phải cùng một sai lầm.
Tuy nòng súng của Lỗ Nhất Khí chĩa vào cậu, song người cậu lại nghiêng sang trái, có thể trượt nòng súng qua sườn trái, rồi dùng ngón cái bóp cò. Tuy hi vọng rất mong manh, song Lỗ Nhất Khí vẫn muốn liều mạng lần cuối, cậu bóp cò liên tục bắn hết ba viên đạn còn sót lại.
Gã hộ pháp và Lỗ Nhất Khí đang dốc toàn lực vào trận quyết đấu, họ đã hoàn toàn quên bẫng mất một người thứ ba, đó là Lỗ Thịnh Hiếu. Ông đang ngồi phệt dưới đất tựa lưng vào cột nhà, song trong tay vẫn nắm chặt sợi dây mảnh. Lúc này, ông đã biết rõ khám diện đã bị đối phương thay đổi, bởi vậy nếu phán đoán dựa vào vị trí đứng của hai người, thì chỗ đứng của Lỗ Nhất Khí giờ đây có lẽ là an toàn nhất, còn gã hộ pháp đang đứng gần ông, gần như đã hoán đổi vị trí của Lỗ Nhất Khí. Hơn nữa, lúc này hắn đang bị Lỗ Nhất Khí uy hiếp nên có phần luống cuống, đây quả là một cơ hội tuyệt vời. Và Lỗ Thịnh Hiếu giật mạnh sơi dây, nhủ thầm sẽ cùng liều một chết.
Lẫy đã bật, khảm đã động. Cánh cửa hai gian đông tay trượt ra êm ru không một âm thanh, tên bay vun vút từng dãy như mưa rào. Từ giữa nóc nhà rơi xuống ba thanh kèo gác mái*, mấy chục mũi lao phóng xuống như chớp xẹt.
* Trong những ngôi nhà xây bằng gạch, gỗ, trên xà nhà thường đóng những thanh kèo bằng gỗ dùng để lợp ngói, lát gạch.Quả nhiên lẫy bật đã bị đối phương thay đổi, toàn bộ các mũi tên và lao nhọn đều phóng về phía Lỗ Thịnh Hiếu và gã hộ pháp. Nhưng gã hộ pháp vẫn nhanh nhẹn không ngờ, hai cánh tay to lớn múa lên tít mù, chắn đỡ, đập rơi được vô số ám khí. Thế nhưng vẫn có những ám khí hắn không thể đánh rơi được, đó chính là ba phát đạn liên tiếp của Lỗ Nhất Khí. Nghe thấy tiếng súng vang lên, hắn chỉ biết né tránh. Phát súng đầu tiên hắn không kịp né, viên đạn xuyên thẳng vào sườn trái, nhưng hai phát đạn tiếp theo đều không trúng đích. Nhưng để né tránh hai đường đạn đó, hắn đã phải trả một cái giá rất đắt. Một mũi lao cắm vào phập vào đùi phải hắn, bả vai trái trúng liền hai mũi tên, lại thêm một mũi tên xuyên trúng bắp chân trái.
Bị trúng thương, gã hộ pháp trở nên hoảng loạn. Kì thực với công lực của hắn, cho dù bị thương, vẫn có thể dễ dàng lấy mạng Lỗ Thịnh Hiếu và Lỗ Nhất Khí. Song hắn đã thực sự khiếp đảm, chỉ kịp gầm lên một tiếng, rồi tung mình bay ra phía cửa. Lúc đó, lại thêm hai mũi tên nữa găm trúng cánh tay phải và lưng phải của hắn.
Gã hộ pháp vừa gào rú vừa chạy mất tăm. Hai hồi gõ đập qua đi, khảm diện yên tĩnh trở lại. Trong trận chiến này, Lỗ Nhất Khí không hề tổn thương đến một sợi tóc. Cậu đứng bật dậy, nhìn thấy Lỗ Thịnh Hiếu vẫn ngồi dựa vào cây cột, nửa thân trên trúng đến hơn chục mũi tên cả sau lẫn trước, hai chân bị mấy mũi lao ghim chặt xuống nền nhà. Nửa thân trên máu không ra nhiều, vì mũi tên không có khe dẫn máu, thân tên đã bịt kín vết thương. Ngược lại, hai chân ông máu tuôn xối xả thành vũng lớn.
Lỗ Nhất Khí chạy vội tới bên bác, cậu muốn tìm cách bịt vết thương lại, song không biết phải bắt đầu từ đâu, hai tay luống cuống không biết đặt vào chỗ nào.
Lỗ Thịnh Hiếu giữ lấy tay cậu, khó nhọc lên tiếng:
- Mang hòm gỗ lại đây!
Lỗ Nhất Khí vội vã chạy đi mang chiếc hòm lại, cậu hi vọng chiếc hòm gỗ có thể cứu sống được bác.
Thế nhưng, chiếc hòm gỗ đã không thể giúp gì được Lỗ Thịnh Hiếu. Nó chỉ mang đến cho Lỗ Nhất Khí những lời trăn trối cuối cùng.
Máu trào ra không ngừng từ khóe miệng Lỗ Thịnh Hiếu. Ông cố gắng dồn chút hơi tàn, chỉ vào một ngăn kéo trên hòm gỗ, nói:
- Đẩy lẫy ngầm chính giữa phía dưới vào trong, kéo trái ấn phải mở ra!
Lỗ Nhất Khí làm theo lời ông, mở được ngăn kéo ra. Đó là một ngăn kéo được phong kín, không lớn lắm, bên trong có một cuốn sách lụa khá dày. Trên bìa sách là hai chữ viết theo lối hành thư rất đẹp: “Ban Kinh.”
Lỗ Nhất Khí thuận tay lật giở trang đầu tiên, chỉ nhìn thấy hai hàng chữ dọc: “Nếu như nghe được lời trong đá, biết nơi tàng bảo tại tám phương.”
Lỗ Thịnh Hiếu lại hít sâu một hơi, hỏi:
- Có thấy gì dưới hầm không?
Lỗ Nhất Khí bèn đáp:
- Thiên bảo tám phương trấn hung huyệt, Bát cực số mãn định phàm cương. “Cơ xảo tập,” thẻ ngọc ghi phương vị, con đều đã lấy được!
Mắt Lỗ Thịnh Hiếu bỗng sáng rực lên:
- Thật không? Con đã thực sự đã nghe được “lời trong đá” ư? Trong đó quả thực có những bảo bối đó ư?
Các thế hệ Lỗ gia đời đời đã giữ gìn và bảo vệ đá Tam Thánh, song không ai có thể hiểu được sự kì diệu ẩn chứa trong đó.
Lỗ Thịnh Hiếu vừa thở đứt quảng vừa nói:
- Tổ sư của Ban môn chúng ta là Công Thâu Ban, người đời sau gọi là Lỗ Ban. Ban môn đời đời đều là những thợ mộc lành nghề hậu đạo, dựng nhà bắc cầu, đón lành rước cát. Chỉ có điều trong hơn hai nghìn năm qua, tám bảo bối “thiên bảo định phàm cương” vẫn chưa hoàn toàn được đặt đúng vị trí. Trong Mặc môn, Ban môn đều có người tắc trách, thậm chí chiếm đoạt, trộm cắp, lén mang thiên bảo giấu đi, bởi vậy mới có cảnh chiến tranh đẫm máu ngày hôm nay!
Lỗ Nhất Khí không hề cảm thấy kinh ngạc trước lời nói của Lỗ Thịnh Hiếu, như thể cậu đã biết việc này từ lâu lắm rồi.
Lỗ Thịnh Hiếu khạc ra một cục máu, nói tiếp:
- Hiện nay số Bát cực đã hết, vận mệnh đã an bài, con là người có duyên phong huyệt, con hãy mang Lộng phủ đi xuống phía nam, gặp cha của con, để hoàn thành trọn vẹn di mệnh mà tổ sư để lại. Đây cũng là tạo phúc cho muôn dân, tích đức cho con cháu. Có Lộng phủ bên mình, con sẽ là môn trưởng của Ban môn, trên đường đi tự khắc sẽ gặp người có duyên trợ giúp!
- Lộng phủ là… – Lỗ Nhất Khí vẫn ngơ ngác.
Lỗ Thịnh Hiếu chỉ vào sợi dây buộc lưỡi rìu ngọc đang thò ra ngoài miệng túi của cậu. Lỗ Nhất Khí lôi lưỡi rìu ngọc ra, hỏi:
- Là vật này ư? Đây chính là tín vật của Ban môn?
Lỗ Thịnh Hiếu khẽ gật đầu. Bỗng chốc tinh thần ông vụt trở nên phấn chấn, ông nắm lấy tay Lỗ Nhất Khí, xiết thật chặt, thật mạnh, sau đó nói rành rọt từng chữ:
- Con hãy nhớ những điều này. Thứ nhất, không được tin bất kì ai, trừ khi người đó đã hi sinh tính mạng vì con. Thứ hai, ta không biết trứng tam canh hàn bao giờ sẽ nở, ta nói bảy ngày chỉ để Nghê Tam yên tâm tiếp tục cùng chúng ta vượt qua đoạn đường này, nếu hắn có gì khác lạ, phải lập tức tiêu diệt ngay. Thứ ba, sau khi ta chết, nhất định phải đốt ngay thi thể của ta, nếu không sẽ có hậu quả khôn lường. Thực ra, ngay khi ở trong nội viện, ta đã bị linh miêu cào rách da thịt. Hai con linh miêu đó chính là loại “đầu đồng lưng sắt vuốt điên cuồng.” Ta đã trúng độc… “linh miêu phong” rồi. Qua một thời gian… nếu phong độc… phát tác, ta… sẽ không nhận ra… ai nữa, bắt được ai… sẽ giết người đó… Khi nãy, nếu không phải… gã hộ pháp kia… phá vỡ Bát quái sắt… phá nút móng đạp bươm bướm, khiến ta… bừng tỉnh, nếu không… ngay cả con cũng… đã bị… ta giết rồi… Còn nữa…
Lỗ Thịnh Hiếu đã không còn đủ sức để nói tiếp, tiếng thở của ông yếu dần, dần dần rồi lịm hẳn.
Lỗ Nhất Khí khẽ lật miếng áo rách trên lưng ông ra xem. Vết thương đã ngả màu xanh lét, thâm đen, còn mọc một lớp lông xanh lục dày sin sít. Giờ đây, cậu đã hiểu vì sao ông thường xuyên có những biểu hiện bất thường. Ông đã gắng gượng chịu đựng nỗi đau đớn một mình, và ngay từ đầu ông đã biết, ông không bao giờ còn có thể ra khỏi gia môn lần nữa.
Lỗ Thịnh Hiếu đã hoàn toàn im lặng, không còn một chút hơi tàn. Lỗ Nhất Khí hiểu, đã đến lúc mình cần phải rời khỏi nơi đây. Cậu nhìn lần cuối người bác đang ngồi trong vũng máu, lòng đau như xé. Với cậu, ông ta là người thân thiết nhất trong cuộc đời này. Từ giờ trở đi, cậu không bao giờ có được một người thân như vậy nữa, kể cả cha ruột của mình. Nhưng cậu không rơi lệ, giờ đây, không phải là lúc để khóc.
Lỗ Nhất Khí đẩy đổ giá nến. Ngọn lửa mau chóng liếm lên màn trướng, bài vị trên bàn thờ, trùm lên bàn ghế, xà cột. Lửa càng bốc càng mạnh, khuôn mặt cậu đã đỏ rực ánh lửa. Cậu cất cẩn thận Ban kinh, Lộng phủ, nạp thêm đầy đạn vào ổ súng, sau đó chạy ra khỏi cửa, lao mình vào trong gió tuyết đang lúc càng thêm dữ dội…