IChiều ngày mồng 9 tháng 3 nãm 1945 tôi có việc về nhà anh T. Cơ sở cách mạng ở làng Ngọc Giang. Một căn nhà lá lụp xụp tối tăm, nép mình trong một vườn chuối rậm rạp, nền nhà ẩm thấp, hơi đất bốc lên hôi và lạnh. Tôi đến giữa lúc anh chị T. và hai cháu đã ngồi quanh mâm cơm. Gọi là mâm cơm, theo cách nói thông thường thực ra chỉ là cái mẹt nhỏ, với một ít củ chuối rau sam và rau má luộc. Anh chị chào đón tôi niềm nở. Trên khuôn mặt vàng sạm, hốc hác, răn reo của anh chị, đôi mắt và nụ cười vẫn ánh lên một niềm tin tưởng lạc quan và tình cảm thân thiết. Các cháu yêu quá không thể nhảy đến với tôi được. Chỉ đến khi tôi ngồi xuống gần bên, các cháu mới xích lại gần và ngã đầu vào lòng tôi để tôi vỗ về. Hai anh chị vồn vã mời tôi cùng ăn cơm. Thường thường những gia đình cơ sở và cán bộ cách mạng đều có một tình cảm đặc biệt thân thiết với nhau như ruột thịt. Vì vậy tôi cũng để chèo kéo, vui vẻ ngồi xuống ngay. Anh liền xoay cái mẹt cho món rau quay sang phía tôi ngồi. Trong bữa ăn củ chuối, rau vốn là món ưu tiên cho các cháu, nay anh chị dành ưu tiên đãi khách là tôi. Tôi dứt khoát để các cháu ăn, thế là cái mẹt cứ quay đi quay lại, chị nhìn tôi như van lơn tôi nhận đi. Thấy vậy tôi gắp rau vào bát cho hai cháu và dỗ các cháu ăn. Anh chị bảo: Chúng nó ăn rồi đó. Tôi hiểu thời buổi đó ngọn rau dại cũng chẳng đủ mà ăn, nói gì đến dư dật. Là vài ngọn ran đưa đi đẩy lại, lá rau tình rau nghĩa, biển hiện tấm lòng vì cách mạng của anh chị T., của tầng lớp nông dân nghèo khổ. Thời kỳ ấy, nhân dân ta đang lâm nạn đói. Củ chuối, rau dại cũng không có đủ mà ăn. Khắp các chợ ven đường cái lớn, bờ đê, đi đến đâu cũng thấy đồng bào mình lếch thếch kéo nhau đi ăn xin hoặc nằm co quắp đợi chết. Dọc đường, hầu như ngày nào tôi cũng gặp cảnh chết đói thê thảm. Trên đường rẽ về nhà anh chị T. tôi thấy trước một bãi cỏ có một cuốn chiếu rách, bên cạnh là chiếc bị thủng và chiếc gậy còn vất chỏng chơ. Lật chiếu ra, tôi nhìn thấy một người mẹ ôm đứa con. Cả hai đều khô đét chết cứng từ bao giờ! Ngồi ăn củ chuối với anh chị T. tôi cứ nghẹn ứ cổ và nhớ lại cảnh tượng dọc đường, vì tình cảnh anh chị T. và các cháu bé. Tôi cảm thấy yêu cầu của cách mạng mình phải lật đổ bọn thống trị thật là cấp thiết và đang từng giờ từng phút đốt cháy ruột gan tôi. Các đồng chí hoạt động cách mạng hồi này cũng thiếu thốn nhiều, có khi nhịn đói mấy bữa liền, có khi chỉ vài hạt ngô rang bỏ túi vừa đi công tác vừa ăn dần, uống nước nhiều cho trương bụng. Có hôm tôi và anh Thiệp có sáng kiến mua một chiếc bánh đa nướng bẻ vụn, ăn rí rách cả ngày và uống nước. Thế là thế cho cả hai bữa cơm. Thật là nhất cử lưỡng tiện. Chúng tôi còn tìm ra nhiều thứ để ăn thay cơm như rau dền luộc, rau má, dây sắn, bã đậu, thân cây đu đủ... Có lần tôi phải nhờ nhà cơ sở làm cho bánh cám để anh em ăn chữa bệnh phù. Bánh cám cũng là thứ thay lương thực có chất lượng nhất, lại cất dành được lâu, mang đi dễ dàng. Nhưng có lẽ gia đình ấy cũng biết được ý đồ của chúng tôi nên thỉnh thoảng lại cho kèm một nắm cơm còn họ thì ăn cám thay...Mải suy nghĩ, có lúc tôi nhai uể oải. Vợ chồng anh T. lại gắp rau mời. Đang ăn, bỗng phía Hà Nội có tiếng súng nổ lớn, một tiếng, hai tiếng rồi nổ liên hồi cuối cùng thì rền như sấm. Chúng tôi chạy ra sân đứng nhìn về phía Hà Nội. Anh chị T. cuống quýt hỏi tôi: - Súng gì đấy anh? Tình hình thế nào đây!Lúc đầu tôi cũng không hiểu. Nhưng chợt nhớ lại các nhận định của Trung ương về mân thuẫn Nhật - Pháp, tôi thầm đoán có lẽ chúng nó đã đánh nhau, và nói với anh chị T. như thế. Tuy nhiên tôi vẫn chưa thật tin vào phán đoán của mình. Có thể là đây đó quần chúng tự phát nổi dậy cướp chính quyền đánh lại phát xít Nhật cũng nên! Có thể là sự việc gì khác mà tôi chưa nghĩ tới. Phía Hà Nội, súng vẫn nổ dữ dội. Anh chị T. đứng ngổi không yên, chạy ra chạy vào hoài. Mấy cháu bé cũng bỏ cả nắm rau ngước nhìn chúng tôi, chờ đợi, dò hỏi. Tôi suy nghĩ mông lung. Thực chất tình hình là gì. Hành động của chúng tôi phải như thế nào? Lúc này các đồng chí Trung ương lại đi vắng, tôi không biết tìm hỏi ai. Nghĩ vậy nhưng tôi vẫn nói với anh chị T. bằng một giọng tin tưởng, chắc chắn: - Đúng Nhật - Pháp đánh nhau đấy. Anh chị ở nhà. Tôi đi lên kia nghe ngóng xem sao?Tôi đi, anh chị T. còn dặn với theo, có gì nhớ về cho anh chị biết tin. Trong đêm đó, trên dọc đường đê ngược lên làng chài (Võng La) tôi hy vọng đón được nhanh những tin tức về Hà Nội về, vì làng này có bến Hối, nơi qua lại của nhân dân Chèm và là một trong những mối giao thông giữa Hà Nội với các tỉnh Trung Du. Nhưng dù nóng ruột mấy tôi cũng vẫn phải chờ đến ngày mai. Sớm hôm sau tôi lại lên bến Hối để nghe ngóng. Vẫn chỉ thấy nhân dân Hà Nội đang tải cư lũ lượt trên đê. Họ kháo chuyện: - Nhật đánh Tây, chiếm hết Hà Nội rồi!- Tây yếu lắm, có chống cự gì đâu. Toàn là súng Nhật cả đấy! Tôi gặp một số người, hỏi chuyện và đi tới xác định được Nhật đánh Pháp, Pháp thua phải đầu hàng, binh lính chúng tan rã cả. Tôi lại vội vàng theo đê trở xuôi về vùng dưới đi tìm anh Thiệp, cũng là cán bộ đi công tác như tôi và hy vọng sẽ gặp các đồng chí Trung ương để được biết rõ tình hình và chủ trương kịp thời để giải thích cho quần chúng. Tôi tất tưởi đi... Xung quanh tôi vẫn lác đác có người Hà Nội hốt hoảng đi về. Bỗng một tiếng nói từ dưới cánh đồng vọng lên: - Đấy đấy! Một tay nữa! Đẹp ghê!Tiếng đẹp ghê kéo dài ra tỏ rõ ý châm biếm. Tôi giật mình tự hỏi: có phải họ nói mình không. Nhưng để bảo đảm an toàn thì cứ phải cẩn thậnn kéo nghiêng nón che mặt. Tôi còn để ý kiểm tra lại cách ăn mặc và cử chỉ của mình. Chẳng lẽ họ phát hiện ra mình là cán bộ Việt Minh hay sao? Chẳng lẽ vùng này đang có vụ bắt bớ, lùng sục cán bộ ta? Nếu thật vậy, sao dân lại nói giọng châm biếm?... Tôi đang lo lắng thì có tiếng nói thêm:- Từ sáng đến giờ khối ra rồi đấy! Cháy nhà ra mặt chuột mọi ngày thì quần áo nhà binh coi đến hách dịch: thế mà hôm nay lại phải đội lốt bà con nhà quê mình đấy! Tôi thở phào nhẹ nhõm, thì ra họ nói về đám lính khố đỏ tan rã, cải trang chạy trốn. Tôi trấn tĩnh lại và đàng hoàng bỏ nón ra bước đi một cách tự tin, mạnh dạn và nhìn vào những người đang tản cư hằng cặp một dò xét để tỏ rõ mình cũng là người đang quan sát bọn lính đào ngũ đây. Thái độ của tôi có hiệu quả nhanh chóng. Một vài tiếng xì xào: Không phải! Tay này không phải. Cánh kia họ đi từng tốp kia mà!. Tôi mỉm cười, thầm nghĩ: dân chúng lúc này giá trị thật! Có khi Tây cũng phải mặc quần áo giả dân để tìm đường chạy trốn. Tôi tự giục mình: Đi tìm các anh mau lên để sơm được biết rõ tình hình. Đế Quốc Pháp và bè lũ tay sai đang tan rã, nhất định cách mạng đang ở trong tình thế mới.Nhớ cách đây hai năm, tôi biết trong một nghị quyết của Ban thường vụ Trung ương Đảng đã có đoạn nói về Nhật Pháp xung đột và phân tích những mâu thuẫn giữa Nhật và Pháp rất có lợi cho cách mạng Đông Dương. Quả nhiên đến nay Nhìật đã đảo chính Pháp. Tình thế có nhiều thuận lợi cho cách mạng. Nhưng bây giờ nên làm gì, hành động như thế nào, đã nên tổ chức lực lượng phát động quần chúng khởi nghĩa chưa? Tôi càng mong chúng, được biết ý kiến của các đồng chí cấp trên. Một sự mong mỏi vừa tha thiết vừa nôn nóng. Nó không khác gì hồi còn bé mỗi lần gặp phải khó khăn gì tôi lại mong gặp mẹ hoặc chị để được nghe những lời ân cần chỉ bảo. Mấy hôm sau, tôi được gặp anh Trường Chinh, m ừng quá suýt nữa tôi reo lên. Tôi im lặng nghe anh phổ biến chỉ thị của Ban thường vụ Trung ương Đảng nói về Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta. Nghe anh nói câu nào cũng giải đáp đúng thắc mắc của mình, tôi sung sướng, thỉnh thoảng lại ngồi xích gần anh thêm một chút. Anh phân tích tỉ mỉ nhưng tôi chỉ nhớ rõ mấy điểm như sau:- Tình hình như vậy, ta khởi nghĩa được chưa! Anh đặt câu hỏi rồi giải đáp luôn:- Trung ương nhận định như thế này: Mặc dầu tình hình chính trị khủng hoảng sâu sắc, nhưng điều kiện khởi nghĩa ở Đông Duơng hiện nay chưa thực chín muồi... Bọn thống trị Nhật Pháp có sự chia rẽ sâu sắc. Tuy hàng ngũ bọn Pháp ở Đông Dương hoang mang tan rã, nhưng xét riêng bọn thống trị Nhật, ta thấy chúng chưa chia rẽ, hoang mang, do dự đến cực điểm. Các tầng lớp nhân dân đứng giữa tất nhiên phải qua suốt thời kỳ chán ngán những kết quả tai hại của cuộc đảo chính, lúc ấy mới ngả hẳn về phe cách mạng, mới quyết tâm giúp đỡ đội tiền phong. - Trừ những nơi có địa hình, địa thế, có bộ đội chiến đấu không kể, nói chung toàn quốc, đội tiên phong còn đang lúng túng ở chỗ sửa soạn khởi nghĩa, chưa sẵn sàng chiến đấu... [4] Tôi lắng nghe như nuốt từng lời từng ý: Tình thế chưa chín muồi để tổng khởi nghĩa nhưng tình thế cho phép và nhất định đã đến lúc phải thay đổi phương thức hoạt động để đẩy phong trào tới chỗ chín muồi. Phương thức cũ không còn thích hợp. Thời kỳ tiền khởi nghĩa phải có phương thức hoạt động mạnh dạn hơn, sôi nổi hơn. Ví dụ: ruít tinh biểu tình, cảnh cáo, tiểu trừ những tên phản động gian ác, diễn thuyết và treo cờ. Anh Trường Chinh nhấn mạnh nhiều lần câu: Phải thay đổi mọi hình thức hoạt động và đấu tranh cho hợp với thời kỳ tiền khởi nghĩa. Anh nói thêm: Phải tổ chức cổ động, tuyên truyền, động viên quần chúng nhân dân mau chóng tiến lên mặt trận cách mạng, tập dượt cho quần chúng mạnh dạn tiến lên tổng khởi nghĩa. Phát động cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ, làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa. Cuối cùng anh phân tích: khi nào thì tổng khởi nghĩa bùng nổ và thắng lợi... Những từ tổng khởi nghĩa... bùng nổ và thắng lợi cứ quấn quýt lấy tôi từ đấy. Tôi mỉm cười sung sướng, đổi tư thế ngồi và cựa quậy luôn, còn anh Trường Chinh lúc nào cũng bình tĩnh và thận trọng. Anh bảo: Như vậy, từ nay đội công tác được phép hoạt động với những hình thức cao hơn, chứ không phải tuyệt đối bí mật như trước. Từ trước, vì cần an toàn cho ATK, chúng tôi không được hoạt động những hình thức rầm rộ như rải truyền đơn, treo băng cờ và mít tinh v. v... mà chỉ lần mò gây cơ sở bí mật. Khi nghe anh nói: Thay đổi phương thức tôi đã ngứa ngáy muốn hỏi nay lại được anh chính thức nêu ra, tôi thấy rạo rực phấn khởi và nóng ruột muốn làm ngay. Hàng loạt những dự kiến hoạt động mới lần lượt diễn ra trong óc tôi. Nào là mít tinh ở nơi này, nơi nọ để vận động quần chúng, nào là sẽ cảnh cáo mấy tên địa chủ cường hào phản động trước làm tay sai cho đế quốc Pháp nay lại theo phát xít Nhật hại đồng bào, và có thể phải xử một tên tay sai nguy hiểm của Nhật đã gây trở ngại cho phong trào. Những quán chợ Cổ Loa sẽ là những nơi treo cờ, dán biểu ngữ rất tuyệt. Và nhất là cây gạo Ba đê chỗ ngã ba đường ấy, nơi bấy nay những người hoạt động cách mạng chúng tôi thường hẹn hò gặp gỡ nhau, nay sẽ là nơi để các biểu ngữ cách mạng hẹn hò với mọi người, với nhân dần những điều trọng đại nhất, thiết thực nhất. Chà, được treo một lá cờ cách mạng trên ngọn cây gạo Ba đê hiên ngang cao ngất ấy thì còn gì sung sướng bằng. Tôi cảm thấy phải hoạt động như thế mới hết được cái sức của đội công tác, mới đáp ứng được lòng mong mỏi của nhân dân, mới làm phong trào bùng lên nhanh chóg. Đã bao lần ở những chỗ đông người, nhân dân ngang nhiên bàn tán về Việt minh mà chúng tôi cứ phải lờ đi: đã bao lần các tổ chức Cứu quốc yêu nước cần mít tinh yêu cầu chúng tôi cảnh cáo Việt gian, yêu cầu chúng tôi họp quần chúng cảm tình, nói chuyện... Phen này thì... phải làm hết, làm đầy đủ những yêu cầu đó. Có lẽ anh Trường Chinh đoán được ý nghĩ của tôi, anh căn dặn với thái độ ân cần mà vẫn nghiêm nghị: - Phát xít Nhật và cộng sản cũng không đội trời chung, nên dù hoạt động bằng phương pháp nào cũng cần phải thận trọng, cảnh giác. IlĐội công tác gồm những đồng chí được lựa chọn về hoạt động ở ATK, nơi cơ quan trung ương làm việc. Những đồng chí ở đội công tác vừa đã trải qua thử thách, vừa có khả năng công tác quần chúng, vừa làm được mọi công tác sự vụ giúp việc cho Trung ương, bảo đảm bí mật và an toàn cho cơ quan đầu não. Nhiệm vụ đội công tác là phải tổ chức gây cơ sở quần chúng, giác ngộ quần chúng để quần chúng giúp đỡ che dấu cho cán bộ từ các nơi về Trung ương làm việc, tránh không để địch phát hiện, lùng sục. Từ khi được nghe anh Trường Chinh phân tích tình hình, giao nhiệm vụ, các đồng chí trong đội công tác đều phấn khởi. Ngoài nhiệm vụ như cũ đội còn làm mọi việc chuẩn bị tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Sau khi bàn bạc kỹ càng, chúng tôi nhất trí tổ chức ngay một cuột mít tinh lớn để tuyên truyền rộng rãi đường lối chính sách của Đảng, tập dượt đấu tranh cho quần chúng, đưa khí thế chiến đấu của quần chúng tiến lên kịp với tình thế của cách mạng. Chúng tôi tỏa về các cơ sở khai hội với các hội cứu quốc, giao nhiệm vụ tuyên truyền vận động đi mít tinh trong các tầng lớp quần chúng cảm tình với cách mạng, với Việt Minh, vận động cả những người đã có nghe tiếng Việt Minh nhưng lừng khừng không phản đối, cả những người muốn theo Việt minh nhưng còn rụt rè, do dự và cả những người tò mò muôn đi xem lực lượng Việt minh ra sao. Đây là dịp rất tốt để nhân dân trực tiếp thấy được Việt minh, nghe được tiếng nói của Việt minh và cũng chính là lúc nhân dân tự thấy được sức mạnh của mình. Do đó mà thấy ra sức mạnh của cách mạng. Chúng tôi đặt nhiều hy vọng vào dịp này lắm. Được tin có mít tinh, quần chúng phấn khởi và nóng lòng mong muốn được đi lắm. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn phải giữ bí mật không cho bọn chính quyền tay sai của phát xít Nhật biết, đề phòng chúng đàn áp khủng bố. Một buổi tối cuối xuân, trời lạnh, không trăng sao, mây đến dày đặc. Tiếng dế ri rỉ đơn điệu, ếch nhái, ễnh ương kêu oàm oạp. Mọi vật như chìm đắm trong đêm. Thỉnh thoảng đàng đông lại có một tia chớp giật sáng lòe, loằng ngoằng như báo tin sắp có giông tố. Tại một bãi tha ma đầu làng Xuân Trạch, saulàng Dâu mấy thanh niên tự vệ và tôi trồng một cây tre cao vút làm cột cờ. Trồng xong, tôi hướng về các ngả đường quay tít chiếc đèn pin bọc giấy bóng xong làm tín hiệu cho mọi người biết mà đi tới. Những người đi dự mít tinh đều dùng mật khẩu. Hỏi: Ai, đi đâu.Đáp: Tôi đi lấy thuốc cho cháu. - Cháu làm sao?- Cháu đau bụng.Hôm ấy có một chị đang đi, bỗng có tiếng hỏi dõng dạc: - Ai, đi đâu!.- Tôi đi lấy thuốc cho cháu.Để tăng thêm vẻ hách dịch, người hỏi quát to hơn. - Lấy thuốc gì mà đi khuya thế này? Người phụ nữ lập tức quát trở lại: - Anh là tuần làng nào, hả?Anh tuần đinh đột nhiên luống cuống xun xoe:- Cháu... cháu tuần làng Dâu ạ. Ngay sau đó, bốn năm người vừa cụ già, vừa thanh niên, ập đến vây quanh anh tuần. Anh ta sợ hãi, run bần bật. Có lẽ anh ta không kịp đoán đó là hào lý hay Việt Minh gì cả. Như cái máy, anh ta dựa cái gậy vào vai, đứng lom khom, hai tay chắp lại, miệng lắp bắp: - Xin các cụ, các ông, cháu chót dại... Có tiếng nói như ra lệnh:- Dẫn anh này về địa điểm. Đi! Anh tuần van lạy:- Xin... xin các cụ, các ông tha cho... Người phụ nữ bị anh tuần quát lúc đầu, bây giờ mới dịu dàng, chững chạc: - Thôi đi theo chúng tôi, mau lên! Không việc gì mà sợ! Anh tuần lẩy bẩy đi về phía ánh sáng xanh. Anh run đến nỗi hai hàm răng va vào nhau lập cập. Tớí bãi tha ma, anh tuần giật mình đứng sững lại. Trước mặt anh ta, có tới dăm trăm con người đứng quây thành vòng tròn quanh mô đất lớn. Chính giữa có một cột cờ cao vút cờ đỏ sao vàng bay phấp phới lung linh trong ánh sáng của các bó đuốpc lớn. Hai thanh niên tự vệ quần nâu áo nâu, nai nịt gọn gàng, vác hai khẩu súng trường đứng nghiêm trang. Anh tuần đinh ngồi ủ rũ dưới chân mô đất, mặt cúi gầm, thỉnh thoảng ngước lên nhìn trộm mọi người, lộ vẻ lo sợ và bỡ ngỡ, hoang mang. Trong số đồng bào đi dự mít tinh thỉnh thoảng vọng ra tiếng nói ríu rít của các em thiếu niên, tiếng cười khúc khích của các cô gái và giọng khàn khàn của các cụ già. Nhưng số đông hơn cả là thanh niên. Người nào cũng mang giáo, mác, đinh ba... giơ lên trời tua tủa. Chúng tôi phân công anh em thanh niên canh gác các ngả đường hết sức cẩn mật. Nhưng đến khi chúng tôi bắt đầu nói chuyện, họ đều kéo về nghe, quên cả nhiệm vụ. Anh Thiệp đứng lên mô đất nói giọng tha thiết: - Hỡi đồng bào yêu nước.... Mọi người im phắc gần như nín thở. Anh rất xúc động, nhắc lại từng lời đoạn văn của anh Trường Chinh: Quê hương ta xơ xác, đất nước ta điên tàn.... Đang mít tinh thì trời đổ mưa như trút nước. Hàng trăm con người đứng sát vào nhau thành một khối trơ trơ trước cơn bão nước. Sấm sét vang trời, đất trời như đang cơn trở dạ. Tiếp theo anh Thiệp là tôi, tôi phải hét lên át mưa, át tiếng sấm chớp. Mai kia chúng ta bước vào cuộc chiến đấu quyết liệt. Chúng ta càng phải xiết chặt hàng ngũ vượt qua làn mưa đạn... Cuối cùng tôi hô bà con không nộp thóc cho quân phát xít Nhật, không trồng đay cho phát xít Nhật. Lợi dụng trời vẫn mưa nặng hạt, tôi rút súng lục bắn lên trời một phát để động viên khí thế và cũng để thị uy, áp đảo bọn tay sai, nếu chúng lén tới rình mò. Tiếng súng nổ giòn, tinh thần quần chúng càng bốc cao. Mưa gió cũng trở thành vô nghĩa. Anh em thanh niên hát vang: Cờ Việt. Minh phất phới bay cao!... Sáng hôm sau, khắp vùng Đông Anh, dân làng bàn tán: Hôm qua Việt Minh về ở cánh đồng làng Xuân Trạch đông lắm, đến bảy tám ngàn người. Họ thổi cơm ăn, hát bài cách mạng, rồi bắt súng lệnh, kéo quân biến đi đâu mất trong đêm. Bên làng Dâu thỉnh thoảng có người đến hỏi thăm anh tuần đinh bị Việt Minh giữ ở cánh đồng. Anh Tuần kể lại ghê gớm hơn lời đồn đại nhiều. Một viên lý trưởng tỏ vẻ thức thời giọng xu nịnh: - Giỏi lắm! Việt Minh người ta giỏi! Lão vừa nói vừa nháy mắt - ấy! Nhưng phải kín mồm kín miệng không chết cả lũ bây giờ! Sau cuộc mít tinh phong trào được đẩy lên rất mau. Trước đây đi Bắt rể xâu chuỗi có khi hàng mấy tháng trời, hàng năm mới tuyên truyền tổ chức được một vài người. Các cuộc họp quần chúng để nói chuyện tình hình, tuyên truyền chú trương, đường lối của Đảng, đông lắm cũng chỉ được mươi mười lăm người mà phải hết sức bí mật. Nay có hàng trăm người nghe nói chuyện một lúc gây ấn tượng sâu sắc với cách mạng. Quần chúng nông dân khi thấy lực lượng cách mạng không còn là những tổ chức lẻ tẻ năm ba người mà là hàng trăm hàng ngàn người đoàn kết lại để đấu tranh. Cả giai cấp, cả dân tộc đâu đâu cũng như thế thì họ tin cách mạng rất mạnh, nhất định sẽ đánh đuổi được phát xít Nhật. Hồi này, nhân lúc bọn Nhật chưa ổn định được bộ máy thống trị của chúng, ở các cơ sở nhiều nơi đã nổi lên phong trào phá kho thóc. Có nơi do chi bộ địa phương chủ trương và lãnh đạo, nhưng cũng có nơi quần chúng tự phát. Việc phá kho thóc vừa giải quyết ngay được một yêu cầu cấp thiết là cứu đói vừa là thúc đẩy sự tan rã của chính quyền tay sai và càng nâng cao thanh thế của Việt minh. ở vùng chúng tôi phụ trách cũng vậy. Một hôm khoảng gần chiều, đột nhiên trống ngũ liên thúc ầm ầm. Rồi tiếng gọi nhau í ới:- Bà con ơi! Ra đình mà lấy thóc! Việt Minh về phá kho thóc của Nhật chia cho dân nghèo.Đang cơn đói khổ, được tin chia thóc, người nào cũng sướng như được trời cho của xách thúng, sách bị, quẩy quang gánh lao ra đình. Phút chốc cửa kho bị phá tung, nhân dân lần lượt vào xúc thóc theo sự chỉ định của một anh đứng bên ngoài kho. Trong kho còn một ông mặc áo the, đội khăn xếp luôn miệng nói: Chống sưu cao thuế nặng. phải lật đổ bọn thống trị.... Mọi người nhìn kỹ ra đó là người cùng làng. Chính là một cán bộ địa phương của ta. Dân làng kể lại rằng: ông mặc áo the ấy đã điềm nhiên đi vào đình nổi trống ngũ liên, hô hào phá kho thóc. ở ngoài những thanh niên, nông dân khác - đã được tổ chức đi theo đồng chí đó - liền hò la hưởng ứng. Bọn hào lý tưởng là Việt Minh ở đâu về, lực lượng lớn, chúng vội lẩn tránh thật kỹ không dám lộ mặt. Và sau đấy, chúng vẫn cứ tưởng hôm ấy Việt minh từ nơi xa tới làm chuyện đó thật.. Nhưng dần dần bọn phát xít Nhật cũng ổn định được bọn chính quyền tay sai. Chúng lại tiếp tục đàn áp, chống phá phong trào cách mạng. Hồi này cơ quan in báo Cờ giải phóng của Đảng đặt ở làng Vân Nội. Một hôm do có mâu thuẫn giữa bọn cường hào với nhau về một việc gì đó, chúng đi lùng sục nhau. Một tên đâm bổ ngay vào cơ quan in của ta. Đồng chí Tuấn đang làm việc tưởng là chúng đến bắt, bèn nổ súng tự vệ. Thế là tình hình trở nên náo động! Bọn hương lý tay sai dẫn lính Nhật về bao vây canh gác kín làng. Việc này cũng đã khiến cho anh Trường Chinh và những đồng chí trong đội công tác như anh Cư, chị Sáu phải một phen vất vả. Anh Cư đi xe đạp giả làm ông giáo về làng để xem xét tình hình đã bị bọn Nhật đuổi bắt. Đến một đoạn đường anh phải vất xe đạp, dẫm gãy nan hoa để chúng khỏi lấy xe đuổi theo, rồi chạy tót xuống cánh đồng ngô. Lần khác, chập choạng tối, anh vận giả đàn bà về gần được đến nơi nhưng nếu không nhanh mắt, nhanh chân thì chỉ một chút nữa, là sa lưới. Về sau nhờ sự tận tình giúp đỡ của một số anh chị em trong các hội cứu quốc làng bên mượn cớ vào làng Vân Nội mua thóc, mới chuyển được hết tài liệu của cơ quan in báo. Nhắc đến việc này, tôi không thể quên được chuyện đòn vạ mà tôi đã phải htng lấy.Cùng buổi tối hôm chuyển tài liệu ấy, tôi đeo khẩu súng lục cối xay Xanh tê-chiên đi theo anh chị em để chỉ huy và bảo vệ. Trước đây tôi hay đội nón chóp, giả làm hương lý để che mắt tuần đinh mỗi khi qua các điểm canh. Nếu gặp tay nào ra hỏi, tôi thường lấy giọng bề trên hoạch hoẹ, nên mọi việc điều trôi chảy cả. Đêm ấy cũng đi qua một điểm canh, nghe có tiếng nói rì rầm tôi vẫn ung dung bước. Bỗng có tiếng hỏi: - Ai? đi đâu? Ra vẻ hương lý, tôi e hèm thật to, không thèm trả lời. Có tiếng hỏi theo. Tôi có bốc cái máu kẻ cả lên, quát to- Tuần làng nào đấy? Lão đây. Cánh tuần đinh chửi luôn:- A! Tổ cha thằng nào gớm thật! Cứ đánh bỏ mẹ nó đi xem nó là lão gì nào!Tôi hơi chột dạ và hối hận mình đã lỡ lời. Nhưng không lui được nữa, đồng thời cũng ỷ lại vào khẩu súng giắt trong người, tôi quát to hơn: - Đừng có láo! Chúng bay không biết lão à?Thế là tôi bị luôn hai ba nhát gậy phang vào người - Này láo n y! Này láo này! Mày không biết bố con ông ở đây à?Tôi thấy nguy quá và cân nhắc mãi, thấy phải dùng đến súng dọa để tự giải thoát mới được. Tôi rút súng giơ lên trời bắn. Tôi không định bắn họ mà chỉ để thị uy rồi tuyên truyền thuyết phục họ. Nhưng khốn nỗi, súng không nổ. Bóp hai ba phát liền chỉ nghe tiếng cạch cạch cạch. Trong đêm tối, tôi sờ cối xay thấy đủ đạn lại tiếp tục bắn. Nhưng súng vẫn tịt. Tôi vội giắt súng vào bụng, nghĩ đối phó cách khác. Có thể cánh tuần đinh này tự ái với lời nói ngang của tôi, cũng có thể là để tỏ vẻ ta đây canh phòng cẩn mật để bọn hương lý biết, cũng có thể mượn sự nhá nhem tối, lợi dụng chức trách để choảng bọn hương lý tay sai một trận. Nếu là trường hợp sau cùng thì có bị đòn đau tôi cũng khoái. Nhưng dù sao tôi cũng phải đấu dịu:- Anh em đấy à? Thế mà tôi không hay! Canh phòng cẩn mật thế tốt lắm! Cánh tuần đinh được nước, chửi thêm: - Tổ bố mày, mày lại láo với chúng ông à? Chúng ông thì gô cổ mày lại... May sao tốp đi đong thóc vừa tới. Biết chuyện, mấy chị xô đến vừa cười cợt vừa khẩn khoản: - Thôi làm gì mà bắt hớ nhau thế này, trời tối người ta đi qua không nhìn thấy gì nhỡ mồm một tí, đánh thế chưa đủ à? Gớm! ông Trương ơi, ông làm gì mà bắt người làng tôi đấy! Lại cái anh hai phải gió này. Một chị dúi tay khẽ vào người tôi - đã đi qua cửa các ông lại còn ăn nói bậy bạ, trêu gan các ông ấy làm gì! Thế là hôm ấy các quần chúng tốt của Đảng đã gỡ thoát cho tôi. Sau đó tôi phải uống nước cua sống và bóp lá bưởi nóng mấy ngày liền mới đỡ đau. ấy thế nhưng vẫn còn là may vì tôi nghĩ lại, nếu lúc ấy súng mà nổ thì còn lôi thôi to. Việc này tôi còn dấu anh Truờng Chinh đến bây giờ. Có lẽ anh đọc mấy dòng này mới biết rằng lúc nguy hiểm đó lại còn có cái chuyện dại dột quá chừng ấy của tôi. IIIHồi ấy Cổ Loa không những là nơi có một số cơ quan Trung ương đóng mà còn là cửa ngõ từ ATK đi chiến khu, nên thường xuyên có cán bộ qua lại. Nhưng cũng ở đây, chúng tôi gặp một trở ngại không nhỏ: tên lý Khanh đứng ra tổ chức thanh niên thân Nhật, thường dẫn Nhật về địa phương đe dọa nguy hiểm, khủng bố những người có quan hệ cách mạng. Đã có lần hắn tổ chức bắt hụt anh Nguyễn Lương Bằng, anh Văn Tiến Dũng và một số anh khác chúng tôi nhiều lần viết thư can ngăn và cắnh cáo hắn. Nhưng chứng nào vẫn tật ấy càng ngày hắn càng hung hăng. Để mãi vậy thì rất nguy hiểm không những cho phong trào địa phương đang lúc lên mà còn ảnh hưởng đến các vùng lân cậu, tới sự chỉ đạo trước mắt, thậm chí còn ảnh hưởng tới cả công việc chuẩn bị tổng khởi nghĩa sắp tới. Chúng tôi tổ chức một số thanh niện cứu quốc của ta lẩn vào hoạt động trong bọn thanh niên thân Nhật do tên lý trưởng kia phụ trách. Số thanh niên của ta có nhiệm vụ làm nòng cốt lãnh đạo và tuyên truyền cách mạng trong đám. Thế là tổ chức thanh niên thân Nhật bề ngoài có vẻ hoạt động sôi nổi nhưng thật chất bên trong là lực lượng thanh niên chiến đấu của ta, sẵn sàng hành động theo chỉ thị của Việt minh. Lý Khanh không hay biết gì, nên vẫn chống phá cách mạng ngày càng trắng trợn hơn. Hắn 1ùng bắt thanh niên đi lính cho Nhật. Có anh bị hắn bắt nhốt trong nhà. Các đồng chí ở địa phương phải vận động quần chúng kéo đến nhà hắn đấu tranh, nhưng hắ lì không nghe. Có một anh cùng làng bị hắn nghi là Việt minh và lùng bắt ráo riết. Ngày ngày hắn đi từng nhà đốc thúc thu thầu dầu và thóc cho giặt Nhật và đòi dân đút lót. Quần chúng rất uất ức. Các đoàn thể cứu quốc ở đây đã nhiều lần đề nghị cho xử tên lý Khanh. Chúng tôi báo cáo lên và xin ý kiến của Trung ương. Trung ương cân nhắc rất kỹ, cho kiểm tra chu đáo rồi mới đồng ý cho chúng tội xử hắn. Chúng tôi phân công anh Thiệp bố trí thanh niên cứu quốc cải trang canh gác các ngã đường, sẵn sàng ngăn chặn bọn Nhật ở nơi khác về ứng cứu. Anh Hoàng Tùng và anh Cư làm nhiệm vụ trực tiếp trừng trị tên Khanh. Trước khi vào việc, chúng tôi bàn nhau phải thử súng. Hồi đó trình độ hiểu biết của chúng tôi về vũ khí còn rất kém cỏi. Chúng tôi cứ tưởng rằng cứ chĩa súng bắn vào nước thì tiếng đạn sẽ nhỏ, nên anh Hoàng Tùng ngồi trên cầu ao chĩa súng xuống bắn một phát. Tất nhiên tiếng nổ vẫn cứ to như thường. Chúng tôi lo quá! Nhưng cũng may là cái ao đó ở nơi vắng vẻ nên không xảy ra chuyện gì đáng tiếc. Hôm sau là phiên chợ Cổ Loa. Giữa lúc mọi ngươi đi lại mua bán rất đông, tên lý Khanh tụ tập thanh niên thân Nhật làm lễ tế cờ ba gạch - cờ của chính quyền tay sai ngày đó. Một số thanh niên cứu quốc, anh Hoàng Tùng và anh Cư đến đó trước. Tên lý Khanh vừa tới, lập tức hai thanh niên khoẻ mạnh khóa luôn hai tay hắn lại. Anh Hoàng Tùng và anh Cư chĩa luôn hai nòng súng lục vào ngực hắn. Lý Khanh bàng hoàng ngơ ngác, mặt không còn hột máu, miệng ú ớ chưa kịp kêu thì tiếng súng lục đã nổ giòn, kết liễu cuộc đời buôn dân bán nước của hắn. Các thanh niên của ta chạy tóc ra hô hoán:Việt minh xử lý Khanh rồi!- Đội danh dự Hà Nội về xử Việt gian! Tiếng sú ng nổ, tiếng hò la vang khắp nơi. Đồng bào đi chợ chạy ngược chạy xuôi nhốn nháo. Chúng tôi trà trộn ngay vào đồng bào, trở về cơ sở. Tin đồn đội danh dự Hà Nội về xử tử Việt gian loang đi rất nhanh. Ai nấy đều cảm thấy nhẹ nhõm phấn khởi. Họ bàn tán công khai và tỏ vẻ tự hào, thích thú như chính tay mình vừa được trực tiếp khử tên chó săn ấy. Sở dĩ chúng tôi tung tin đội danh dự Hà Nội về là để làm lạc hướng theo dõi của bọn mật thám tay sai Nhật, bảo đảm cho Cổ Loa và an toàn khu khỏi bị khủng bố. Trấn áp được bọn phản cách mạng, phong trào quần chúng ngày càng phát triển. hơn. Những tên phản động khác rút vầo hoạt động ngầm, hoặc cũng phải dè chừng đôi chút. Để tiếp tục tấn công kẻ thù, đội công tác thấy cần phải cảnh cáo tên lý trưởng làng Xuân Trạch. Hắn cũng chống đối cách mạng, nhưng ở mức độ thấp hơn lý Khanh. Phải đe hắn, và tiến tới thuyết phục hắn. Tuy không hy vọng hắn theo ta nhưng ít nhất cũng làm cho hắn phải làm ngơ trước những hoạt động của ta. Sau khi chuẩn bị kế hoạch chu đáo, anh Thiệp và tôi nhận nhiệm vụ đến gặp hắn. Chúng tôi mượn được hai chiếc xe đạp cọc cạch, phụ tùng xăm lốp mọi cái đều rão, rách, vá lung tung. Ngồi trên xe mà cứ rung rung như đi qua cầu treo. Tôi nghĩ lúc rút lui mà cả hai xe đều bẹp lốp phải dắt lếch thếch thì gay go. ấy thế, nhưng hồi đó có xe để đi là ghê lắm rồi! Ai mà đuổi kịp. Đến Xuân Trạch, sau khi bố trí cho các anh thanh niên địa phương Ng... Th... V... N... canh gác xong anh Thiệp cùng tôi đến nhà lý trưởng. Gặp một người đứng ở cổng, tôi nói:- Tôi muốn gặp ông lý.. Dáng chừng thấy chúng tôi bận quần trắng, áo the, đội nón chóp ra vẻ chức dịch, người kia dẫn chúng tôi vào ngay, không hỏi vặn vẹo gì. Tên lý trưởng đang nằm hút thuốc phiện, thấy chúng tôi hắn gật đầu, rồi lên tiếng gọi người hầu pha nước tiếp khách. Chúng tôi ngồi đàng hoàng trên ghế tràng kỷ, im lặng nhìn chằm chằm vào mặt hắn để dò xét thái độ và đánh đòn tâm lý. Sau khi người nhà hắn đã đi ra cả, anh Thiệp nói: Chúng tôi là cán bộ của Việt Minh đến nói chuyện với ông. Sắc mặt hắn hơi biến đổi, nhưng hắn vẫn tỏ vẻ cứng cỏi:- Vâng, có gì ông cứ nói. Anh Thiệp bảo luôn cho hắn biết là phát xít Nhật rồi cũng chung số phận như bọn Pháp trước đây và khuyên hắn không được làm tay sai cho Nhật, không được chống phá phong trào cách mạng.Hắn ngồi xoay người lại, mặt câng câng: - Các ông dạy thế thì biết thế, chứ tôi cứ ăn ở phải phép thì thôi chứ.Tôi trừng mắt, bẳn giọng:- Phải phép là phải phép với ai? Nếu ông ăn ở phải phép với phát xít Nhật... Tôi nhô người ra, chau mày: - thì ông noi gương lý trưởng làng Cổ Loa đấy. Chúng tôi không dọa suông đâu và có đủ điều kiện để thực hiện. Tên lý trưởng mặt tái xanh hơn, ngồi quay đi giọng lửng lơ:- Vâng, việc đó thì...Tôi vòng tay ra bên sườn rút súng lục ra, đặt trước mặt hắn, tay vẫn giữ báng súng, hỏi vặn:- Thì sao? Tôi im lặng và có cảm giác nét mặt mình rất nghiêm khắc, cứng rắn. Tên lý trưởng cũng im lặng nhưng thất sắc dần, rồi lờ đờ như kẻ mất hồn, không khí căng thẳng nặng nề. Anh Thiệp nói thêm:- Chúng tôi đến đây còn muốn để ông suy nghĩ. Chúng tôi không thích đổ máu. Thế nhưng khi đã cần... - anh hất hàm - thì ông biết đấy chúng tôi không do dự. Mỗi lúc, lời nói của chúng tôi càng có hiệu lực mạnh mẽ. Tay tên lý trưởng đang cầm chén nước run lên bần bật không đưa nổi lên miệng, mặt hắn xám ngoét, hắn khúm núm lắp bắp:- Dạ! Vâng ạ! Các ông dạy sao con xin làm vậy. Tôi hạ giọng bảo hắn:- Tình thế ngày càng rõ ràng, vận nước sắp đến! Lúc này đã là người Việt Nam thì phải hiệp lực nhau lại đánh đuổi phát xít Nhật, giải phóng giống nòi. Nếu kẻ nào không chịu cải tà quy chính tiếp tục làm tay sai cho quân cướp nước thì nhất định sẽ bị nhân dân trừng trị. Tên lý trưởng cúi đầu im lặng. Người hắn run run. Trở ra chúng tôi dắt xe đạp đi rất đàng hoàng và bình tĩnh. Thấy chúng tôi làm việc có kết quả anh em thanh niên địa phương đứng gác bên ngoài sướng lắm, yểm hộ cho chúng tôi rút đi thật xa. Từ đó, uy thế Việt Minh vùng này càng lớn, phong trào cách mạng của quần chúng càng lên cao.Sau đó, chúng tôi tiếp tục đột nhập một số nhà hào lý khác tuyên truyền thuyết phục hay cảnh cáo. Do đó chúng tôi đã tranh thủ hoặc cô lập được khá nhiều tay.ở làng C.T có một viên phó lý âm mưu tập hợp thanh niên rèn dao đánh kiếm, thành lập lực lượng võ trang riêng để gây vốn chính trị, chờ thời cơ. Y cũng đã nghe tiếng Việt minh nhưng vẫn chưa chịu bắt liên lạc. Y thường bảo: Dưới tay tôi có độ trăm mũi kiếm, Việt minh chắc gì hơn tôi! Sau vài lần tôi đưa sách báo và đi lại nói chuyện, thấy chuyển biến không được là bao, chúng tôi bất đắc dĩ phải đưa súng lục ra để cho y biết rõ ràng Việt Minh có lực lượng vũ trang và hơn hẳn lực lượng y có. Quả nhiên anh phó lý đó đã ngả hẳn về ta và còn bố trí cho tôi đóng bộ thật sang làm vai con cụ chánh tổng đi đến thuyết phục tiên chỉ trong làng là người bà con của anh ta.Giải quyết món hào lý tương đối ổn, chúng tôi tính đến chuyện các quan. Tên tri huyện sau khi bị chúng tôi cảnh cáo, hắn hoảng sợ trao quyền lại cho thừa phái, rồi bỏ về quê sống an phận. Ta tha tội chết cho hắn. Tình hình lúc này rát sôi nổi, tin tức về Việt minh, về các đội du kích ở chiến khu được đồng bào bàn tán công khai ở các phố, các chợ. Ai cũng tưởng tượng là cảnh Việt Minh có một đội quân to lớn đang tung hoành khắp các dãy núi ở Việt Bắc và sắp tiến quân về xuôi đánh tan giặc Nhật. Người ta tô vẽ nên nhiều chuyện thần kỳ. Và khi nói với nhau những chuyện như vậy người ta cũng không quên mô tả những thất bại của bọn Nhật thật thảm hại để thoả nỗi nất ức bấy lâu nay. Ai cũng mong đợi một sự kiện sẽ xảy ra vô cùng ác liệt gay go nhưng cũng hết sức tốt lành. Nhiều người náo nức đi tìm Việt Minh. Thanh niên nô nức xin đi chiến khu. Hai tiếng chiến khu lúc ấy đối với tuổi trẻ sao mà hấp dẫn đến thế! Nhiệm vụ chuẩn bị tổng khởi nghĩa đòi hỏi phải có lực lượng vũ trang. Các đội tự vệ chiến đấu được tổ chức rất nhanh chóng. Các đoàn viên thanh niên cứu quốc rất hăng hái và sẵn sàng chiến đấu. Vấn đề vũ khí lúc áy cũng có nhiều thuận lợi. Bên cạnh việc tìm kiếm súng ống đạn dược của Pháp bỏ lại trong lúc chúng bị hất cẳng, anh em còn tìm mua của những người lấy trộm trong các đồn Nhật. Thanh niên làng Xuân Trạch kiếm được một khẩu đại liên, nhiều làng khác sắm được súng trường, Tôi được các anh chỉ định phụ trách huấn luyện quân sự cho những đội tự vệ trong khu tôi và cả trong khu anh Thiệp. Vốn liếng quân sự học trong mười lăm ngày ở chiến khu năm trước giò đây được đem ra sử đụng rất tốt. Lúc ấy tôi huấn luyện chung theo phương pháp nào, chẳng có sách vở, cứ nhớ đâu dạy cái ấy thường là nghiêm... nghỉ - đi đều bước các tư thế bắn và cách bắn. Chỉ thế thôi. Thêm vào đấy là các cuộc nói chuyện về chiên thuật du kích. Những danh từ hóa chỉnh vi linh, hóa linh vi chỉnh, dương đông kích tây được nhắc nhiều lần, nghe ghê lắm. Mấy tay trí thức ở địa phương cứ đồn là tôi học ở tận trường Hoàng Phố bên Tàu về. Họ cho rằng cán bộ đã học quân sự là phải học trường Hoàng phố, mà học trường đó ra là ghê lắm!Đêm đêm dù có trăng hay trời tối, chúng tôi đều tập cả. Nhỡ phải đêm mưa thì kéo nhau vào một căn nhà hẻo lánh, dọn hết các thứ đốt đèn lên và tập. Có điều là những trường hợp như vậy, thì không dám hô to. Chỉ hô vừa nghe, nhưng nghe ra cũng đanh lắm, có đủ dự lệnh và động lệnh hẳn hoi. Trên khắp các bãi sông, trong các mảnh vườn xa làng xóm, đêm nào cũng rậm rịch tiếng chân tiếng cười nói lao xao của nam nữ thanh niên. Tất cả những thứ đó đã tạo nên một hơi thở rạo sức nơi thôn dã. Anh em trai gái đều rất nhiệt tình và hồn hậu ngày ấy, về sau đều có mặt trong đội giải phóng quân đầu tiên ở địa phương chúng tôi. Và cũng trong số thanh niên ấy đã có nhiều người trở thành cán bộ ưu tú của quân đội ta. IVĐầu tháng tám năm 1945 chúng tôi mở một lớp huấn luyện chính trị ở Chèm. Lớp học đang sôi nổi thì có tin Nhật đầu hàng đồng minh. Tôi vội vã trở về Đông Anh tìm các đồng chí trong đội công tác để bàn cách hành động trong tình hình mới.Qua sông Hồng, đang đi trên đê làng Chài tôi lấy làm lạ khi thấy một chiếc ô tô cắm lá cờ đỏ sao vàng, trên có người cầm loa dõng dạc kêu gọi đồng bào đi hộ đê. Có lẽ Hà Nội đã cướp chính quyền rồi chăng?Nghĩ vậy, tôi càng sải bước rõ nhanh đi tìm các đồng chí trong đội. May quá, anh Thiệp và cả chị Diệp (cùng trong đội) cũng đang đi ngược tìm tôi. Chúng tôi kéo nhau vào ngay làng Ruộng, cách đê sông Hồng vài chục thước để họp. Trong những ngày giờ vô cùng khẩn trương ấy, các anh Trường Chinh, Lê Đức Thọ lại đi công tác cả. Đội của chúng tôi chỉ có ba người ở nhà anh Thiệp, chị Diệp và tôi. Chúng tôi rất lo lắng tuy hăng hái nhưng gặp việc lớn như thế, cả ba chúng tôi đều thận trọng. Song nếu cứ chờ các anh về mới hành động thì lại chậm trễ, mất thời cơ. Nghĩ vậy, chúng tôi cứ mang vấn đề vận động quần chúng khởi nghĩa ra bàn. Chúng tôi liền dựa vào nội dung chỉ thị Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta của ban thường vụ Trung ương để phân tích tình hình cụ thể ở địa phương chúng tôi phụ trách và xét tới các sự liên quan đến tình hình chung. Phát xít Nhật đã đầu hàng đồng minh, chính quyền tay sai đang hoang mang cực độ. Đó là một trong những điền kiện tốt để tổng khởi nghĩa. Nhưng bọn Nhật đóng ở huyện lỵ Đông Anh này qua tình hình chúng tôi nắm được, vẫn chưa cam phận, còn tỏ nhiều thái độ hung hăng ngạo ngược. Điều này buộc chúng tôi phải suy tính thật chín chắn. Chúng tôi còn tự đặt những câu hỏi khác để thảo luận: - Tổ chức biểu tình đi cướp chính quyền liệu đã được đông đảo quần chúng hưởng ứng chưa? Quần chúng đã thật quyết tâm chưa!- Lực lượng vũ trang có đủ sức đánh bại kẻ địch, nếu chúng ngoan cố chống lại không? Chúng tôi cũng tự kiểm điểm bản thân và đánh giá xem các cán bộ cơ sở sắp tham gia dẫn đầu cuộc biểu tình khởi nghĩa này đã kiên quyết dốc lòng hy sinh chưa? Đang họp bàn thì tiếng trống ngũ liên rùng rùng tù ngoài đê vọng vào. Tiếng người chạy rậm rịch... Có một bà nào đó kêu lên:- ối giời ôi! Làng nước ơi! Ra cứu đê, làng nước ơi! Một thanh niên cứu quốc của địa phương đang canh gác cho cuộc họp nghe vậy, vào gặp chúng tôi, thì thầm: - Mặc kệ! Nước to nữa cũng không vỡ đê được đâu. Mà dù có vỡ đê cũng cứ khởi nghĩa, các anh chị ạ. Lời nói của anh thanh niên này cũng là một khía cạnh biển hiện quyết tâm khởi nghĩa của quần chúng. Nhưng không thể bỏ mặc công việc chống lụt được. Chúng tôi ngừng cuộc họp và cùng nhau chạy lên đê xem xét tình hình cụ thể. Nước vẫn mỗi lúc một dâng cao. Bà con đổ ra đê mỗi lúc một đông. Chúng tôi liền mời các cụ già và một số thanh niên cốt cán đến trao đổi mấy vấn đề cần thiết rồi lại vội vã chạy về, tiếp tục cuộc họp. Sau khi phân tích kỹ lưỡng, chúng tôi quyết định vận động quần chúng gấp rút biểu tình khởi nghĩa cướp chính quyền ở khu vực chúng tôi phụ trách, đồng thời vẫn để một lực lượng tiếp tục việc hộ đê. Lúc này tôi phụ trách công tác đội trong an toàn khu của trung ương vùng ven sông Hồng thuộc Phú Yên, phương thức hoạt động là tuyệt đối an toàn, không rải truyền đơn, không mít tinh. Sau đấy, chúng tội nhận được lệnh tổng khởi nghĩa của Kỳ bộ Việt minh gởi xuống. Chúng tôi quyết định tổ chức một cuộc biểu tình võ trang thật lớn để cướp huyện và lập chính quyền nhân dân, chẳng cần bí mật gì nữa. Tôi ngang nhiên đạp xe đi khắp vùng khai hội cấp tốc của các ủy ban dân tộc giải phóng và các ủy ban chấp hành Việt minh. Xe tôi thường bị níu lại vì rất nhiều người muốn hỏi tin tức. Có những cụ già nháy mắt nhìn tôi hóm hỉnh: Cố lên cho lão nhờ cút ruợu. Uống rồi chết cũng hả. Những khẩu súng bấy lâu bị giam hãm trong những ống tre, mái bếp, nay được đưa ra lau chùi cẩn thận, những con dao mã tấu, những thanh gươm các kiểu được mang ra mài và bôi dầu sáng loáng.Nước sông vẫn mênh mông. Nhưng nhà cao nhất ở các làng ngoài bãi đã bị ngập tới mái, sóng đã tràn lên mặt đê. Có tin đồn đê ở Vĩnh Yên bị vỡ rồi. Một vài nhà trong đồng đã chạy thóc gạo và làm lều trên đê. Trâu bò dồn lên kín mặt đê, mỗi quãng lại có người coi trâu nấu cơm, khói bay nghi ngút. Mọi người lo lắng cuống cuồng, trâu bò cũng lầm lỳ buồn bã.. Trời vẫn xam xám nằng nặng, gió cứ vi vu đều đều. Sóng từng lớp rào rào, dữ dội. Không khí khởi nghĩa cũng tràn ngập khắp mọi nơi, sôi nổi không kém. Tôi đặt làng Ruộng làm tổng hành dinh. Sau khi đã họp với anh Thiệp chị Diệp và phân công rõ rệt, tôi sẽ làm tổng chỉ huy cuộc biểu tình và địa điểm biểu tình sẽ là ngã ba Cây gạo Ba Đê, một nơi mà mọi bà con trong vùng từ già chí trẻ đều biết. Chiều nay nước đứng không làm dân làng yên tâm mà mọi người càng lo lắng, vì có người đạp xe ngược đê mười cây số để xem xét thì thấy quả là nước đã trắng xóa trong đồng có lẽ sắp tràn về tới đây. Lại thêm tin ở chỗ điếm canh đê đầu làng bị thẩm thấu. Nhất là tin dân làng bên kia, sông muốn gửi nước bên này. (Vì họ định sang phá đê bên này, chịu thiệt thòi một bên để cứu lúa một bên). Thành ra dân làng Ruộng cũng như nhiều làng khác đều lo chuyện nước lụt. Dưới ánh trăng mờ người ta tíu tít gồng gánh lên đê. Nào chuyển thóc, gạo, ngô, khoai lên những chỗ cao nhất, nào gởi nhau đồ thờ quần áo: nào chạy trâu bò, trên đê cảnh huyên náo gọi nhau, van la, quát nạt nhốn nháo. Rất ít tiếng cười. Đội hộ đê lo phát hiện kịp thời chỗ thẩm thấu. Thỉnh thoảng họ lại trao đổi với nhau về mức nước để mà thất vọng. Nước mà lên nữa, sẽ tràn đê, còn nếu rút đi thì tất có vỡ đê ở đâu rồi. Trời lầm lỳ u ám. Con sông đầy ắp nước cứ cuồn cuộn, mênh mang như con quái vật khổng lồ.Thế nhưng ủy ban dân tộc giải phóng cứ họp. Có mấy việc gấp rút phải làm để chuẩn bị cho cuộc biểu tình cướp chính quyền ngày mai: 1/ Thảo những lời kêu gọi thật mạnh mẽ, hào hùng. 2/ Viết biểu ngữ và hẹn ngày giờ tập trung đi biểu tình. 3/ Tổ chức mít tinh ngay tại làng để cổ động cho cuộc biểu tình. Ngoài Hà Nồi phong trào đã rầm rộ lầm rồi, cả một vùng kinh thành náo động, tiếng vang khua rộn khắp nơi. Dân chúng xôn xao bàn tán, chờ đợi, ai nấy đều náo nức sửa soạn cướp chính quyền, say sưa khởi nghĩa. Nhưng dòng nước lũ tai ác kia cứ ám ảnh họ. Mọi người hớt hải bồn chồn. Mỗi người chúng tôi đều thấy ngoài việc cướp chính quyền ra còn phải làm cái gì nữa rất quan trọng để giải quyết lũ lụt. Song chưa ai nghĩ ra việc gì cụ thể cả. Chỉ có lo thôi!Các anh trong ủy ban dân tộc giải phóng làng Ruộng sau khi mua đủ giấy, bút lông, mực tàu phẩm đỏ về, cứ mươi lăm phút lại chạy thật nhanh về nhà xem xét nhà cửa thế nào, rồi trở lại hì hục trải rộng những tờ giấy ra phản, phủ phục viết lia viết lịa, xong mỗi tờ giấy lại say sưa ngắm nghía. Đã mười một giờ khuya, trăng lẩn trong mây, sáng mờ mờ. Trong làng vẫn rậm rịch người đi lại. Chỗ chúng tôi, người ra vào tấp nập. Tôi phải ngừng tay viết để trả lời đủ thứ câu hỏi hoặc để xem các kiểu dao kiếm, gậy bà con mang tới hỏi ý kiến. Rất nhiều anh em hăm hở khuấy hồ và tình nguyện đi dán khẩn hiệu trong làng. Người được nhận may cờ cứ khăng khăng đòi may khổ lớn để chiếm giải hôm mít tinh biểu tình. Người nhận lo cán cờ cũng vất vả ngược xuôi tìm cây tre cho ưng ý. Việc lập ủy ban nhân dân hàng xã được bàn đến nhiều nhất. Nào là việc thu các bằng, sắc, triện, việc bầu chủ tịch, cách bầu, các đối phó với hương lý, kỳ hào, việc chọn một phụ nữ đi bầu vào ủy ban. Ai cũng say sưa náo nức. Viêc mình được tự tay bầu ra ủy ban là dân có quyền rồi. Những dòng chữ cũng như đang nhảy múa... Tuy thế tiếng trống ngữ liên đang đổ dồn cũng làm nỗi vui mừng không trọn vẹn. Tiếng chó sủa vang khắp làng... Thật là một đêm đầy ắp niềm vui lớn và nỗi lo cũng thắt lòng.. Bỗng lệnh tù và báo động khẩn cấp ngoài đê. Mấy chị tay ẵm con nhỏ giật bắn mình, ơi ới gọi những đứa lớn, kêu la đầy kinh hoàng: ối giời ơi! Làng nước ơi! Ra cứu đê mau!. Đám đàn ông trầm tĩnh hơn, tỉnh táo đi lấy cuốc, mai chạy ra. Một anh giúp tôi thu xếp giấy mực nói giọng đau đớn tha thiết. - Thôi rồi anh ạ! Thế này thì còn khởi nghĩa làm sao! Sao cái vận nước mình nó oái oăm thế!.Anh như sắp bật khóc! Tôi chưa biết phải nói gì với anh, cứ lo thu xếp gọn các thứ để lao ra với mọi người. - Phải! Anh ra với chúng tôi! Nhỡ có chuyện gì anh khuyến khích dân làng vài câu cho đỡ buồn anh nhé!Tôi nghẹn ngào với ý nghĩ: Mình chỉ có ít kinh nghiệm lãnh đạo dân chúng chống Pháp, chống Nhật, còn chống nước lũ thì biết làm sao đây! Những con người này sẽ hăng hái bao nhiêu nếu cần chiến đấu!Tôi giắt khẩu súng vào người, xong cảm tháy không tự tin lắm, khác với những lần khi khai hội trù gian trước đây. Anh thanh niên thì hăm hở nhắc:- Súng đâu! Đem theo đi nhé! Một cụ già lật đật bước vào thở dốc:- Hỏng! Hỏng! Hỏng tất! Chạy, vào giường cụ vớ lấy cái điếu cày vừa thông vừa nói tiếp: - Các cụ đi ra đi! Ra hết đi! Tôi cũng ra bây giờ, nguy quá! Tiếng trống, tiếng mõ đổ dồn. Tiếng tù và trầm trầm rên rỉ kéo dài. Tiếng trẻ con khóc. Tiếng người lớn thúc giục. Tôi theo anh thanh niên chạy ra đến đầu làng thì thấy lố nhố trên đê người và người. Mấy anh tay cầm gậy cho hay: - Có ba chiếc thuyền từ từ tiến vào. Tuần canh đê hỏi tluyền nào họ không trả lời. Tưởng là thuyền bên kia sông sang gởi nước nên báo động. Nhưng họ đã quay ra giữa dòng rồi. Như thế là tình hình chưa đến nỗi nào. Mọi người lục đục trở về nhà. Mối lo chưa tan hẳn nhưng cũng tạm yên tâm tiếp tục công việc chuẩn bị. Rồi có tin: nước đứng rồi, nơi thẩm thấu không còn rỉ nước. Mấy bà cũng chen vào xem chúng tôi viết và hỏi dò xem họ có được đi biểu tình không.Sáng hôm sau, các điếm canh đều phủ kín biểu ngữ. Nơi nào người dân cũng chen chúc đọc. Trên đê làng Ruộng, lác đác mấy cái lều nhỏ. Trời âm u. Nước lững lờ trôi. Còn lòng người thì nao nức đến khó tả.- Giặc Nhật đã đầu hàng. Thời cơ khởi nghĩa đã tới.- Quốc dân đồng bào mau mau nổi dậy cướp chính quyển!- Cách mạng thành công muôn năm! Các câu chữ truyền miệng lan đi như cơn lốc không ai nghĩ đến làm ăn gì cả, chỉ khấn trời cho nước rút mau và phen này có chết cũng thơm thịt khắp nơi sát khí đùng đùng. Nhìn họ tôi sung sướng nghĩ tới tờ hịch của đức thánh Trần học thuở truớc.Tờ mờ sáng hôm sau, hàng ngàn người đổ ra chật cả đường làng, mặt đê. Các cụ già, trẻ em cũng tham gia. Dòng người cứ dài ra mãi. Nhân dân từ Vọng La đổ lên, Xuân Trạch kéo đến, Cổ Loa đi ra... các nơi khác trong toàn vùng đổ về tập trung tại Cây gạo Ba Đê. Giữa lúc tôi đang làm nhiệm vụ tổng chỉ huy sắp xếp và chỉnh đốn đội ngũ, đột nhiên một bà trong đám đông chạy đến trước mặt tôi, đon đả nói:- Ô thế hóa ra là cậu à? Hôm nay cậu khác hẳn đi đấy! Sau một phút trấn tỉnh, tôi nhận ra bà và mỉm cười:- Chào bà, vâng, tôi... Chả là, suốt từ khi được phân công về phụ trách vùng này, hầu như ngày nào cũng có việc phải đi qua chỗ ngã ba này, phần nào cũng ỷ vào việc thay hình đổi dạng thường xuyên của mình - hôm thì áo the quần trắng, hôm thì đóng bộ tây vào, hôm thì quần nâu áo vải - nên tôi thường đánh bạo nghỉ ở quán bà uống chén nước, ăn bát bún hay vài cái kẹo ngay ở gốc cây gạo. Và tôi cứ đinh ninh là bà chủ quán đông khách thế sẽ không nhận mặt được ai! Vả lại tôi rất thích được ngồi nghỉ lại đây. Từ gốc gạo này tôi có thể phóng tầm mắt nhìn bao quát được cả vùng rộng lớn các làng xã ven đê. Mỗi khi dừng mắt lại làng nào lại hiện ra hình ảnh thân thương của các đồng chí, các bạn vào sinh ra tử cùng với cảnh đời và công việc của họ. Tôi cảm thấy mình ấm lòng và nhiệt thành thêm. Cũng chính bên gốc gạo Ba Đê này, sau bao năm tháng bị tù đày chỉ ước ao có ngày trở lại hoạt động cho cách mạng, và lan, đầu tiên tôi được đồng chí Trường Chinh giao công tác cũng trên đê này. Còn bao nhiêu cuộc hẹn hò gặp gỡ các đồng chí khác. Thấy tôi ngập ngừng lúng túng bà nói vui:- Giờ thì biết rõ. Cậu là tướng Việt Minh rồi. Thôi, lâu nay cậu ăn bún gà của lão mãi, hôm nay cậu phải cho lão ăn cháo gan... Nhật đấy! Nói xong bà tất tưởi quay lại đội ngũ. Tôi bất giác mỉm cười, thầm nghĩ: Một bà bán quán cũng quyết tâm đánh Nhật! Khối quần chúng đông đảo này nhất định sẽ đập tan bọn phát xít, giành chính quyền hôm nay.Sau khi chúng tôi nói mấy lời về tình hình, về thời cơ cướp chính quyền, anh em thanh niên hát bài Tiến quân ca và đoàn rầm rộ xuất phát. Đi đầu là lá cờ đỏ chói lọi bay phần phật. Bốn thanh niên tự vệ chiến đấú khiêng khẩu đại liên, tiếp đến đội tự vệ với hơn chục khẩu súng trường rồi đến các khối quần chúng đi theo từng xã. Trong đoàn có một ông già trước đi lính kèn cho Pháp lại còn giữ được cái kèn, thỉnh thoảng ông thổi toe toe. Chẳng hiểu là bài gì, nhưng lúc bấy giờ tiếng kèn có vai trò quan trọng làm thêm phấn chấn đoàn người đi đổi đời. Từng quãng chúng tôi đặt súng nổ lên trời ít phát. Quần chúng sôi nổi hô khẩu hiệu: - Đả đảo bọn phát xít! Cách mạng thành công muôn năm!Tiếng hô vang động như sấm rền. Kiếm, dao, giáo, mác lấp lánh dưới ánh mặt trời. Đoàn đi tới đâu, quần chúng tại chỗ lại tự động nhập đội ngũ. Chúng tôi lòng rất phấn chấn, vững tin vào quần chúng. Bây giờ bọn tay sai phản động chắc chắng dám ngo ngoe. Nhưng phải đề phòng bọn phát xít vì bản chất chúng rất tàn bạo. Nhất định quần chúng sẽ toàn thắng, nhưng nếu không chuẩn bị đối phó với tình huống quyết liệt thì sẽ bị lúng túng. Chúng tôi nghĩ tới cách áp dụng những điều mà đã được học tập dự kiến các việc như cầt dây điện thoại, đốn ngã cây, phá đường cô lập lực lượng Nhật đóng ở Đông Anh để bảo đảm việc cướp chính quyền được nhanh chóng. Lúc ấy dù gặp cản trở gì, quyết tâm khởi nghĩa dành chính quyền cũng không hề nao núng, ngược lại còn bốc mạnh hơn. Chị Điệp nai nịt gọn gàng, tay lăm lăm khẩu súng lục, dây súng quấn vào cổ tay. Anh Thiệp và tôi cũng vậy luôn luôn ở tư thế tiến công... Khoảng gần trưa, đoàn biểu tình kéo tới huyện. Lúc này, anh em công nhân hỏa xa Đông Anh đã đến phối hợp cùng làm nhiệm vụ chiếm huyện. Tên tri huyện đã bỏ trốn từ lâu, nên việc cướp chính quyền không gặp khó khăn phức tạp. Chúng tôi chuyển sang trại lính Nhật. Quần chúng quây quanh trại, hô khẩu hiệu. Tôi được cử ra giao thiệp với bọn Nhật. Anh Thiệp chỉ huy tự vệ sẵn sàng... Nếu lúc nói chuyện bọn Nhật giở trò thì quân ta lập tức đánh trả. Chị Điệp đôn đốc đội ngũ quần chúng giữ trò trợ công. Bọn Nhật có một tiểu đội. Khi chúng tôi vào đến phố huyện thì gặp tên chỉ huy cùng mấy tên lính. Chúng tôi tìm ngay thông ngôn và bắt đầu thuyết phục. Tên chỉ huy đội mũ lưỡi trai bằng vải, áo quần, màu cứt ngựa, gặp tôi nó hơi ngơ ngác một lúc rồi nhìn ngang nhìn ngửa quan sát lực lượng của ta. Tôi bảo hắn:- Nhật đã đầu hàng đồng minh. Việt Nam hiện nay Việt Minh đã làm chủ. Chúng tôi đã có chính quyền Cách mạng. Vậy các anh phải nộp vũ khí, giao trại lính cho chúng tôi. Chúng tôi bảo đảm đưa các anh về Hà Nội an toàn. Tên chỉ huy suy nghĩ một lát rồi nói ngập ngừng: - Cho tôi gọi điện thoại về Hà Nội vì chúng tôi cần có lệnh từ Hà Nội. Tôi đoán có thể là hắn âm mưu gọi xin quân tiếp viện, tôi bảo hắn luôn: - Mọi đường giây đều đã bị cắt. Nếu các anh làm theo lời chúng tôi thì sẽ được bảo đảm an toàn đưa về tới Hà Nội. Hắn lấm lét nhìn hai bên miệng lẩm bẩm hồi dài nhưng rất nhỏ. Mấy tên lính đi theo lảng dần. Còn người thông ngôn thì mặt tái đi. Tôi cho là hắn vừa nói điều gì quan trọng với chúng nó. Nhìn vào trong trại thấy bọn lính đeo vũ khí và tập hợp về một phía lại tỏa ra khuân vác hòm xiểng chắc là hòm đạn - về phía nhà kiên cố. Rõ ràng bọn chúng chuẩn bị đánh lại ta rồi. Bên ngoài quần chúng cũng thấy như thế, nên đã tiến sát bao quanh lấy tôi, miệng hô khẩu hiện vang động. Tôi bình tĩnh bảo tên chỉ huy:- Các anh không nên nổ súng vào nhân dân chúng tôi. Làm thế, buộc lòng chúng tôi phải tiêu diệt các anh.Hắn vừa lùi, vừa lầu bầu, tỏ vẻ cục cằn và láo xược. Tôi bảo hắn:- Nên nhớ rằng, chiến tranh đã kết thúc, các anh sắp được hồi hương... Tôi đang nói thì tên Nhật chạy tụt hẳn vào trong trại. Tôi giận sôi lên. Quần chúng cũng căm phẫn sôi sục. Bên trong, tên chỉ huy Nhật khoát tay ra hiệu. Bọn lính bắn ra Khí thế quần chúng như một chảo dầu sôi. Tiếng súng của bọn Nhật khác nào một tia lửa bắn vào làm bùng to lên lên đám cháy lớn. Quần chúng gào thét. Các đội viên tự vệ được lệnh lập tức tản ra bắn vào trong trại. Các tổ phụ nữ vừa hô khẩu hiệu dương cao cờ ào lên. Tiếng kèn của ông già vang lên, thôi thúc. Thanh niên vung kiếm múa gậy xông vào. Chúng tôi cố ngăn lại chỉ để các đội tự vệ có súng xáp vào chiến đấu. Khẩu đại liên đặt ngay cổng trại nổ rầm rầm. Anh em công nhân xe lửa Đông Anh ném tới tấp lựu đạn vào trại. Quần chúng không ngừng hô: Đả đảo phát xít Nhật nhặt đủ thứ ném vào. Anh Môn là Bí thư chi bộ làng Xuân Trạch dẫn đầu một tốp thanh niên lao lên, bị trúng đạn ở đùi, máu chảy đẫm ống quần. Anh vẫn thản nhiên động viên: - Bà con giữ vững tinh thần. Tôi thấy chúng chết hai thằng rồi! Anh thét lên lên: - Anh em tiến lên! Xô tới gần cửa trại, anh lại bị thương vào tay. Anh muốn dấu không để mọi người biết, nhưng các đồng chí vội kéo anh ra chỗ khuất, băng bó. Vừa được băng xong anh lại vùng ra, hô:- Anh em xông lên! Tiêu diệt quân phát xít!. Tiến được mấy bước, anh ngã xuống, miệng vẫn không ngớt hô: - Xông lên! Anh em xông lên!. Tin anh Môn hy sinh truyền đi và sôi sục căm thù: - Trả thù cho anh Môn!. - Tiêu diệt phát xít Nhật! Quần chúng càng xiết chặt vòng vây. Bọn Nhật tập trung bắn ra phía cổng. Một anh lấy mũ chụp lên đầu chiếc gậy đưa thập thò trên đầu mép tường. Anh khác đứng bên đưa mũi súng chờ sẵn. Mấy tên Nhật nhỏm lên bắn chiếc mũ, bị anh hắn trước. Một tên đổ xuống dãy đành đạch. Anh G. cũng là thanh niên, nhưng lùn quá, co kiễng chân cũng không sao bắn được qua tường liền rón rén đến bên cửa sổ, chĩa súng bắn chết một tên khác. Sướng quá anh, khoe: - Bà con ơi! Thịt thêm một tên nữa!Gina lúc đó, mấy anh chạy lại níu lấy áo tôi- Anh! Lại chữa hộ chúng em khẩu súng máy, đang bắn thì nó tắt! Người đứng bên tôi liền gạt đi: - Thôi, anh đang bận! ở hướng khác chị Điệp cầm súng lục bò sát tường ló đầu lên cửa sổ dò xét. Đoàng! Chị phục ngay xuống rồi nhô lên bắn trả lại.Anh Thiệp vẫn hò hét ở cổng trại. - Bình tĩnh, giữ vững hàng ngũ! Một bà trạc năm mươi, tay phất cao cờ đỏ miệng la lớn:- Anh chị em tiến tới! Tiến tới! Một ông cụ quần xắn đến gối, xách kiếm chạy ngược, chạy xuôi, góp kế:- Đốt! Đốt nhà! Quần chúng hưởng ứng:- Phải đấy. Ném rơm vào! Ném rơm vào! - Ra phố lấy rượu, dầu hỏa nữa! Mau lên! Nhóm thanh niên hăng hái lao đi.. - Rơm đâu, ném hết vào! - Trèo lên mái, dỡ ngói tống xuống! Em Diệp một thiếu niên mười hai tuổi nhanh nhẹn nói:- Em bé, em trèo cho! - Không được! Để tôi trèo! Tiếng hò hét, ai cũng gào như quát. Ai cũng đầy hào hứng góp sức mình hạ bốt.. Trận chiến đấu đến hàng tiếng đồng hồ cử sôi sục như thế, càng về sau càng dữ dội hơn. Tiếng súng của địch thưa dần. Và làn đạn từ, trong bắn ra cứ bay lên ngọn cây. Sau một cuộc hội ý chớp nhoáng, chúng tôi cùng thống nhất nhận định: Bọn Nhật chỉ còn vài thằng bị thương, ta vào được rồi. Lập tức tôi hạ lệnh xung phong. Cả dòng thác người ập vào trại địch. Bọn địch bị tiêu diệt. Anh Thiệp, chị Diệp và các đồng chí đảng viên các xã cùng tôi hô đến khản cả tiếng đồng bào mới chịu ngừng tay.Sau khi đã làm chủ hoàn toàn được huyện, ủy ban khởi nghĩa phân công: Chị Diệp chịu trách nhiệm cùng quần chúng chôn cất bọn giặc đã chết thu dọn chiến trường. Anh Thiệp và tôi đi lập chính quyền và tổ chức lực lượng võ trang ở địa phương. Tới huyện đường, chỉ còn là cảnh hoang tàn vô chủ. Chiếc ô tô hòm nằm chỏng chơ, cửa ngõ đổ nát hoang tàn, giấy tờ sổ sách vung vãi... ủy ban khởi nghĩa và đại biểu quần chúng nhất trí cử anh Thiệp làm chủ tịch huyện chị Điệp là phó chủ tịch. Sau đó chúng tôi tổ chức đội vũ trang thoát ly gọi là giải phóng quân. Có đến hàng trăm thanh niên nhập ngũ. Chúng tôi phảí gọi danh sách và giải thích là hiện nay mới tạm tổ chức một đơn vị nhỏ, sẽ tổ chức lớn hơn và gọi thêm sau. Tập hợp thành đội ngũ xong, chúng tôi cử luôn anh em đi mai phục các ngả đường đón đánh Nhật nơi khác kéo tới. Ngay sau đó, chúng tôi tổ chức lễ truy điệu và an táng đồng chí Môn. Chúng tôi lấy một lá cờ đỏ sao vàng phủ lên người đồng chí. Hàng trăm người đứng im lặng mặc niệm, tỏ lòng thương nhớ anh, biết ơn anh và càng nung nấu căm thù bọn phát xít xâm lược.Đám tang đồng chí được cử hành rất trọng thể ngay chiều hôm ấy. Để bảo đảm an toàn, chính quyền huyện tạm dời về làng Cổ Loa, vì ở đó là cơ sở vững mạnh của ta. Địa thế lại hiểm trở, xa đường cái lớn, Tiến khả dĩ công, thoái khả dĩ thủ... Tới đình Cổ Loa, trời xẩm tối. Chính quyền nhân dân bắt tay vào việc ngay. Trước tiên là phân công thêm một số cán bộ và thanh niên cùng nhân dân tiếp tục hộ đê chống lục. Nước sông Hồng đã lại dâng lên, tràn qua đê, chảy xiết ghê người. Tai họa vỡ đê từng phút, từng giây...