ưa bắt đầu giăng khi tiến sĩ Sinskey bắt đầu lao vội ra khỏi Hagia Sophia cùng với Langdon, Brüder và anh chàng hướng dẫn viên Mirsat đang choáng váng của họ. Hãy lần sâu vào tòa cung điện bị chìm, Sinskey nghĩ. Địa điểm bể chứa nước của thành phố - Yerebatan Sayari - rõ ràng ở phía sau Giáo Đường Xanh và hơi chếch về phía bắc. Mirsat dẫn đường. Sinskey không còn lựa chọn nào khác là nói cho Mirsat biết họ là ai và rằng họ đang phải chạy đua để ngăn cản một cuộc khủng hoảng y tế có thể nổ ra ngay trong cung điện chìm đó. “Lối này!”, Mirsat gọi, dẫn họ chạy men theo công viên tối om. Giờ Hagia Sophia đồ sộ như trái núi đã ở phía sau họ, và những ngọn tháp như trong truyện cổ tích của Giáo Đường Xanh lấp lánh phía trước. Bên cạnh Sinskey, đặc vụ Brüder nói như quát vào điện thoại, cập nhật tình hình cho đội SRS và ra lệnh cho họ gặp nhau tại lối vào bể chứa nước. “Xem ra Zobrist nhắm vào nguồn cấp nước của thành phố”, Brüder nói, thở không ra hơi. “Tôi cần giản đồ của tất cả đường ống ra-vào bể chứa. Chúng ta sẽ thực hiện quy trình ngăn chặn và cách ly hoàn toàn. Chúng ta cần các rào chắn hóa học và vật lý với chân không…” “Đợi đã”, Mirsat gọi anh ta. “Anh hiểu nhầm tôi rồi. Bể chứa không phải là nguồn cấp nước của thành phố. Không còn chức năng ấy nữa!” Brüder hạ điện thoại, nhìn sững người hướng dẫn. “Sao cơ?” “Thời xưa thì bể nước là nguồn cấp nước”, Mirsat nói rõ. “Nhưng không còn thế nữa rồi. Chúng tôi đã hiện đại hóa rồi.” Brüder dừng phắt lại bên dưới tán cây, và tất cả mọi người cũng dừng lại theo. “Mirsat”, Sinskey nói, “anh có chắc rằng không còn ai uống nước từ bể chứa không?”. “Hoàn toàn không”, Mirsat nói. “Nước nằm nguyên dưới đó… cuối cùng tự thẩm thấu vào trong đất.” Sinskey, Langdon và Brüder cùng nhìn nhau vẻ không chắc chắn. Sinskey không biết mình cảm thấy nhẹ nhõm hay thêm hoảng. Nếu không ai thường xuyên tiếp xúc với nước thì tại sao Zobrist lại chọn đầu độc nơi đó? “Khi chúng tôi hiện đại hóa nguồn cấp nước từ nhiều thập kỷ trước”, Mirsat giải thích, “bể chứa không còn được sử dụng nữa và trở thành một cái bể lớn trong một gian phòng ngầm dưới đất”. Anh ta nhún vai. “Còn bây giờ thì chỉ là một điểm du lịch thôi.” Sinskey xoay người về phía Mirsat. Một điểm du lịch ư? “Khoan đã… mọi người có thể đi xuống đó à? Xuống bể nước ấy?” “Dĩ nhiên rồi”, anh ta nói. “Có đến hàng nghìn người tham quan mỗi ngày. Hang ngầm khá ấn tượng. Có các lối đi lót ván phía trên mặt nước… và thậm chí còn có một quán cà phê nhỏ. Thông khí hơi hạn chế nên không khí khá ngột ngạt và ẩm thấp, nhưng nơi đó vẫn rất nổi tiếng.” Sinskey nhìn sững Brüder, và bà có thể khẳng định rằng cả bà và anh chàng đặc vụ SRS được huấn luyện kỹ càng đều cùng hình dung ra một điều - một hang ngầm ẩm thấp, tối tăm toàn nước đọng trong đó có ủ một thứ mầm bệnh. Cơn ác mộng thêm hoàn chỉnh với sự hiện diện của những lối đi lót ván nơi khách du lịch qua lại suốt ngày, ngay phía trên mặt nước. “Hắn tạo ra một dạng thuốc phun sinh học”, Brüder tuyên bố. “Nghĩa là sao?”, Langdon hỏi. “Nghĩa là”, Brüder đáp, “nó có thể lan truyền trong không khí”. Langdon im bặt, và Sinskey thấy rõ lúc này anh đang hình dung mức độ ghê gớm của cuộc khủng hoảng này. Đã có lúc trong đầu Sinskey nghĩ đến kịch bản một thứ mầm bệnh lan truyền trong không khí, nhưng khi bà tin rằng bể chứa nước chính là nguồn cung cấp nước của thành phố, bà hy vọng có lẽ Zobrist chọn một dạng bệnh lây lan theo nước. Các vi khuẩn sống trong nước rất mạnh và chống chịu được thời tiết, nhưng chúng cũng chậm phát tán. Các mầm bệnh dựa vào không khí lại lan truyền nhanh. Rất nhanh. “Nếu nó tồn tại trong không khí”, Brüder nói, “thì có khả năng là vi rút”. Một loại vi rút, Sinskacirc;y chính là vị trí cần tìm.Điểm không bề mặt của Zobrist.