Buổi sáng ngày 11-6, theo kế hoạch, các chùa trong đô thành tiếp tục lễ cầu siêu cho các nạn nhân ngày 8-5 ở Huế. Nhìn bên ngoài, tình hình quan hệ Phật giáo và chính phủ có vẻ được lắng dịu đôi chút sau khi Ủy ban liên bộ chính phủ và Ủy ban liên phái của Phật giáo tiếp xúc thường xuyên và đi đến một vài thỏa thuận. Các cuộc tuyệt thực phản đối của tăng ni lan rộng khắp các tỉnh miền Trung và ở đô thành lần lượt chấm dứt. Tổng thống Việt Nam Cộng hòa ra một số quyết định mà người ta có thể hiểu như là một mức nhượng bộ nào đó: trung tá Trần Ngọc, tỉnh trưởng Kiến Hòa được đề cử làm thị trưởng thành phố Đà Nẵng thay thế Hà Thúc Luyện. Tuy nhiên, cái nút gây căng thẳng vẫn chưa được tháo mở - cuộc bao vây chùa Từ Đàm ở Huế, nơi mà theo ý của Phan Quang Đông và được Diệm tán thành, là cái “lò” tiêu biểu cho sự “cứng đầu” của Phật giáo, chừng nào chưa buộc các nhà sư Từ Đàm quy hàng với bản nhận tội vô tình hay cố ý tiếp tay Cộng sản thì chưa thể chấm dứt cái gọi là chiến dịch “củng cố quyền lực chính phủ” Một số khá đông tăng ni và Phật tử tập trung từ sáng sớm tại chùa Phật Bửu trên đường Cao Thắng. Nha cảnh sát đô thành được thông báo về lễ cầu siêu này và giám đốc nha nhìn thông báo ấy ngang với hoặc thấp hơn những lễ cầu siêu ở các địa điểm khác, bởi Phật Bửu là ngôi chùa quá nhỏ, nằm ở một vùng lao động - chợ Vườn Chuối. Chín giờ, lễ cầu siêu chấm dứt không có xung đột - tăng ni và Phật tử đọc kinh cầu nguyện trong trật tự còn nhân viên công lực, gồm một tiểu đội cảnh sát lặng lẽ theo dõi bên ngoài chùa. Cũng chừng ấy mật vụ và công an chìm được bố trí chen lẫn với Phật tử. Tất cả đều hiền lành và hẳn, cảnh sát cũng như mật vụ đều nghĩ rằng hôm nay họ sẽ có được một ngày rãnh rỗi. Từ Phật Bửu Tự, các tăng ni rước bài vị nạn nhân ra đường Phan Đình Phùng. Số tín đồ không đông lắm và người ta đoán các tăng ni sẽ đến bến xe Nguyễn Cư Trinh để lên đường ra Huế. Chín giờ ba mươi, đoàn kéo đến ngã tư Phan Đình Phùng - Lê Văn Duyệt. Tại đây, một số tăng ni đã tập hợp từ trước. Hai con đường giao thông quan trọng của đô thành bỗng tắt nghẽn. Tăng ni và Phật tử, đông lối 700 người, hình thành một vòng tròn. Từ trên chiếc xe du lịch hiệu Austin mang số DBA 599, hai nhà sư bước xuống. Một trong hai nhà sư, tuổi lối 70, người dong dỏng cao, mặc áo đạo màu nâu, thanh thản ngồi xếp bằng giữa ngã tư, một tay chấp trước ngực, một tay lần tràng hạt, còn nhà sư kia thì lấy từ trong xe ra một can xăng loại 20 lít, tưới lên người nhà sư đang ngồi. Xăng xối từ đầu, đẫm ướt toàn thân nhà sư. Một diêm quẹt lóe lửa, ngọn đuốc bùng cháy, khói và lửa bốc cao. Bảy trăm tăng ni đồng loạt quỳ chung quanh ngọn lửa đọc một đoạn kinh bằng tiếng Phạn. Nhà sư tự thiêu, trong vùng lửa đỏ, ngồi như tĩnh tọa, chỉ ngã xuống khi tắt thở. Thời gian diễn biến sự việc kéo dài lối 45 phút. Thi thể của vị sư hỏa thiêu được bọc trong một tấm vải và toàn đoàn bước sau thi thể, tiếp tục đọc kinh, hướng về chùa Xá Lợi. ° THÔNG BÁO CỦA NHA THÔNG TIN: Hồi 9 giờ 30 ngày 11-6, tại góc đường Lê Văn Duyệt và Phan Đình Phùng, một người đã dùng xăng tự sát. Tên ông ta là Nguyễn Văn Khiết, 73 tuổi, quê ở Khánh Hoà. Cuộc điều tra của Nha cảnh sát đang được tiến hành để tìm hiểu nguyên nhân của vụ tự sát. ° THÔNG BÁO CỦA GIÁO HỘI PHẬT GIÁO: Thượng tọa Thích Quảng Đức, năm nay thọ 73 tuổi, xuất gia học đạo khi lên 7 tuổi với hòa thượng Thích Hoàng Thân. Ngoài thế tục, thượng tọa tên là Lâm Văn Tức, sau đổi là Nguyễn Văn Khiết, đạo hiệu Thích Quảng Đức, pháp danh Thụy Thủy, pháp tự Hành Pháp. Ngài thụ sadi năm 15 tuổi, thọ cụ túc giới lúc 20 tuổi và phát nguyện tham thiền trên núi 3 năm liền. Sau 2 năm vân du hóa đạo, Ngài về nhập thất ở Ninh Hòa và Nha Trang, làm chứng minh đạo sư cho chi hội Ninh Hòa Việt Nam Phật học và kiểm tăng tỉnh Khánh Hoà. Thượng tọa Thích Quảng Đức nghiên cứu giáo lý Phật ở Nam Vang 3 năm, kiến tạo và trùng tu cả thảy 31 ngôi chùa. Ngôi chùa cuối cùng Ngài trụ trì là Quan Thế Âm tự, số 66 đường Nguyễn Huệ, Phú Nhuận. Thượng tọa người thôn Hội Khánh, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hoà, Trung Việt. Thượng tọa Thích Quảng Đức tự thiêu để phản đối chính sách đàn áp Phật giáo của chính phủ. Toàn thể tăng ni, tín đồ Phật giáo Việt Nam đang cầu nguyện cho Ngài. ° THÔNG ĐIỆP CỦA TỔNG THỐNG GỬI ĐỒNG BÀO THỦ ĐÔ: Sài Gòn (VTX) Sau đây là nguyên văn thông điệp truyền thanh của Tổng thống gửi đồng bào thủ đô tối nay, 11-6-1963. Đồng bào thân mến ở Thủ đô. Sau cuộc tiếp xúc giữa Ủy ban liên bộ với đại diện Tổng hội Phật giáo ngày 5-6-1963, về phía chính phủ đã thi hành mọi biện pháp thích nghi để ổn định tình thế tại cố đô Huế và đời sống tại thành phố nay đã hoàn toàn trở lại bình thường. Ngày mai, 12-6-1963, một phái đoàn Tổng hội Phật giáo sẽ tới Sài Gòn để tiếp tục cuộc thảo luận với Ủy ban liên bộ về những vấn đề do Tổng hội đề ra. Công việc đang tiến hành điều hòa như vậy thì sớm nay, do sự tuyên truyền quá khích che giấu sự thật, gây sự hoài nghi về thiện chí của chính phủ, khiến một số người bị đầu độc gây một án mạng oan uổng làm cho tôi rất đỗi đau lòng. Tôi kêu gọi đồng bào hãy bình tĩnh nhận định tình thế, sáng suốt xét mọi vấn đề trên căn bản lương tri và ái quốc. Đồng bào hãy tin chắc rằng, tất cả mọi vấn đề dầu khó khăn đến mấy cũng có thể giải quyết trên lẽ công bằng và trên tình đoàn kết huynh đệ của dân tộc. Nếu trong hàng ngũ Phật giáo hãy còn phần tử nào vì nghe lời xuyên tạc mà lầm tưởng rằng có âm mưu thủ đoạn nào để trì hoãn cuộc giải quyết, để đàn áp bất công Phật giáo thì tôi long trọng tuyên bố cho đồng bào biết rằng, sau lưng Phật giáo trong nước hãy còn có hiến pháp, nghĩa là có tôi. ° THÔNG BÁO VỀ VIỆC TĂNG NI VÀ THIỆN TÍN ĐẾN CHÙA XÁ LỢI Nha cảnh sát đô thành trân trọng thông báo: Do chỉ thị của ông Bộ trưởng nội vụ, ngày 11-6-1963 hồi 20 giờ, Giám đốc Nha cảnh sát quốc gia đô thành có tiếp xúc với ông Tổng thư ký Ủy ban liên phái bảo vệ Phật giáo và đã thỏa thuận về những điều sau đây nhằm mục đích để cho các sư sãi, tăng ni, thiện tín có thể đến chùa Xá Lợi chiêm bái hay hành lễ cầu siêu cho giác linh Thượng tọa Thích Quảng Đức tự thiêu ngày 11-6-1963: 1. Chương trình hành lễ cầu siêu: - Tất cả các sư sãi tăng ni, thiện tín sẽ tập trung tại chùa Giác Minh, 578 đường Phan Thanh Giản để lần lượt được Ban tổ chức và nhà cầm quyền đô thành hướng dẫn bằng xe đến chùa Xá Lợi. - Số sư sãi, tăng ni, thiện tín tối đa cho mỗi phiên hành lễ là 400 người. - Thời gian hành lễ được ấn định kể từ ngày 12-6-1963 đến ngày 15-6-1963 vào lúc 20 giờ và dành cho các chùa kể dưới đây: Ngày 12-6-1963 5g00: Chư tăng trụ chùa Xá Lợi, 10g00: Chùa Giác Minh, 15g00: Chùa Từ Nghiêm, 20g00: Chùa Ấn Quang. Ngày 13-6-1963 5g00: Chư tăng trụ chùa Xá Lợi, 8g00: Chùa Phật Bửu, 10g00: Chùa Kỳ Viên, 15g00: Chùa Chantareansey, 16g00: Chùa Ấn Quang, 20g00: Hội Phật học Nam Việt. Ngày 14-6-1963 5g00: Chư tăng trụ chùa Xá Lợi, 8g30: Chùa Vạn Thọ, 10g00: Chùa Giác Nguyên và Chánh Giác, 15g00: các chùa Trung Hoa, 17g00: Chùa Từ Nghiêm, 20g00: Chùa Phước Hòa. Ngày 15-6-1963 5g00: Chư tăng trụ chùa Xá Lợi, 8g00: Chùa Ấn Quang, 10g00: Chùa Chantareansey, 15g00: Chùa Kỳ Viên, 17g00: Chùa Vạn Thọ, 20g00: Chùa Từ Nghiêm. - Thiện tín muốn đến chùa Xá Lợi bái hay hành lễ, dầu không có “chân” trong các chùa ghi trên đây được phép tháp tùng theo các phái đoàn và muốn được như vậy, cũng phải tập trung tại chùa Giác Minh. 2. Các xe của chùa Xá Lợi (Hội Phật học Nam Việt) được Nha Cảnh sát quốc gia đô thành cấp phù hiệu để ra vào chùa hành sự thong thả, bất luận lúc nào. 3. Cấp giấy chứng nhận cấp cho nhân viên chùa Xá Lợi sẽ được ông Giám đốc Nha Cảnh sát quốc gia đô thành ký tên cho phép xuất nhập chùa Xá Lợi bất luận lúc nào. Những điều thỏa thuận giữa đôi bên kể trên đã bắt đầu áp dụng kể từ ngày 12-6-1963 vào hồi 12 giờ và đến hết ngày 12-6-1963, hồi 19 giờ đã có 1.620 người được hướng dẫn đến chùa Xá Lợi để chiêm bái hoặc hành lễ cầu siêu. Những người này đã ra về trong vòng trật tự và êm thắm. Sài Gòn, ngày 12 tháng 6 năm 1963. Giám đốc Nha cảnh sát quốc gia đô thành Sài Gòn. TRẦN VĂN TƯ Tổng kiểm tra CSQG ° Luân hoàn toàn bất ngờ đối với vụ tự thiêu của vị cao tăng Thích Quảng Đức. Tổng nha Cảnh sát quốc gia cũng như Sở Nghiên cứu chính trị của Trần Kim Tuyến sửng sốt trước cái tin chấn động ấy. Thế nhưng nhà báo Mỹ Helen Fanfani lại có nhiều bức ảnh ghi lại hành động tử vì đạo lần đầu tiên của giới Phật giáo Việt Nam trong thời kỳ gần đây. Fanfani đến nhà Luân với một xấp ảnh đã được phóng đại. Giữa lúc Dung và Fanfani trao đổi về những góc cạnh thuộc tư thế của vị hòa thượng trước và trong cái chết, Luân bồi hồi như chạm trán với một sự cố mà tầm vóc không chỉ đơn giản là một vụ tự thiêu để phản đối. Trong vòng 5 tuần lễ, kể từ lúc chính quyền Thừa Thiên nổ súng vào đám đông Phật tử ở chân cầu Nguyễn Hoàng tại Huế, không khí chính trị của Việt Nam Cộng hòa đột ngột căng thẳng. Chắc chắn rằng cái chết của Thích Quảng Đức mới đúng là phát đại bác báo hiệu trận công đồn bước vào giai đoạn chót. Theo thuật ngữ quân sự mà Luân có thói quen liên nghĩ để so sánh các tình huống, đột phá khẩu mở vào dinh lũy của tổng thống Ngô Đình Diệm đã đủ rộng để cho không phải một trung đoàn, một quân đoàn mà để cho những đợt sóng thần nhận chìm và quét sạch những gì là chướng ngại - chướng ngại của cả hai phía: Mỹ cần qua xác Diệm để đạt ý đồ làm chủ Nam Việt; quần chúng cần xóa một tên độc tài. Thông điệp của Ngô Đình Diệm vừa cho thấy ông cảm giác khá nhanh về mối nguy cơ mà vụ tự thiêu này sẽ dẫn tới, đồng thời vẫn chưa bỏ kiểu cách nhìn tình hình theo lối kẻ cả, rõ ràng với tinh thần hiếu thắng của một vị hoàng đế. “Tôi long trọng tuyên bố cho đồng bào biết rằng, sau lưng Phật giáo vẫn còn có Hiến pháp, nghĩa là có tôi”. Diệm có lẽ đã gắng hết sức mình để tự kềm chế, đáng lý ông không nên dùng chữ “sau lưng” mà phải “đứng trên Phật giáo”. Vượt qua tất cả, Diệm sống với cái ảo giác ông là người giữ quyền lực tối cao ở đất nước này. Ông xem vụ tự thiêu vì lý do chính trị là một vụ “án mạng oan uổng”! Ông tưởng rằng bằng một thông điệp ngắn gọn, với lời lẽ “có ân có uy”, tình hình sẽ ổn định ngay. Trong cơn tức giận và dĩ nhiên là bấn loạn, ông quên rằng chính ông đã kêu gọi dân chúng Huế đừng xao xuyến sau ngày 8-5 và kết quả là cảnh sát dã chiến Huế đã phải dùng bạo lực cao hơn và nhiều hơn để xua sư sãi vào các ngôi chùa, đặc biệt biến chùa Từ Đàm thành một nhà tù tệ hại vượt qua tất cả các nhà tù hiện có. Giám đốc Cảnh sát đô thành Trần Văn Tư, lập lại bài bản cũ: hạn chế lễ viếng hòa thượng Thích Quảng Đức. Chế độ của Ngô Đình Diệm vẫn xét sự biến động Phật giáo một cách riêng lẻ: nếu như khoanh vụ Huế vào giữa vòng rào chùa Từ Đàm thì sẽ xóa được trong chương trình nghị sự của họ vấn đề Phật giáo; còn bây giờ nếu giảm đến mức tối thiểu số người đi viếng hòa thượng Thích Quảng Đức, thì có vẻ sự thể chỉ còn là một cái chết của một nhà sư, với các đoàn thể phúng điếu thông thường... Thậm chí Tổng nha Thông tin đã nhanh nhẩu đến nỗi gọi vụ tự thiêu của hòa thượng Thích Quảng Đức là một vụ tự sát. Những bức ảnh mà Fanfani ghi được - rồi đây nhất định sẽ được công bố rộng rãi trong và ngoài nước - có một sức chứa kỳ lạ. Chỉ cần xét vấn đề ở một góc độ nhỏ thôi. Tổng thống Ngô Đình Diệm đã trở thành một cái gì vô nghĩa lý trước một Thích Quảng Đức ung dung, tự tin về hành động của mình. Ngọn lửa bốc cao, mảnh áo ngoài thành tro cuốn theo làn gió nhẹ, da thịt của hòa thượng trở thành chất đốt và chỉ đến lúc đó, đến lúc mà toàn bộ hệ thần kinh của hòa thượng cùng với toàn bộ tế bào đã khô kiệt, hòa thượng mới từ từ ngã xuống. Làm sao một chế độ, dù đủ súng ống, lại có thể đương đầu nổi với những cái chết tương tự? Không thể tán thành phương pháp đấu tranh của hòa thượng Thích Quảng Đức - nó mang nhiều yếu tố tiêu cực - Luân không giấu giếm sự khâm phục nhà sư. Anh hiểu rằng, nếu tách hành động của nhà sư ra khỏi các loại chủ trương mà chắc chắn có tác động đến nhà sư, thì sự hi sinh của Thích Quảng Đức, đã phản ảnh trên một khía cạnh nào đó tính cách của con người Việt Nam chân chính... - Tại sao cô có thể chứng kiến được cảnh này? - Luân hỏi Fanfani. Cô nhà báo Mỹ dường như đoán trước Luân sẽ hỏi câu đó nên mỉm cười: - Nếu tôi bảo rằng vì tình cờ đi ngang mà tôi thu được ảnh của vụ tự thiêu thì đại tá sẽ nhún vai. Tôi “ngửi” được sẽ có một quả bom nổ và tôi xông xáo. Không phải Fishell cho tin, đời nào ông ta cho tôi những loại tin cỡ đó. Đại tá bằng lòng cách giải đáp đó của tôi không? Luân không tỏ ra một thái độ nào. Fanfani trở nên tinh nghịch: - Tôi mới nói với bà đại tá: bà là nhân viên cấp khá cao trong ngành cảnh sát, kề cận Tổng giám đốc và tiếp xúc hàng ngày với đủ loại báo cáo, thế mà bà đã không ngờ trước vụ Thích Quảng Đức. Còn ông, đủ điều kiện hơn bà để nắm mọi ngóc ngách của tình hình, ông cũng bàng hoàng nốt! Ông bàng hoàng nghĩa là ông Nhu cũng bàng hoàng. - So với Victo, cô đã gác một điểm quan trọng! Các bức ảnh của cô sẽ làm cho tờ báo của cô đi đúng với tính chất tài chính của nó... - Luân cười nhẹ. - Tôi báo cho đại tá một tin: Tôi chỉ thu được một số ảnh trong khi một ký giả người châu Á - một người châu Á thì là chắc chắn, còn có phải là ký giả hay không thì tôi chưa khẳng định - quay cả một cuốn phim. Có thể ông ta quay nhiều cuốn phim. Đại tá có nghĩ rằng John Hing liên can đến vụ tự thiêu này không? - Có thể. Và, tuy tôi không hân hạnh chứng kiến sự việc tại hiện trường như cô, nhưng tôi biết chắc chắn ít nhất còn có một caméra nữa... - Của ai? - Theo tôi, ông Mai Hữu Xuân không bàng quan. Điện thoại reo. Nhu gọi Luân vào dinh Gia Long gấp. - Với tôi, vụ tự thiêu cao cả của hòa thượng Thích Quảng Đức sẽ bị khai thác. Thật lòng, tôi đau đớn trước một cái chết mà tôi khâm phục cái chết đó. Luân nói những lời chót với Fanfani trước khi lên xe. - Ông kỹ sư là một con người kỳ quặc! - Fanfani nhận xét như vậy với Dung. - Dù thế nào cái chết của hòa thượng cũng là một thảm kịch. Anh Luân của tôi không thích các loại thảm kịch. - Dung trả lời Fanfani. ° Có mặt ở phòng làm việc của Diệm gần đủ mặt: Nhu, Luyện, Trần Lệ Xuân, Đức cha Ngô Đình Thục, bác sĩ Trần Kim Tuyến, đại tá Tổng giám đốc cảnh sát Nguyễn Văn Y, đại tá Đặng Văn Quang - sắp rời tham mưu biệt bộ sang phụ trách trung tâm tình báo - đại tá Nguyễn Thành Luân và bí thư của tổng thống Võ Văn Hải. Nhìn qua thành phần, Luân hiểu rằng Diệm muốn nghe ý kiến của những người thân cận nhất để đi đến một ý kiến cực kỳ quan trọng. Đô thành và khắp các tỉnh giống như cơn dầu sôi. Vụ tự thiêu của hòa thượng Thích Quảng Đức khơi dậy những tiềm lực mà bấy lâu chế độ Diệm tạm thời nén ém được. Hết sức phũ phàng đối với Diệm - ông vẫn ngồi trên chiếc ghế bành quen thuộc nhưng vắng hẳn nụ cười thỏa mãn thường lệ mỗi khi có cuộc tập họp mang tính chất gần như gia đình này - thiên huyền thoại “không thể nào lật đổ nổi chế độ Ngô Đình Diệm” bỗng phá sản và hơn nữa, đảo ngược một cách tàn nhẫn: không một chế độ nào dễ lật đổ hơn chế độ Ngô Đình Diệm! Diệm mở đầu cuộc họp, quên cả chọn giọng nói: ông có biệt tài nói giọng Bắc với người di cư, giọng Bắc Trung Bộ với những người đồng hương và giọng Nam với các đối tượng còn lại - bữa nay ông nói giọng lai tạp: - Tình hình thì ai cũng đã rõ, hết sức vô lý. Giữa lúc toàn dân nỗ lực tối đa để chiến thắng Cộng sản và ngày chiến thắng gần kề thì các lão thầy chùa gây rối. Phải dập tắt tất cả các hành động đâm sau lưng chiến sĩ của bọn giả danh tu hành! Diệm liếc về phía đại tá Tổng giám đốc cảnh sát và bác sĩ Trần Kim Tuyến. - Sao lạ rứa? Vụ tự tử để gây kích động giữa một ngã tư lớn của đô thành mà các cơ quan cảnh sát, tình báo của chính phủ hoàn toàn không hay biết. Các ông ngủ cả à? Đã thế, còn để cho phóng viên nước ngoài chụp ảnh, quay phim. Phóng viên nước ngoài dò được tin tức trong khi ông Y, ông Tuyến chỉ báo cáo với tôi khi bọn chúng đã khiêng xác chết về chùa Xá Lợi... Diệm lại liếc về phía Nhu - Luân ngồi cạnh Nhu: - Nhượng bộ! Chính trị! Chú Nhu thấy rồi đó. Phải chi ngay đầu tháng 5 ta tóm cổ tất cả bọn sư sãi ở Huế, tống chúng vào lao Phủ Thừa, thì tình hình đâu có rối như hiện giờ. Diệm nói như quát, mặt lúc tái, lúc đỏ. Những người dự họp im lặng. Nhu cau mày, rít thuốc liên hồi. Ngô Đình Thục ngó đăm đăm bộ ba Trần Kim Tuyến, Nguyễn Văn Y, Đặng Văn Quang - cả ba khoanh tay ngồi thu lu. Chân mày của Trần Lệ Xuân xếch ngược, môi mím chặt. Ngô Đình Luyện, khác với tất cả, ngó sang dinh Độc Lập, hình như thích thú khu vườn rợp mát đầy cổ thụ hơn là vấy vào cái không khí oi ả của gian phòng, Võ Văn Hải nép hẳn ở hàng ghế sau, với cuốn sổ và cây bút lúc nào cũng sẵn trên tay, Luân chọn một thái độ mà anh cho là thích hợp: bình tĩnh lắng nghe Tổng thống quở, thỉnh thoảng ra chiều suy nghĩ, thong thả từng lọn khói thuốc. - Đúng như Tổng thống nói, thật vô lý! - Ngô Đình Thục hậm hực. Đức cha Ngô Đình Thục vừa được phong chức Tổng giám mục địa phận Huế. Với ông, chức vụ đến hơi muộn. Và điều mà ông bận tâm chính là những sự cố từ năm 1960 đã trở thành những chướng ngại vật trên con đường tiến đến tước vị Hồng y mà ông thèm muốn đến độ điên cuồng. Em ông, vị tổng thống khai sáng nền Cộng hòa ở Nam Việt, còn gì hợp lý hơn là chính ông nhận chiếc mũ Hồng y đầu tiên ở Việt Nam? Năm nay, kỷ niệm 25 năm ông thụ phong Giám mục. Lễ Ngân khánh được sửa soạn từ lâu. Một ủy ban tổ chức đã thành lập và hoạt động vào tháng 3 năm nay, gồm một danh sách rôm rả. Trưởng ban tổ chức là Chủ tịch Quốc hội Trương Vĩnh Lễ, phó trưởng ban là Bộ trưởng Giáo dục Nguyễn Quang Trình, Bộ trưởng Công dân vụ Ngô Trọng Hiếu, Viện trưởng Viện đại học Huế, linh mục Cao Văn Luận. Đó là tổ chức cấp Trung ương, còn cấp tỉnh thì trưởng ban là tỉnh trưởng. Thông báo của ban tổ chức Trung ương cho biết lễ Ngân khánh của vị Giám mục niên trưởng Việt Nam sẽ được tổ chức vào ngày 29-6-1963 và tuy không nằm trong diện những ngày lễ của Nhà nước, nhưng vì công lao của Đức Tổng giám mục Ngô Đình Thục, dân chúng hãy xem đó như là ngày quốc lễ. Công cuộc lạc quyên được Bộ Công dân vụ xúc tiến mạnh mẽ kết hợp với các cấp hành chính, quân sự, cảnh sát và đoàn thể. Chỉ trong vòng có một tháng, trưởng ban tổ chức Trương Vĩnh Lễ đã báo cáo với Đức cha số tiền do các nhà hảo tâm và dân chúng đóng góp đã lên đến trên 20 triệu đồng. Riêng chuyến đi của Đức Tổng giám mục ra La Vang, quỹ mừng lễ Ngân khánh của địa phận Quảng Trị đã hơn nửa triệu đồng. Cũng chính chuyến đi từ La Vang trở về Huế đã làm cho Đức Tổng giám mục bất bình. Dọc theo quốc lộ, cờ Phật tung bay, lấn át cả cờ đạo Thiên Chúa. Về đến Phú Cam chiều ngày 7-5, Ngài gọi tỉnh trưởng Thừa Thiên Nguyễn Văn Đẳng, phó tỉnh trưởng phụ trách nội an thiếu tá Đặng Sỹ và đại diện chính phủ ở Bắc Trung nguyên Trung phần Hồ Đắc Khương đến quạt cho một trận ra trò. Sau đó, ông hấp tấp bay vào Sài Gòn. - Rứa! Những cái mà tôi lo xa thì bây giờ đã rõ. - Tổng giám mục mất hẳn vẻ ôn tồn của vị chủ chăn - Đáng lý dẹp Phật giáo thì chính phủ lại kỷ luật tỉnh trưởng và phó tỉnh trưởng Thừa Thiên. Linh mục Hoàng biên cho tôi một thơ dài, ông ta bất mãn chú Nhu. Chính phủ không dựa vào người theo đạo Chúa mà lại mơn trớn đạo Phật, thật lạ lùng... Cái trò tự thiêu nguy hiểm lắm! Trần Lệ Xuân bây giờ mới cất tiếng: - Thưa Đức cha, chẳng có gì nguy hiểm. Con cho đó là một vụ “rôti”. Còn những kẻ nhúng tay vào các vụ “rôti” thì phải truy tố trước pháp luật về tội sát nhân. Tôi đề nghị chính phủ ra ngay một sắc lệnh cấm chỉ những hành động tương tự với những điều khoản gắt gao. - Lệ Xuân ném giữa cuộc họp những từ ngữ dữ dội. Ngô Đình Nhu, nếp nhăn như thêm sâu trên vầng trán thông minh, hỏi vợ: - Em đã nói những câu vừa rồi với ai chưa? - Nói rồi! - Môi của Lệ Xuân cong lên - Em nói với phóng viên tờ Washinggon Post ngày hôm qua. Em nói rõ, bằng tiếng Pháp, tự thiêu là rotissage và kẻ tổ chức tự thiêu là assasin. Em nói như vậy đó. Những tên thầy chùa muốn tự “quay” thì cứ để cho chúng tự “quay”. Chúng bảo sẽ về đất Phật. Mặc kệ Phật tổ với cái món “rôti” thịt người khét lẹt, buồn nôn... Có lẽ trong những trường hợp như thế này, Lệ Xuân bộc lộ chân thật nhất con người của mụ ta. Luân cố nén cái cười mỉm, nhưng anh nghe rõ tiếng thở dài sườn sượt của Nhu. - Tôi nghĩ là chị đã quá giận. - Ngô Đình Luyện nói: nếu vấn đề không gây cấn đến mức thì Luyện rất ít tỏ rõ ý kiến trong các cuộc họp - Những từ của chị dùng sẽ là vũ khí mà những kẻ chống chúng ta trong cũng như ngoài nước, nhất định vồ lấy để đập lại chúng ta. Ở nhà, các anh chị khó hiểu tâm lý của thế giới đối với Việt Nam Cộng hòa chúng ta. Tôi tin là anh Luân nhạy cảm trước những bất lợi mà gia đình chúng ta, chế độ chúng ta phải đối phó... - Cũng có đến ba bảy đường dư luận. - Trần Lệ Xuân tiếp tục lồng lộn, không thèm ngó mặt Luyện - Dư luận bị đầu độc, chúng ta phải giải độc. Chẳng lẽ chúng ta xin lỗi những kẻ tự đổ xăng vào mình, tự châm lửa. Họ thích tự sát, họ thích tự đốt chùa của họ, chúng ta phải làm gì? Chúng ta có trói gô họ lại đâu, có đổ xăng vào người họ đâu? Mấy năm trước, Hoàng Văn Đáp cũng đã tự thiêu trước tòa đô chính, vài dư luận xấu muốn nhân đó bôi lọ chúng ta, nhưng chân lý vẫn là chân lý. Hoàng Văn Đáp chết, một oan án, thế thôi. Thằng cha Nguyễn Văn Khiết vừa tự sát, hoặc hắn bị những người khác giết giữa ngã tư Phan Đình Phùng - Lê Văn Duyệt, thêm một oan án nữa. Thế thôi. Đó là công việc của ngành cảnh sát hình sự: truy tầm thủ phạm, tống giam, đưa ra tòa, bỏ tù... Bấy nhiêu việc mà cả một bộ máy quốc gia không giải quyết được, lại phiền lòng đến Tổng thống, Đức Tổng giám mục. Người Mỹ nhìn vụ tự thiêu của Thích Quảng Đức như thế nào? Bà Lindsay Nolting nói với tôi: “Cảnh sát Nam Việt tồi quá... ” Ngô Đình Nhu đưa tay ra hiệu ngăn vợ: - Đại sứ Nolting lại nói khác với tôi. - Ông Nolting nói cái gì? - Lệ Xuân hỏi chồng một cách gay gắt. - Ông ta bảo rằng đây là một vụ chính trị nghiêm trọng. Ông ta không chê trách cảnh sát mà lo ngại về những điều kiện dẫn đến vụ tự thiêu, nhất là hậu quả của nó... - Thưa Tổng thống, thưa Đức Tổng giám mục, thưa ông cố vấn - đại tá Đặng Văn Quang đứng lên. Từ nãy giờ Quang là người duy nhất đứng lên rồi mới dám nói - Cơ quan tình báo Mỹ hình như biết trước vụ tự thiêu, bởi vì 9 giờ 30 phút hơn một chút, ông Fishell gọi điện cho tôi, nói rõ tên tuổi và pháp danh của người tự thiêu. Sau đó, ông mời tôi lại cơ quan của ông và cho xem một cuốn phim dài 25 phút ghi toàn bộ hình ảnh từ buổi lễ cầu nguyện ở ngôi chùa nhỏ đường Cao Thắng về chùa Xá Lợi. Ông ta còn cho biết một cuốn phim khác, đang in tráng quay cảnh cầu siêu ở chùa Xá Lợi. Tôi muốn trình với Tổng thống và quý vị khía cạnh đó... Nói xong, Đặng Văn Quang ngồi xuống, lấm lét ngó quanh. Nhu bỗng ngó thẳng Trần Kim Tuyến: - Bác sĩ Tuyến có nhận được một nguồn tin nào báo trước không? Tuyến tái mặt, lắc đầu lia lịa. - Còn ông Y? - Nhu hỏi rà. Y nhổm lên: - Thưa không. Luân chờ Nhu hỏi mình, nhưng Nhu lại bóp trán. - Thưa Tổng thống, thưa Đức cha... Nhu nói mà không ngó ai cả - Chúng ta cần hết sức tỉnh táo. Cái gì ở đằng sau vụ tự thiêu và nhất là cái gì ở đằng trước nó? Ta có thể nào xét vụ tự thiêu vừa rồi tách ra khỏi sự cố ngày 11-11-1960, sự cố tháng 27-2-1962 hay không? Tôi không tin là Phật giáo đủ sức khuấy động đến mức thành áp lực đối với chính phủ. Nhu móc trong túi ra một bức thư: - Tôi xin phép Tổng thống đọc bức thư của Cha Cao Văn Luận từ Mỹ gửi về, chỉ đọc những đoạn cần thiết thôi. “Ngày 16-5, tôi lên máy bay đi Mỹ với Âu Ngọc Hồ và trạm đầu tiên tôi đáp xuống là San Francisco. Tôi muốn nhắc lại một chút, ngày 14-5, tôi tham dự lễ đặt viên đá đầu tiên xây cất trường Đại học Sư phạm ở Thủ Đức, cùng với Tổng thống. Đại sứ Nolting hỏi tôi về tình hình ở Huế và tôi trả lời rằng tình hình sở dĩ gây cấn cũng có phần lỗi của chính phủ, chẳng hạn chính phủ cấm treo cờ đúng ngày lễ Phật đản trong khi các cuộc lễ bên Công giáo thì được tự do treo cờ. Ngày 15, Tổng thống gặp tôi và đã khiển trách tôi là đã chỉ trích chính phủ trước một đại sứ ngoại quốc. Tôi đã thưa với Tổng thống là tôi chỉ đưa ra một vài giải thích và thật tình tôi xem hành động của chính phủ ở Huế là bất lợi. Nhân tiện, tôi cũng bộc bạch với Tổng thống, đại ý: số giáo dân Thiên Chúa ở trong Nam chỉ vài trăm nghìn, nhờ phong trào di cư, tổng cộng ngót một triệu, tỉ lệ đó vẫn là thấp so với toàn dân mà Tổng thống và các chức vụ lớn trong chính quyền đều do người Công giáo đảm trách. Dù không có sự thiên vị nào đi nữa, mà chỉ dựa vào tài năng thì bên ngoài, người ta cũng có thể nói rằng Tổng thống thiên vị Công giáo và bạc đãi các tôn giáo khác. Mặt khác, ai cũng thấy từ khi Cụ cầm quyền thì nhà thờ mọc lên khắp nơi, các nhà thờ bị phá hủy trong chiến tranh đều đã được tái thiết gần hết, cả những nơi không có bao nhiêu giáo dân cũng có nhà thờ đồ sộ. Trước đó nữa, tôi yết kiến Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình, Ngài chia sẻ với tôi những lo âu tương tự. Nhưng Đức cha Ngô Đình Thục thì lại bảo tôi: Cha cứ yên tâm, các phong trào chống đối của dân bất quá như ngọn lửa rơm bùng lên một chốc rồi tắt ngay, có chi phải sợ. Những điều tôi băn khoăn được xác nhận ngay tại San Francisco. Ông chủ tịch tổ chức Asia Foundation vốn thiện cảm với Việt Nam Cộng hòa từ lâu, trong bữa cơm thân mật đã nói nỗi lo lắng của ông với tình hình Huế và Sài Gòn. Từ San Francisco tôi đến Hoa Thạnh Đốn. Đại sứ Trần Văn Chương đón tôi tại phi trường và cùng ngồi xe với tôi về tòa đại sứ, ông Trần Văn Chương hỏi qua về tình hình trong nước và báo cho tôi biết những khó khăn mà đại sứ Việt Nam đang gặp phải ở Mỹ. Đại sứ hàm ý trách cứ tôi đã không dùng ảnh hưởng của mình tác động với Tổng thống và khi biết rằng quan điểm của tôi không được Tổng thống nghe theo thì đại sứ thở dài. Nhân vật Mỹ đầu tiên tôi gặp là Thượng nghị sĩ Mike Mansfield, tiểu ban Montana. Ông Mansfield là người rất có thế lực thuộc đảng Dân chủ cầm quyền, ông lo lắng cho chế độ của Tổng thống ta khó qua được cơn sóng gió. Ông nói rõ dư luận Mỹ trước năm 1960 rất có thiện cảm với Tổng thống ta. Nhưng sau cuộc bầu cử Tổng thống ngày 9-4-1961, báo chí Mỹ bắt đầu chỉ trích chế độ Việt Nam Cộng hòa và cũng bắt đầu dùng danh từ “Nhà độc tài” để mô tả Tổng thống. Ông Mansfield cho rằng cuộc bầu cử đó là “gian lận” - gian lận không cần thiết vì uy tín của Tổng thống trong nước đảm bảo cho Tổng thống đắc cử dễ dàng. Thượng nghị sĩ Mansfield cho tôi biết rằng hiện nay chẳng những dư luận báo chí Mỹ mà phần lớn các nhân vật trong chính phủ Mỹ đều cho rằng chế độ Việt Nam Cộng hòa là gia đình trị, Công giáo trị, không đoàn kết được toàn dân, đẩy những kẻ đối lập quốc gia đến bước đường cùng phải chống đối bằng bạo động, do đó không thể thắng được Cộng sản. Chính phủ Mỹ cũng như dân chúng Mỹ hết sức lo lắng và thất vọng. Ông khuyên tôi nên trình bày lại với Tổng thống hiểu chiều hướng của dư luận Mỹ, và nếu có thể, nên giúp Tổng thống thay đổi đường lối, nhân sự thì mới được sự ủng hộ của Mỹ, bằng không rất có thể Mỹ sẽ bỏ rơi Tổng thống, nếu không phải là bỏ rơi Việt Nam. Tôi cố gắng biện hộ cho Tổng thống, trả lời rằng theo chỗ tôi thấy thì không có nạn cuồng tín tôn giáo tại Việt Nam lúc này, và cũng không có sự xung đột tôn giáo nào giữa Phật giáo - Công giáo. Có thể có những mâu thuẫn hiềm khích giữa chính quyền và Phật giáo. Tổng thống không mấy tin tưởng Phật giáo và Phật tử tích cực chống Cộng cho nên dè dặt đối với Phật giáo. Tôi cũng trình bày về chuyện cấm treo cờ, biến cố ở Huế, vừa đưa ra lối giải thích cùng quan điểm của tôi. Những giải thích và biện hộ của tôi xem chừng không đủ sức thuyết phục được Thượng nghị sĩ Mansfield. Trước khi chia tay, Thượng nghị sĩ Mansfield nhắc nhở lần nữa rằng nếu Tổng thống không có những thay đổi chính trị sâu rộng, nhằm đưa ra một chế độ dân chủ thật sự kết hợp nhiều thành phần chính trị dị biệt, thì chính phủ Mỹ cũng như dân chúng Mỹ không thể tiếp tục ủng hộ Tổng thống lâu hơn được nữa. Lúc bấy giờ đảng Dân chủ của Tổng thống Kennedy đang nắm quyền và ông Mansfield là một lãnh tụ có nhiều uy tín của đảng này. Lập trường cũng như ý kiến của ông có thể được coi như lập trường không chính thức của đảng và chính phủ dân chủ. Do đó những lời ông Mansfield nói ra làm tôi lo lắng nhiều lắm. Tôi có cảm tưởng là người Mỹ đã hết tin ở Tổng thống ta và đang nghĩ đến một thay đổi lớn lao, không phải chỉ là thay đổi nhân sự hay chính sách. Tôi muốn biết thêm quan điểm của đảng Cộng hòa đối lập, do đó tôi thu xếp gặp Thượng nghị sĩ Dirksen, một lãnh tụ Cộng hòa lão thành. Ông Dirksen cũng cho tôi biết những ý kiến tương tự như ông Mansfield, nói rằng dân chúng Mỹ, các chính sách Mỹ không phân biệt Cộng hòa hay Dân chủ đều tỏ ý thất vọng với chế độ Tổng thống, và coi như sự ủng hộ của Mỹ đối với Tổng thống nên được chấm dứt càng sớm càng tốt. Báo chí Mỹ có vẻ đã thổi phồng những xung đột giữa chính phủ Việt Nam Cộng hòa và Phật giáo với một dụng ý nào đó tôi không hiểu rõ lúc bấy giờ. Trong lúc tôi đang ở Hoa Thịnh Đốn, thì có tin về những cuộc lễ cầu siêu cho các nạn nhân trong vụ đổ máu tại đài phát thanh Huế và lễ cầu siêu đã biến thành biểu tình ở Huế và Sài Gòn, ngày 30-5, báo chí Mỹ đăng những tin tức về những hành động đàn áp Phật giáo, như quân đội hay các lực lượng an ninh canh gác các chùa ở Huế, cúp điện trong khu chùa Từ Đàm. Trong thời gian này, tôi gặp ông Robert Kennedy, bào đệ Tổng thống Kennedy, hiện là Bộ trưởng Tư pháp; ông Kennedy chỉ trích những hành động độc tài đàn áp đối lập, kỳ thị tôn giáo của Tổng thống Diệm. Ông nói rằng nếu tình trạng này không thay đổi, thì chính phủ Mỹ không thể tiếp tục ủng hộ Tổng thống Diệm được nữa, vì dư luận dân chúng và Quốc hội Mỹ sẽ làm áp lực buộc chính phủ Mỹ bỏ rơi Tổng thống Diệm, hoặc bỏ rơi hẳn Việt Nam. Trong cuộc họp báo ngày 22-5 về Việt Nam, Tổng thống Kennedy, đã có những lời lẽ chỉ trích chính phủ của Tổng thống Diệm, và một câu nói của ông như một lời giận dỗi: Mỹ sẽ rút hết quân đội và chấm dứt viện trợ cho Việt Nam bất cứ lúc nào chính phủ Việt Nam yêu cầu. Trả lời cho báo chí, ông ngụ ý là Việt Nam muốn chiến thắng Cộng sản, thì cần có những thay đổi chính trị sâu rộng, từ căn bản. Trong cuộc gặp gỡ với Bộ trưởng Tư pháp Robert Kennedy, tôi được nghe ông nhắc lại những luận điệu này, và ông nói rõ hơn là Tổng thống Diệm phải mở rộng chính phủ, lập Thủ tướng, tăng quyền cho các Bộ trưởng, kêu gọi các thành phần chính trị đối lập tham gia tân chính phủ, chấm dứt những sự bắt bớ đàn áp vì lý do chính trị hay tôn giáo. Giọng ông có vẻ gay gắt, khi nhắc đến những tin tức quanh việc đàn áp Phật giáo. Ông châm biếm rằng không nên vì cái chuyện cờ quạt mà làm mất lòng 80% dân chúng Việt Nam. Ông đề cập đến ông bà Nhu và tuy ông không nói rõ, song ngụ ý rằng cách hay nhất để xoa dịu dư luận Việt Nam cũng như Mỹ, là Tổng thống nên cho các ông Nhu, ông Cẩn và bà Nhu rời khỏi chính trường trong ít lâu, hay đi du lịch thế giới với tư cách cá nhân. Đến đây thì tôi không thể nghi ngờ gì được nữa. Tôi hiểu ảnh hưởng của ông Robert Kennedy với Tổng thống Kennedy. Vậy quan điểm của ông em cũng có thể được coi như quan điểm của ông anh. Mặc dù ông Robert Kennedy không nói ra, nhưng tôi hiểu ý ông ta muốn dành cho Tổng thống Diệm một cơ hội cuối cùng, muốn tôi khuyên Tổng thống Diệm nên cải tổ chính trị sâu rộng để tránh khỏi bị Mỹ bỏ rơi. Đến nơi nào tôi cũng được nghe những dư luận tương tự. Những sinh viên Việt Nam mà tôi gặp ở các nơi cũng tỏ vẻ bất mãn với Tổng thống Diệm, có lẽ vì bị ảnh hưởng của dư luận Mỹ nhiều hơn là do chính kiến của họ. Dĩ nhiên là tôi cố gắng bênh vực Tổng thống Diệm, nhưng tôi chẳng thuyết phục được ai cả... ” Không khí phòng họp lặng như tờ, cái biến đổi duy nhất là sắc mặt của từng người. Người thay đổi sắc mặt nhanh nhất là Lệ Xuân và người hầu như không thay đổi là Nhu. Luân cố gắng chọn cho mình một số cử chỉ thích hợp. Thật ra, anh quá cẩn thận. Hầu như chẳng ai để ý đến anh. Những người như Trần Kim Tuyến, Nguyễn Văn Y có mỗi bận tâm riêng. Bức thư của linh mục Cao Văn Luận thật tàn nhẫn. Và, Ngô Đình Nhu còn tàn nhẫn hơn: - Chưa hết! Thư của linh mục Luận còn một đoạn, tôi muốn Tổng thống, Đức cha và mọi người biết. Tôi xin đọc tiếp: “Tôi lên Nữu Ước và gặp một chuyện bất ngờ đau lòng. Giáo sư Buttinger, trước là Chủ tịch Hội New Land Foundtion (1) và bây giờ là Chủ tịch Hội “Những người Mỹ bạn Việt Nam” tỏ ra chán nản thất vọng về Việt Nam, về Tổng thống của ta và không còn sốt sắng giúp đỡ cho ta như trước nữa. Giáo sư Buttingger gợi ý ta nên thay đổi Hiến pháp, bớt quyền Tổng thống, chỉ định Thủ tướng và cho các Tổng Bộ trưởng có thực quyền gồm những nhà chính trị có uy tín và tốt nhất nên mời các chính sách đối lập tham gia tân chính phủ. Giáo sư Buttinger nhấn mạnh với tôi rằng chính phủ Việt Nam hãy chấm dứt cho được sự kỳ thị đối với Phật giáo. Cũng tại Nữu Ước, gặp ông Fishell từ Việt Nam sang có lẽ do một công cán đặc biệt nào đó. Ông rời Việt Nam sau tôi mấy hôm và có nhiều tình hình hơn tôi, tất nhiên là tình hình không mấy lành mạnh đối với chúng ta. Ông Fishell không giấu giếm với tôi rằng ông là một trong những người lãnh đạo cấp cao của Trung ương tình báo Mỹ. Từ Michigan, ông Fishell hấp tấp tìm tôi ở Nữu Ước bằng một chuyến bay riêng và chúng tôi nói chuyện từ 14 giờ đến 24 giờ. Ông Fishell nói toạt với tôi rằng, “nếu Tổng thống Diệm không chịu thay đổi đường lối chính trị và cải tổ nội các, thì nội trong năm 1963 này, Mỹ sẽ tìm cách loại bỏ Tổng thống Diệm ra khỏi sân khấu chính trị bằng nhiều biện pháp, mà không loại trừ biện pháp xóa ông Diệm về mặt thể chất... ” - Quá quắc lắm! - Diệm giận dữ đấm tay lên bàn - Tôi không phải là bù nhìn, không phải là tôi tớ của Mỹ. Việt Nam Cộng hòa không phải là một bang của Mỹ... Chú Nhu giao thư đó cho tôi, tôi sẽ gọi đại sứ Nolting đến và chính thức gửi kháng thư sang cho Tổng thống Mỹ... - Hình như linh mục Luận hơn thổi phồng. Sự thể có lẽ không giống như thế. - Tổng giám mục nói mà ai cũng có cảm giác là ông đang bày tỏ hy vọng hơn là phát biểu một ý kiến. Trần Lệ Xuân nói gần như quát: - Nếu tôi bảo Tổng thống Mỹ Kennedy hãy cho ông Robert Kennedy thôi chức Bộ trưởng Tư pháp vì là em của Tổng thống thì thế nào? Lố bịch đến thế là cùng! Trần Kim Tuyến rụt rè báo: - Theo tin vừa nhận được, Paul Maurice Katterburg, trợ lý của Fishell và Colby vừa bí mật sang Sài Gòn. - Hắn là ai? - Diệm hỏi. Tuyến lúng túng, liếc cầu cứu Đặng Văn Quang và Nguyễn Văn Y, nhưng hai người kia đều khẽ lắc đầu. - Anh Luân có biết tay này không? - Nhu hỏi. - Biết sơ sơ qua một vài tài liệu của ông ta. Katterburg sinh năm 1922, người Bỉ, di cư đến Mỹ năm 1943, trước là nhân viên OSS nay là CIA, chuyên viên các vấn đề Đông Dương và Nam Dương, một trong những tác giả cuộc lật đổ Soekarno. Không ai nói, nhưng gần như mọi người trong gian phòng đều cùng thốt một lượt trong tư tưởng: Vậy là đã rõ! - Có lẽ mọi người chờ ý kiến của anh Luân. - Nhu bảo. Trong tất cả những người có mặt, Luân bỗng trở thành một “cây đinh”. Anh biết tầm quan trọng của những ý kiến mà anh sắp phát biểu cùng với tính chất phức tạp của nó. Nói cái gì đây? Nói như thế nào? Nhưng, dẫu sao cũng không thể không nói. Anh đứng lên với vẻ trịnh trọng, nhưng Nhu đã ra hiệu cho anh ngồi và Diệm cũng bảo: - Cháu Luân cứ ngồi mà nói! - Trước hết, tôi không cho chúng ta phải đối phó với vấn đề Phật giáo mặc dù sự chống đối của Phật giáo đang là trung tâm của các rối ren. Vì lẽ đó, tôi nghĩ là chúng ta phải hết sức thận trọng vói những cái mà tôi tạm gọi là “hữu hình” để ngăn ngừa cái mà tôi cũng tạm gọi là “vô hình” Phật giáo hiện nay hết con chỉ là biểu tượng của hoạt động một số nhà sư nào đó, một số chùa chiền nào đó, ở một địa phương nào đó. Nếu chính phủ tập trung đối phó một số nhà sư, một số chùa chiền... thì cái kết quả sẽ làm cho tình thế nghiêm trọng hơn, sự bất mãn lan rộng hơn và xét cho cùng, chính chúng ta bị dẫn dắt vào một trận đồ đầy đường ngay ngõ tắt, sinh nở ra nhiều đối thủ mới mà sau lưng họ là hàng triệu con người. Bức thư của cha Luận không có gì bất ngờ đối với chúng ta. Tôi đã từng nghe anh cố vấn nhiều lần nhắc đến mặt trái của chính sách Mỹ đối với Việt Nam Cộng hòa. Tuy nhiên, cái mà tôi chưa tự giải đáp được là vai trò của cha Luận và cuộc gặp gỡ giữa cha Luận với giáo sư Fishell phải chăng hoàn toàn ngẫu nhiên. Tôi xin nói rõ hơn: những chính sách Mỹ, Bộ trưởng Tư pháp Mỹ, sinh viên Việt Nam ở Mỹ phát biểu những lời mà cha Luận ghi trong thư là do họ tự nói hay cha Luận mớm cho họ. Đáng lý, với tư cách là một con chiên, tôi không có quyền đi sâu vào mối quan hệ của hàng giáo phẩm, của các đấng bề trên, nhưng tôi buộc lòng phải nghĩ đến những ý muốn không lấy gì làm kín đáo lắm của cha Luận qua những hoạt động ở Viện đại học Huế, những hoạt động mà cha Luận có lẽ cảm thấy đôi điều bị gò bó kể từ khi Đức cha được giao cai quản Tổng giáo phận... Ngô Đình Thục lắng nghe đoạn sau của Luân, thỉnh thoảng ông gật đầu đồng tình. - Người Mỹ nhắc đi, nhắc lại yêu cầu mở rộng cơ cấu chính trị. Ta hiểu cái chứa đựng bên trong của yêu cầu đó là gì? Chắc chắn họ muốn vây quanh Tổng thống là những Phan Quang Đán, Phan Huy Quát, Trần Văn Hương, Nguyễn Trân, Nghiêm Xuân Thiện, Phan Khắc Sửu... Chắc chắn là họ muốn thay đổi một số bộ phận bằng các Bộ trưởng tốt nghiệp ở Michigan và quan trọng hơn, giao quyền binh cho một số sĩ quan được họ đào tạo. Họ nhắc đến chế độ đại nghị - một Tổng thống ít quyền với một Thủ tướng nhiều quyền và họ nói toạt ra là phải cho anh chị Nhu lưu vong. Tức là sẽ giải tán đảng Cần Lao, Phong trào cách mạng quốc gia, Thanh niên và Thanh nữ Cộng hòa, bỏ Sở Nghiên cứu chính trị của bác sĩ Tuyến, Trung tâm tình báo mà đại tá Đặng Văn Quang sắp nhận chức thành một chi cục của Trung tâm tình báo Mỹ. Tướng Paul Harkins chứ không phải tướng Lê Văn Tỵ là Tổng tham mưu trưởng... Tôi quên một ý: thay đảng Cần Lao bằng đảng Đại Việt... Tất cả để sửa soạn cho một cái gì? Cho một bộ máy cai trị “kiểu Mỹ” tại Việt Nam Cộng hòa và cho một lực lượng Mỹ chưa ai đoán được số quân tràn ngập lãnh thổ chúng ta và quân đội Việt Nam Cộng hòa sẽ trở lại thời kỳ của Pháp, nghĩa là chỉ đóng vai trò quân bổ túc, lính partisan. Tôi không đi quá xa trong suy luận, nhưng tôi tin ở những cơ sở để có những suy luận như vậy... Luân dừng ngang đó. Anh phát ra một viễn tượng đối với gia đình Ngô Đình Diệm thật rùng rợn, mặc dù những người có mặt hôm nay ai cũng linh cảm mức này hay mức khác hình ảnh tang tóc ấy. Ngô Đình Diệm vừa đập bàn hồi nãy, đang ngã người trên chiếc ghế bành, gương mặt đăm đăm. Có lẽ ông thấm thía về những thứ quyền uy mượn tạm và khi người chủ nợ muốn lấy lại, ông chỉ còn trơ trọi cái thân xác. Họa may còn Đức Chúa đoái hoài đến ông. Nhiều lần Diệm viết thư riêng cho Hồng y Spellman và bao giờ cũng nhận được thư trả lời đầy nồng nhiệt. Nhưng, lần hồi ông Diệm hiểu rằng Hồng y Nữu Ước không phải là người quyết định chính sách của Nhà Trắng. Trong phút chốc, những kỷ niệm cũ vụt qua giống như một đoạn phim thời sự mà thuở nền điện ảnh còn phôi thai: động tác của con người “cà giật” theo tốc độ của kỹ thuật quay phim lúc ấy, hình ảnh cũ bỗng trở nên kệch cỡm, đầy tính hài hước. “Nước Mỹ, chỉ coi lợi ích của nước Mỹ là quan trọng nhất” - Diệm chua chát nghĩ thầm. Và tự nhiên, ông nhớ liền đến Magsaysay và cái chết vì rơi máy bay ở đảo Cébu. Cái giá mà “người hùng” Phi Luật Tân phải trả, khi muốn nới chiếc thòng lọng thắt cổ của chính phủ Mỹ. Ông lại nhớ Lý Thừa Vãn, một “người hùng” khác của Đại Hàn đang sống lưu đày có lẽ còn tệ hơn Nã Phá Luân trên đảo Saint Hélène. Ông cũng nhớ đến Tưởng Giới Thạch. Người Mỹ hứa “giải phóng Hoa lục” và Tưởng thống chế từng tâm sự với ông cái ngày “ký khai đắc thắng mã đáo thành công”, cờ Thanh thiên bạch nhật rợp bóng Thiên An môn. Tổng thống Eisenhower há không từng nhắc ông công cuộc “Bắc tiến” thu hồi cả giang sơn, duyệt binh giữa Hà Nội, đó sao? Lãnh tụ cả nước Việt Nam - Diệm chưa bao giờ nghi ngờ khả năng trong tầm với ấy của ông. Lãnh tụ toàn Đông Dương - chẳng có gì phải bàn cãi. Lãnh tụ Nam Á, phải đâu là viễn vông. Diệm trở mình, chiếc ghế bành có lẽ lâu ngày không tra dầu mỡ, bật lên tiếng “cót két” khô khan. Giấc mộng bá chủ thu nhỏ đến mức ngang với chiếc ghế bành và hình như để giữ cho chiếc ghế bành được nguyên vẹn không phải là việc dễ. - Tôi không phản đối phân tích của anh Luân, - Trần Lệ Xuân cất tiếng lanh lảnh - nhưng chữa cháy phải biết dập ngọn lửa nơi phát ra chủ yếu. Phải xóa ngay cái gọi là vấn đề Phật giáo! Đây là lúc chúng ta cần chứng minh với người Mỹ rằng chúng ta là chủ, chúng ta nắm vững tình hình, chúng ta đủ sức đè bẹp mọi phản kháng. Có như vậy, người Mỹ mới bắt buộc phải đánh giá lại thực trạng Việt Nam Cộng hòa từ những nguyên tắc căn bản nhất. Cả nhà còn nhớ khi Tổng thống về nước nhận chức Thủ tướng, quân trong tay tướng Hinh, lực lượng giáo phái cát cứ, quân đội Pháp còn mấy chục vạn, Cộng sản chưa bị đánh tan. Thế mà chúng ta đã thắng. Còn bây giờ? Thật lạ lùng nếu tự dưng chúng ta cho mình vào thế yếu và lại vào thế yếu trước các “lũ trọc” chỉ biết có “mô Phật” và chỉ biết có tự “rôti”. Chúng ta tự kỷ ám thị và cái đó là cái yếu nguy hiểm hơn hết. Phải hành động! Tổng nha Cảnh sát đừng ngủ gật nữa. Bộ Tổng tham mưu đừng tán gẫu nữa. Ông Tuyến, nếu cần, hãy đeo theo vài cặp kiếng để moi cho ra những tên đầu sỏ phiến động. Ông Quang hãy làm cho Trung ương tình báo của ông thành một cơ quan biết trước các mưu toan, kể cả mưu toan của CIA, chứ không phải chỉ làm báo cáo cho Tổng thống khi mọi việc đã rành rành. Hãy chỉ thị cho ông Mẫu tiến hành một cuộc phản kích thật rộng trên thế giới. Tôi nói hơi vô lễ, Tổng thống và Đức cha chắc không bằng lòng, cha mẹ tôi đảm đương trọng trách ngoại giao nhưng gần đầy lại giao động. Cũng như chú Luyện, tôi nói thẳng, chú làm đại sứ lưu động còn quá tài tử... Tại sao không cho phép giáo dân phải biểu tình, tại sao không biểu dương lực lượng của Thanh niên, Thanh nữ Cộng hòa để dằn mặt bọn thầy chùa? Tại sao không thiết lập tòa án để xử các vụ giết người bằng hình thức tự thiêu? Tại sao không cách chức Viện trưởng Đại học Huế của Cha Luận. Tôi đồng ý với anh Luân, Cha Luận là một tên phản trắc, một tên làm mủ, làm nhọt, một tên tình báo ăn tiền của Mỹ. Ông ta thèm chức Giám mục mà không được. Thế là ông ta trở quẻ. Tại sao Tổng thống không sử dụng quyền mà quốc hội cho phép trong tình trạng khẩn cấp, mở liền các phiên xử của toàn án quân sự đặc biệt, tổng tính sổ từ vụ Bình Xuyên, vụ Nguyễn Chánh Thi, vụ Phạm Phú Quốc. Tại sao?... Khi bắt đầu nói Lệ Xuân ngồi, nói một lúc mụ đứng dậy và trước mắt Luân, là một người đàn bà không còn một nét mỹ miều nào, sao mà giống những mô hình Võ hậu, Lữ hậu, Tây thái hậu trong tiểu thuyết và trên sân khấu đến thế! - Còn anh! - Lệ Xuân gần như điểm mặt Ngô Đình Nhu - Anh đã thấy chủ trương nhượng bộ của anh mang đến cái gì rồi đó. Trước kia, với tướng Hinh, với Bảy Viễn và với Nguyễn Chánh Thi, anh cũng chủ trương nhượng bộ. Nếu nhượng bộ, tất cả chúng ta không lưu vong thì cũng vào khám. Làm mạnh, và mạnh hơn nữa. Tình hình đòi hỏi như vậy! Lệ Xuân ngồi xuống, mặt mụ sát khí đằng đằng. Lệ Xuân thu được kết quả trông thấy. Diệm bắt đầu tươi tỉnh. Nhu tuy vẫn đắn đo nhưng anh ta không còn rít thuốc liên hồi, thói quen chứng tỏ anh ta đã có chủ kiến rõ ràng. Luân không nói gì hết và anh cũng biết, Trần Lệ Xuân không muốn đương đầu với anh. Cuộc họp giải tán, Nhu ngồi nán lại khá lâu. Luân tin rằng nội hôm nay, một loạt chỉ thị sẽ được ký. ° Về đến nhà, Luân gặp Saroyan ngồi chờ anh ở phòng khách. Dung bận công việc ở Tổng nha. - Em đã báo với bà đại tá và bà đại tá bảo em gặp anh. - Saroyan cầm tay Luân khá lâu. - Saroyan ngồi xuống! - Luân bảo, Saroyan gặp anh nhất định vì một việc gì đó hết sức quan trọng. Và đúng như vậy. Saroyan báo cho Luân biết một cuộc họp tuyệt mật của một số sĩ quan cấp tướng tại một nhà nào đó, có Fishell, Katterburg và James Casey. Đặc biệt dự họp có cả một nhà sư. Saroyan không biết nội dung cuộc họp, nhưng cô đoán rằng họ bàn những việc liên quan đến chế độ ông Diệm mà với cô, tức là liên quan đến Luân. - Em biết được do Fishell về nhà quá muộn. Em bỗng nhớ đến anh và dọ thử: Tại sao gần đây anh ít gặp đại tá Luân, Fishell trả lời: Gã đại tá này dấn quá sâu vào gia đình ông Diệm... - Em sắp rời Nam Việt, không thể tiếp tục nấn ná được nữa, Fishell dự kiến vào cuối năm này sẽ làm lễ thành hôn với bà hoàng xứ Ả Rập, hôn lễ chính thức cử hành tại Ryad. Hôm nay, ngày mà sự ly dị giữa em và Fishell bắt đầu có hiệu lực về mặt pháp lý. Em trở thành người tự do hoàn toàn nhưng đã không phải là vợ một Fishell thì em không thể có mặt ở Sài Gòn. Anh cũng biết, tình báo Mỹ không cho phép em kéo dài thời gian tại đây. Vậy là cái mà em hết sức mong muốn được giúp đỡ anh không thể thực hiện được. Em đã lấy xong vé máy bay, về Koweit một thời gian rồi sau đó sẽ tính. Nói cho đúng, Fishell lấy vé máy bay và quyết định ngày em phải rời Sài Gòn; có thể coi đây như một quyết định trục xuất. Tất nhiên là Luân hiểu vì trước kia, Tiểu Phụng chỉ vương vấn với Luân vào giây phút cuối cùng mà phải nhận một cái chết thảm khốc. - Bao giờ thì Saroyan lên máy bay?... - Luân hỏi. - Chiều ngày mai. - Saroyan đến đây Fishell có biết không? - Biết, em có báo cho hắn. - Fishell bảo sao? - Hắn bảo: Cô đã trở thành người tự do, nhưng phong tục Việt Nam không cho phép đại tá Luân lấy hai vợ. Hắn cười nham nhở. Hắn bảo: John Hing thích cô nhưng cũng thích trong những giờ hạn định và cô đã tát ông ta rồi. Cô cứ đến từ biệt Nguyễn Thành Luân, tôi không ngại cô sẽ giao cho Nguyễn Thành Luân những tài liệu gì đó thuộc công vụ của tôi, bởi vì những gì tôi biết thì Nguyễn Thành Luân cũng biết, thậm chí đôi cái về Việt Nam còn biết hơn tôi! - Saroyan đã thu xếp xong hành lý chưa? - Xong, và đã chuyển ra sân bay, trừ một túi nhỏ. - Thế thì, để đề phòng mọi bất trắc, tôi muốn Saroyan ở đây với chúng tôi và chiều mai, Dung và tôi sẽ tiễn Saroyan ra sân bay. Tôi rất ngại những đột biến có khi từ Fishell mà có khi từ người khác. - Luân bảo Saroyan, giọng âu yếm. - Em sẽ làm theo ý anh mặc dù bây giờ việc em còn hay mất gần như vô nghĩa đối với em. Em mong muốn được ở bên cạnh anh, giúp anh, dĩ nhiên không thể với tư cách là vợ hay tình nhân, nhưng điều đó không có gì quan trọng. Trong thời gian vài năm sống ở Việt Nam, em khám phá ra một điều: giá mà người Ả Rập của em có được những hiểu biết như dân tộc anh... Rất tiếc, em không có khiếu chính trị và chắc chắn không thể mang về cho người Ả Rập điều mà họ cần... - Saroyan không thấy mấy hôm nay đường phố Sài Gòn tràn ngập các nhà sư? - Em thấy. Thoạt đầu em cũng nghĩ người Việt giống người Ả Rập, cũng cuồng tín. Nhưng khi đọc báo và xem ảnh về cái chết của nhà sư Thích Quảng Đức, em hiểu khác. Có thể có một số nhà sư nào đó cuồng tín, cũng có thể có một số nhà sư nào đó lợi dụng đạo Phật vì mục đích chính trị hay tài chính, hay tệ hại hơn, nhưng số đông lại biết điều khiển tín ngưỡng của mình vào những mục tiêu. Chỉ có điều em cảm thấy Fishell và những người của hắn ta thủ lợi đầy đủ hơn hết trong các sự biến hiện nay. Với anh, em mong đừng để rơi vào trong cơn hỗn loạn này. Anh phải sống, sống cho Thùy Dung và xin phép anh, sống cho em! Saroyan khóc. Luân ngồi chết trân, tâm trạng rối bời. Tiếng còi ôtô gọi cửa. Dung vào nhà, ôm choàng Saroyan... “Một cuộc họp gồm một số tướng, một nhà sư, các nhân vật Mỹ có cỡ... Đạn đã lên nòng. Ngón tay xạ thủ đã đặt vào ổ cò. Chỉ còn từ từ siết cò... ” - Luân vừa ngó hai phụ nữ đang ríu rít với nhau vừa nghĩ đến một ngày chắc không xa lắm. Anh bỗng như choáng ngợt. Sự kiện - một khi bùng nổ - cao rộng hơn hiểu biết của anh và chắc chắn tác động của anh, nếu có, cũng chỉ là vài chi tiết... Đây là vấn đề của Trung ương, của những nhà chiến lược lớn và có lẽ, là vấn đề của quần chúng... Mâu thuẫn nội bộ kẻ thù gần như khó điều hòa. Trong cơn hỗn loạn, anh phải làm gì, có thể làm gì, làm với anh, làm cách nào? Chưa bao giờ Luân khốn khổ như hiện nay: Đứt liên lạc với cấp trên. Sa - con thoi nối liền giữa anh với lãnh đạo - bỏ hẹn. Anh cố theo bản nhắn tin của đài Hà Nội, đài Giải phóng, nhưng không bắt được ám hiệu. Mục rao vặt trên báo hằng ngày cũng không thấy một mẩu nào... Anh đã mạo hiểm gọi điện lại bác sĩ Tạ Trung Quân - nơi Sa làm việc - và không phải Sa mà một cô y tá trả lời. Vả lại, anh không biết tên mà Sa đang dùng, cho nên đành gác máy. Trong cái nôn nả chung, Luân còn yêu cầu miệng: anh muốn gửi đứa con của Mai lên Nam Vang để ra Hà Nội - anh đã có địa chỉ của nó. Dung muốn đưa nó về ở chung nhà, song Luân không chịu: biết đâu, chính nhà anh cũng sẽ xáo trộn? Trước khi cùng Dùng vào phòng riêng, Saroyan chợt tươi tỉnh. - Anh đừng buồn. Em và Dung sẽ tính... Không phải không có cách. Nhưng, - Saroyan lại sa sầm mặt - có khi em không còn là em nữa... Luân ngồi thừ mãi... Anh không thể nào nghe được cuộc nói chuyện ở nhà riêng tướng Mai Hữu Xuân - giữa ông ta với trung tá Hùng, con người mặt choắt, cằm phất phơ vài sợi lông về số phận của Saroyan. - Saroyan sẽ rời Sài Gòn bằng chuyến thường lệ của hãng hàng không Pan American vào 4 giờ chiều mai - Tướng Mai Hữu Xuân vừa nhả khói ông píp, vừa bảo trung tá Hùng đang đứng nghiêm. - Nghĩa là anh còn... - Tướng Xuân vén đồng hồ tay - anh còn 24 tiếng đồng hồ để làm cái việc mà tôi cần và ông Fishell thì không phản đối - không phản đối nếu anh thực hiện bằng cách nào đó không thể tạo cớ để ông ta phản đối... Mặt trung tá Hùng như choắt thêm. Trong đầu hắn ta vụt qua một loạt phương án quen thuộc. Song với Saroyan thật khó... Cô ta ở chung nhà với Fishell và nhà do quân cảnh Mỹ gác. Cô ta ra đường đi xe của Fishell và vẫn có một thằng bảo vệ người Mỹ da đen ngồi sầm sầm đó, dù cho cô ta và Fishell đã ly dị. - Ông Fishell không có mặt ở Sài Gòn đêm nay và trọn ngày mai... - Xuân nói - Nhưng, tôi khuyên anh đừng chọn nhà Fishell, vì, như thế, quân cảnh Mỹ sẽ nổ súng và bọn anh sẽ bị khử tại chỗ hoặc sau đó, liên lụy đến tôi. Vả lại, theo tôi biết Saroyan đang ở nhà đại tá Nguyễn Thành Luân. Tôi cũng khuyên anh đừng mò đến đó. Tổng nha Cảnh sát rải một lô công an chìm canh giữ nhà đại tá, nhà đại tá lại cùng một đường phố với nhà riêng của đại sứ Nolting, chung quanh có khá nhiều nhà riêng các đại sứ nước ngoài, cạnh Hội Việt - Mỹ... Nên nghĩ cách khác! - Ngày mai, ông Fishell không tiễn Saroyan ra sân bay? - Hùng hỏi. - Tất nhiên! Giờ máy bay cất cánh, ông Fishell mới bắt đầu cuộc viếng thăm xã giao tướng Tôn Thất Đính tại nhà riêng của tướng Đính trên Đà Lạt. Trung tá Hùng xin phép ngồi xuống ghế, hút thuốc. - Khử con mụ Saroyan không khó, nhưng nếu vì đó mà đụng đến thằng Nguyễn Thành Luân và con Thùy Dung thì sao? - Hùng hỏi. Mai Hữu Xuân lắc đầu: - Chưa phải lúc... - Vậy thì khó... - Tất nhiên là khó... Ngay với Saroyan, anh cũng phải cân nhắc. Fishell sẽ làm to chuyện nếu anh hé ra một dấu hiệu nhỏ rằng Saroyan chết vì bị ám hại chứ không vì tai nạn. Fishel truy lùng và anh không trốn thoát. Anh sẽ bị xử bắn! Mai Hữu Xuân nói chuyện ấy bằng một giọng đều đều như ông ta trao đổi với trung tá Hùng về một buổi giải trí, một cuộc dạo mát. Trung tá Hùng vân vê sợi lông càm... - Tôi cần khóa mồm Saroyan. Chắc chắn Fishell cũng cần, theo yêu cầu khác... Fishell ngại Saroyan lật tẩy các vụ cưới vợ của ông ta - nghề tình báo buộc ông ta luôn luôn đổi vợ và cái quan trọng đối với Fishell lại là quốc tịch của vợ, chứ không phải vợ... Xuân tiếp tục đi lại trong phòng. - Còn tôi, tôi cần vì Saroyan thân với Nguyễn Thành Luân. Tôi không sợ Saroyan cung cấp tin tức cho Luân - Luân hiểu trăm lần nhiều hơn Saroyan về các loại “thâm cung bí sử” của Sài Gòn, Hoa Thạnh Đốn... Nhưng, Saroyan nhất định sẽ có chồng. Giả tỷ mụ ta lấy một nhân viên cao cấp ở Bộ ngoại giao Mỹ chẳng hạn, rồi lại lộn sang Sài Gòn, anh nghĩ thế nào về chỗ dựa của Luân? Tôi không đoán suông đâu. Tôi biết chắc, chẳng bao lâu, Saroyan sẽ là phu nhân của Vụ trưởng Vụ Đông Nam Á Bộ Ngoại giao Mỹ, nếu không phải là phu nhân của một nhân vật còn ghê rợn hơn - tướng Jones Stepp, chỉ huy phó các vấn đề an ninh, quân sự thuộc Ngũ Giác Đài, đặc trách châu Á và Thái Bình Dương: ông ta góa vợ và đã ngỏ lời xin cưới Saroyan... Giữa hai chiếc gường, Saroyan đang chọn - chọn vì thằng Luân... - Có thể tôi đánh tỉa được. Có thể không. Điều kiện của thiếu tướng trói tay trói chân tôi. Không gây xây xát cho vợ chồng Luân thì không khử nổi Saroyan... - Nếu chỉ xây xát... - Xuân trầm ngâm - Và nhất là nếu không hề hé ra một bằng cớ nào anh dính vào nội vụ... - Cái đó thì tôi đảm bảo. Những người mà tôi giao việc, thiếu tướng cứ tin đi, họ như không có lưỡi! -... Anh cứ làm! Xuân phẩy tay. Trung tá Hùng hiểu: nếu lỡ “phạm dao” đến cả sinh mạng vợ chồng Nguyễn Thành Luân, cũng không đến nỗi nào, miễn là giấu biệt đầu mối... Trung tá Hùng chào tướng Xuân, nhảy lên chiếc xe Jeep quân sự, một loáng sau đã có mặt ở một tiệm ăn và người mà gã gặp là Ly Kai. ° Chuông điện thoại reo, Dung nhấc máy: - Alô... Vâng, bà Saroyan có ở đây... Xin chờ một chút. Saroyan cầm máy: - Alô... à, chào cô! Cám ơn. Tốt quá. Không, tôi tự mua, miễn là cô dẫn tôi đến nơi bán. Chà có phiền cô lắm không? Xin cám ơn trước. Tôi đợi. Dung không để ý lắm đến cuộc điện đàm của Saroyan, nhưng chính Saroyan bảo Dung. - Tôi sắp đi ra phố một lúc, ca sĩ Minh Hiếu rủ tôi đi mua một chiếc ngà voi chạm trổ. Tôi muốn mang về cho gia đình vài món quà lạ ở đây. Xin lỗi Thùy Dung, tôi đi thay đồ... Từ khi Luân đi làm việc, Saroyan nói chuyện khá lâu với Dung và hai người đổi cách xưng hô. Tin của Saroyan lóe lên trong óc Dung mối nghi ngờ. Cái gì đây? Dung gọi điện cho Luân, thuật lại việc Saroyan sắp ra phố. Saroyan thay xong quần áo, Dung trao máy nói cho Saroyan. - Đại tá muốn nói chuyện với Saroyan. - Thế à? - Saroyan nói vào máy - Không lẽ... thôi được, xin “tuân lệnh” đại tá! - Đại tá bảo Thùy Dung cùng đi với tôi, bằng xe nhà của chúng ta. Có lẽ không nên thì hành thêm một “mệnh lệnh” khác của đại tá, tức là lấy theo một bảo vệ. - Saroyan đợi mình một chút. - Dung bảo - Ta phải thi hành y theo ý kiến của đại tá. Khi Dung sửa soạn xong thì chuông ngoài cổng reo. Saroyan và Dung ngồi lên xe, băng trước có một vệ sĩ của Phủ tổng thống trong nhóm bảo vệ Luân. Cổng mở, một xe khác đang chực, trên xe không có ca sĩ Minh Hiếu mà là một gã lạ mặt, ngoài tài xế. Gã lạ mặt rõ ràng thất vọng khi thấy Saroyan cùng đi với Dung bằng xe riêng. Saroyan cám ơn gã và nhờ gã cám ơn ca sĩ Minh Hiếu. Hai người đi mua một số hàng mỹ nghệ và họ về nhà khi đèn đường vừa lên; Luân chờ họ ăn tối. Suốt đêm hôm đó, luôn sáng hôm sau, Saroyan và Dung quấn quít nhau, khi Saroyan nhắc đến viên công chức Bộ ngoại giao, rồi viên tướng Mỹ, Dung bật khóc. - Saroyan không cần thiết phải làm như vậy! - Tại sao không cần thiết? - Saroyan hỏi - Tôi bắt đầu hiểu quê hương của Thùy Dung qua anh Luân. Qua anh Luân, tôi lại hiểu quê hương của hai người sâu hơn. Bây giờ, tôi muốn hành động. Cần phải làm một cái gì cho các bạn. Ông Diệm là người không tốt, tôi tin như vậy. Nhưng anh Luân và Thùy Dung là người tốt. Fishell thay vợ như thay sơmi. Thế thì tại sao người Mỹ sẽ giữ mãi ông Diệm và tại sao không đổi cách cư xử với anh Luân và Thùy Dung? Không, tôi không để mất những người bạn quí... ... Hai vợ chồng Luân tiễn Saroyan ra sân bay. Xe theo đường Trương Minh Giảng. Sắp vượt cầu, Luân bỗng thấy một người đứng trên mui một chiếc xe chở khách đang đậu, hình như đưa tay ra một ám hiệu cho phía bên kia cầu. Linh tính báo với Luân có thể có một cái gì đó không tốt. Anh đột ngột bảo tài xế giảm tốc lực và rẽ ngoặc ngay lập tức vào lề, dừng hẳn xe lại. Mọi người trong xe nhảy vội ra ngoài. Đúng vào lúc đó, từ bên kia cầu, một xe tải vượt sang, người tài xế giống kẻ say rượu, lái xe ngoằn ngoèo. Tai nạn xảy ra: một xe tắc xi chưa vượt cầu đã bị chiếc xe tải đâm phải. Tên tài xế phóng khỏi xe, chạy biến. Luân nhìn lên mui chiếc xe chở khách - không có ai trên đó cả. Cảnh sát đến làm biên bản. Tài xế tắc xi chết, người khách đi trên xe bị thương nặng. - Bây giờ, em càng quả quyết phải trở lại Sài Gòn cho bằng được! - Saroyan nói trong cơn giận dữ chứ không phải sợ hãi. Họ vào sân bay, lên phòng đợi. Luân, Dung, vệ sĩ của Luân không rời Saroyan nửa bước. - Chúng nó dám cho nổ máy bay lắm! - Dung nói khẽ vào tai Luân. Luân lắc đầu: - Chưa đến mức đó đâu, nhất là chuyến của Hãng Pan America, toàn nhân vật có cỡ. Đây là tác phẩm của Mai Hữu Xuân, hoặc của bọn nào đó, nhưng không phải của CIA... - Hành trình hơi dài... - Dung vẫn lo lắng. Một quân nhân Mỹ đeo hàm đại tá đến chào Saroyan: - Thưa bà, tôi là Stewart Senior làm việc ở Pentagone... Bà về Mỹ? Saroyan lắc đầu: - Tôi về Koweit. Luân rạng rỡ hẳn, anh chìa tay bắt Stewart thật chặt - Đại tá biết tướng Jones Stepp? - Biết! - Stewart nháy mắt tinh nghịch - Rất biết, kể cả việc bà Saroyan đây...! “Ổn rồi!” - Luân kêu thầm. Anh nói luôn: - Thế thì Saroyan đã có bạn đường tin cậy. Tôi mong đại tá “hộ tống” bà phu nhân tương lại của tướng quân an toàn đến Koweit! Stewart dập gót chân, cười: - Tuân lệnh! Vợ chồng Luân tiễn Saroyan tận cầu thang. - Tôi sẽ trở lại! - Saroyan ôm cả hai người, nói trong tiếng nấc. Không một ai trong họ có thể biết được, trong toalet dành cho phụ nữ tại phòng đợi, hai người mặc đồng phục nhân viên phục vụ sân bay đã trực sẵn với các dụng cụ: chiếc khăn lông to, chiếc găng tay! Saroyan sẽ bị bóp cổ và xác sẽ nằm trong toalet bị khóa chặt. Và, cũng không một ai trong họ biết trung tá Hùng quát tháo Ly Kai; Ly Kai quát tháo lũ hạ thủ, và sau đó, trung tá Hùng lãnh đủ cơn thịnh nộ của tướng Mai Hữu Xuân để rồi đến lượt tướng Xuân nhận cú điện thoại từ Đà Lạt gọi về: - Hello! Thế nào? Người gọi gác máy, cắt ngang câu chuyện khi nghe Xuân báo: - Thưa, bà Saroyan vào giờ này có lẽ đang có mặt tại gia đình bà, ở Koweit! ---------- (1) Xây dựng vùng đất mới.