nhà bên đang gấp gáp khăn gói lên đường. Vốn là đôi trẻ vẫn cũng nhau chơi trò 
“đố lá”, họ cùng nhìn nhau rồi cùng cúi mặt, lớp lông măng ngăm ngăm trên mép 
chàng trai khẽ rung. Tiếng trống thúc dồn. Chàng trai đánh bạo: 
- Thế… có 
chờ… không? 
- Sao không hỏi xem bông tầm xuân có nở trước khi mặt trời lên 
không? - Cô gái cắn môi, nước mắt lăn tròn trên má. 
Và thế là mặt chàng trai 
đỏ đến tận chân tóc. Lâng lâng như vừa được chắp cánh, chàng bấm bụng: “Ta có 
thể ra đi, dù “da ngựa bọc thây”. 
Cô gái trở vào, mắt ngấn nước và thẫn 
thờ như người ốm, trong tiếng trống ngũ liên xa xa thúc dồn. Vậy là cả nhà biết. 
Họ trách lẫn nhau, rồi hai người đàn bà ôm nhau khóc. Bà cô gái thắp ba nén 
hương khấn người chồng quá cố: “Ông ơi! Có lẽ cháu ông đúng, bởi tôi nghiệm 
rằng, nếu bây giờ ông sống dậy, lại ra trận, thì tôi vẫn chờ ông. Ôi! Cái kiếp 
đàn bà!…”. Mẹ cô gái nức nở: “Chỉ tại mẹ thôi, chính mẹ đã truyền cho con dòng 
máu “đợi chờ”! Con làm sao khác được!”. Ông bố cố gạt đi: “Thì cũng phải có một 
đứa con gái nào đó chờ thằng bé ấy chứ, cũng như ngày xưa, trong căn nhà này bà 
chờ tôi vậy! Bây giờ, chỉ còn biết mong sao thằng bé ấy trở về!”. 
Nhưng 
thằng bé không sớm trở về. Chàng tân binh hăng hái giết giặc trong vài trận rồi 
ngôi sao chiếu mệnh mỉm cười với chàng ta, đấng quân vương vốn giỏi chọn người, 
vừa nhìn thấy chàng trai đã nhận ra ngay rằng đây là một tên lính hầu trung 
thành vô hạn. Thế là, ngài cho rút chàng trai về, ngày đêm cận kề bên ngài, một 
bước cũng không được rời xa. Khi còn giặc giã, vua cần chàng đưa vồng ngực vạm 
vỡ ra che làn đạn giặc, còn khi hết giặc, vua càng cần chàng hơn, để giữ gìn 
quyền uy tối hậu. Chàng là lưỡi kiếm “trừng phạt” tuyệt hảo, sẵn sàng giáng 
xuống đầu bất kỳ ai, theo lệnh đấng quân vương. 
Đã mười bảy năm rồi, cô gái 
chờ người lính ấy. Từ một thiếu nữ như nụ hoa chớm hé, nàng đã trở thành một cô 
gái quá lứa nhỡ thì. Bà nàng, rồi cha mẹ nàng theo nhau lần lượt trở về cõi 
Phật. Trước khi nhắm mắt, họ đều gọi con gái đến bên giường dặn dò: “Mai ngày 
nếu sinh con gái…”. Cô gái lặng lẽ khóc khi bà và bố mẹ mất, lặng lẽ khóc khi 
người yêu của chúng bạn trở về hay tử trận và cuối cùng, lặng lẽ để tang người 
yêu năm xưa, vì đã mười mấy năm rồi, chàng biệt vô âm tín. 
Thế rồi một buổi 
chiều có tiếng vó ngựa ghé sát bên thềm. 
Bước xuống từ yên ngựa là một 
người đàn ông phong trần và nhìn mọi vật từ trên xuống qua ánh mắt lạnh lẽo như 
thép. Ngang lưng anh ta thắt chiếc đai vàng vua ban. Đó là phần thưởng sau khi 
anh ta lập được công đâm vào lưng người bạn cũ. Người bạn này đã cả gan ngăn vua 
khi ngài hạ lệnh chém một danh tướng. Ông này chỉ vì mắt kém mà trót dâng vua 
một quả táo bị sâu ăn. Sau bữa tiệc ngập máu ấy, vua đã cất nhắc anh ta và cho 
phép anh ta về thăm nhà sau mười mấy năm xa cách. Mười mấy năm qua, người lính 
đó vẫn không quên người yêu xưa. Giữa cuộc đời bụi bậm, giữa triều đình đầy mưu 
kế sâu độc, cô trinh nữ nhà lành cắn môi cố nuốt giọt nước mắt chia ly vẫn không 
mờ nhạt mà thật lạ kỳ, lại càng như vầng trăng xa thẳm gọi anh về. 
Người 
con gái lỡ thì bước tới vài bước rồi sững lại. Nàng hoang mang tự hỏi, không 
biết đó có phải là chàng trai hàng xóm năm xưa rụt rè mãi mới dám hỏi: “Thế… có 
chờ… không?”. Nhưng khi người đàn ông ấy gọi tên nàng bằng giọng nói thân thuộc, 
nàng khóc, tiếng khóc nghe như ngàn mảnh thủy tinh rơi, vì nàng phải chờ đợi quá 
lâu, và người nàng chờ nay đã biến thành người đàn ông có cái nhìn lạnh lẽo như 
thép. 
Làng xóm đua nhau chúc mừng nàng. Các ông làm nghề “gõ đầu trẻ” 
đem mối tình chung thủy của hai người rao giảng trong các lớp học. Thế là từ đấy 
có thêm nhiều cậu bé chỉ mơ về chiến trận. Mơ về một mai mình được hầu cận đấng 
quân vương. Còn những cô bé thì chỉ ao ước sao mai này lớn, được chờ người yêu 
đến khi lỡ thì! 
Không chậm trễ gì, người ta làm lễ cưới cho đôi tình nhân 
chung thủy. Vua ban áo tím cho nàng trinh nữ lỡ thì và đám cưới trọng thể hết 
chỗ nói. Hoàng hôn xuống, cạnh chén rượu bên mâm cỗ, quan khách tròn xoe mắt 
nghe chú rể kể chuyện. Mười mấy năm hầu cận vua, anh ta đã quen tính kín miệng. 
Và chỉ bốc lên khi rượu đã ngà ngà. Nhưng anh không biết nói chuyện gì khác, 
ngoài chuyện chém giết. Anh kể về những bữa tiệc đầy sơn hào hải vị ngập máu 
trong thời bình và say sưa mô tả các kiểu chết của nhiều người khác nhau dưới 
tay kiếm của anh. Cuối cùng, vì sao vua đã ban cho anh ta chiếc đai vàng. 
Người trinh nữ nghe chuyện của chồng mới cưới và nàng đứng không vững nữa. Lảo 
đảo, nàng lùi dần về buồng. Nép mình trên giường trong bóng tối, nàng như ngửi 
thấy mùi tanh lợm của máu, và trên mặt nàng như có làn môi lạnh toát của những 
oan hồn lướt qua. Nàng vùng dậy, run lật bật, vội vàng châm lửa lên tất cả các 
ngọn đèn dầu lạc mà nàng tìm được trong buồng. Ánh đèn chập chờn đỏ quạch càng 
làm nàng thêm sợ hãi. 
Vừa lúc đó, có tiếng kẹt cửa. Thân hình to lớn của 
người chồng mới cưới chếnh choáng tiến vào. Theo thói quen, anh ta vẫn mang theo 
thanh kiếm. Nàng nhìn lên, và thấy anh không vào một mình. Theo liền sau anh là 
một người đàn bà trong veo, tóc xoã - chỉ có bộ tóc là còn màu sắc - mặc quần áo 
đại tang, đang cầm một tấm áo đẫm máu giơ lên và cất giọng đều đều một cách kỳ 
lạ, lặp đi lặp lại như không bao giờ dứt: 
-Hãy trả chồng cho ta! Kẻ giết bạn 
kia, trước khi mi bước vào giường cưới! Hãy trả cha cho năm đứa con thơ dại của 
ta! Hãy trả… 
Vậy mà chồng nàng không nghe thấy gì cả, anh dựng thanh kiếm 
vào vách, rồi xáp tới đặt tay lên ngực nàng. Ngay lúc đó, nàng nhìn thấy máu từ 
tấm áo trong tay người đàn bà xoã tóc rỏ xuống hai bàn tay người chồng mới cưới. 
Nàng ôm mặt rú lên kinh hãi: 
- Ôi kìa, máu! Máu nhiều quá! Máu đỏ cả hai bàn 
tay! 
Chồng nàng giật mình nhìn lại. Anh vẫn không thấy gì cả, ngoài những 
vết sẹo ngang dọc nơi bàn tay mình. Anh dỗ dành: 
- Ồ! Can đảm lên, cô em ủy 
mị! Chẳng qua là vì em quá hồi hộp đó thôi! Đã bao ngày ta chờ phút giây này. 
Nào, hãy vui lên. 
Anh nói vậy, nhưng miệng không cười và mắt vẫn lạnh 
như thép, cũng như từ ngày về đến giờ, chưa một ai nhìn thấy anh cười. Người 
trinh nữ bỏ hai bàn tay che mặt. Nàng không nhìn thấy người đàn bà tóc xoã nữa, 
nhưng trên khuôn mặt đang gần xuống mặt nàng, nàng chỉ thấy khóe miệng mím chặt 
và cái nhìn lạnh lẽo như cái nhìn của Thần Chết. Lại sợ hãi cuống quít, nàng van 
vỉ:
-Hãy mỉm cười đi anh! Em van đấy! Hãy cười lên để em thấy anh của ngày 
xưa. Bao năm chờ đợi, em đâu muốn anh buồn… 
Người chồng cố hết sức để mỉm 
cười. Đã lâu lắm rồi anh không làm cử chỉ đó nên bây giờ anh không biết bắt đầu 
một nụ cười như thế nào. Khó nhọc lắm, anh mới nhớ ra rằng, khi cười người ta 
phải để lộ ít nhất là một hàm răng. Anh nhếch môi, để lộ hẳn hai hàm răng chắc 
khỏe. 
Nhưng anh quên rằng, khi người ta cười, chính đôi mắt cười trước, 
cái miệng cười sau, thậm chí chỉ cười bằng mắt cũng đủ. Mà đôi mắt muốn cười, 
trước hết tâm hồn phải cười đã, cho nên cố gắng để mỉm cười, trông anh lại thêm 
vẻ dữ dằn đe dọa của một con sói. Ngay lập tức, vợ anh co rúm lại và quay mặt 
vào trong, thổn thức cố kìm tiếng khóc. 
Người chồng buồn bã soi trong tấm 
gương cười, ngắm kỹ mình, rồi tuyệt vọng: 
- Thôi, thế là hết, cả một đời chờ 
đợi! Em chối từ ta, em ghê tởm ta ư? 
Anh rũ xuống thành giường, rồi gầm lên 
như một con thú bị thương: 
- Tại sao em chờ ta cả đời, để rồi chối từ ta? 
Tại sao em bắt ta phải cười! Còn đâu nữa chàng trai với lớp lông măng trên mép 
ngày xưa! Ta đã trở thành “người đàn ông không cười” của triều đình, từ khi bàn 
tay này nhúng vào máu bạn bè, bên những bàn tiệc đầy sơn hào hải vị. Đấng quân 
vương sai ta giết hết những kẻ bất tuân thượng mệnh bằng các chiếc đũa. Trong 
mọi chiếc đũa nạm vàng nơi bàn tiệc đều có một lưỡi dao tinh tế giấu ở trong…
Anh nức nở, đôi vai rung lên dữ dội: 
- Ôi! Bạn ta! Người bạn đã cùng ta tựa 
vào lưng nhau tìm hơi ấm chống đỡ cơn gió lạnh chiến hào. Thôi, thế là hết và 
đây là đêm tân hôn vĩnh biệt, phần thưởng cuối cùng cho người lính quá nửa đời 
phụng sự đấng quân vương. 
Tiếng nức nở dữ dội của người chồng mới cưới rung 
chuyển cả căn phòng. Rồi xách kiếm trên tay, anh bỏ đi biệt xứ. Có người nói 
rằng anh đã đến tìm vua, định bắt vua phải đền tội đã biến anh thành người đàn 
ông không biết cười. Nhưng vua đã kịp giết chết anh trước, bằng chính một trong 
những chiếc đũa nạm vàng nơi bàn tiệc. Cũng có người bảo rằng anh lại lao vào 
những cuộc chém giết mới không ghê tay cho quên ngày tháng. 
Chỉ còn lại nơi 
quê nhà người trinh nữ lỡ thì. Nàng sống âm thầm như cái bóng, mà không một lần 
nghĩ đến chuyện tự giải thoát bằng cái chết. Nhưng cái tật hễ có tiếng chân hay 
tiếng động mạnh là đưa tay lên ôm mặt thì nàng không sao bỏ được. 
Một hôm, 
người xã trưởng được mời đến để làm giấy chứng tử cho nàng. Nàng chết mà hai tay 
che mặt, người khâm liệm nắn thế nào cũng không bỏ ra. 
Vài ngày sau, trên mộ 
nàng rùm roà mọc một loài cây thấp lòa xòa mang hình tròn tim tím buồn man mác. 
Mỗi khi có chân bước qua hay va chạm mạnh, những chiếc lá lăn tăn lại giật mình 
khép lại, xuôi xuống như bàn tay ai che mặt. 
Những loài hoa cỏ mọc đầy chung 
quanh lấy làm lạ lùng lắm về chuyện đó. Một hôm, chúng chặn chàng Gió lại: 
- 
Này, anh Gió! Ở đây, không có ai già như anh và trẻ như anh. Vậy anh hãy nói cho 
chúng tôi biết vì sao loài cây mới đến kia, tầm thường đến vậy, lòa xòa bên vệ 
cỏ, khách bộ hành dễ dàng giẫm lên, có gì đặc biệt đâu mà phải gìn giữ, hơi một 
tí lại lấy tay che mặt, điệu đà làm vậy? 
Từng trải như chàng Gió mà cũng 
không trả lời được. Thế là một đêm thanh tĩnh, dịu dàng, muôn hoa cỏ đang mơ 
màng trong giấc ngủ êm đềm, chàng Gió lướt tới bên loài cây tầm thường ấy, khẽ 
hỏi: 
- Này cô em bé bỏng! Sao em hay che mặt thế? Ở đây có ai chọc ghẹo em 
sao? Em hay e thẹn lắm à? Nếu không, tại sao người ta lại gọi em là cây trinh 
nữ? 
Đắn đo một chút, rồi loài cây ấy nhẹ nhàng đáp: 
- Không phải thế 
đâu, mặc dù chết đi, em vẫn là trinh nữ. Em che mặt vì sợ. Ngày nay người ta 
càng tranh giành nhau dữ hơn, những bàn tiệc ngập máu vẫn còn nhiều. Vậy nên, 
mỗi va chạm, mỗi bước chân tạt qua đều làm em giật thót mình. Em sợ người ta sẽ 
gửi đến cho em đôi bàn tay đầy máu và khuôn mặt người yêu xưa chẳng biết cười. 
Cây trinh nữ chợt co mình lại vì vừa nghe tiếng chân qua. Đó là bước chân sóng 
đôi của một đôi trai gái đang đi trong sương mù. Trước khi cẩn thận khép những 
mắt lá lại, cây trinh nữ cầu khẩn: “Ôi! Lạy Phật! Cầu cho đây không phải là bước 
chân của những người phải tiễn nhau về nơi ấy!! 
chúc các bạn vui vẽ