Thư trung hữu hoàng kim ốc
ở Đông Thành có một cây gạo lớn, cành lá rườm
rà. Đêm đến, bọn ma hợp nhau bàn câu chuyện thế gian. Có chuyện
nực cười,
cũng có chuyện ghê gớm lắm. Thỉnh thoảng có một vài chuyện éo le, ma thuật lại
vừa rơi nước mắt. Những
đêm như thế, người ta bảo rằng: ?Ma kêu gào thảm
thiết vì đói lạnh?; thực tình, ma rên xiết vì chuyện thế gian mà
người không
rõ.
Có một độ ma nói chuyện với nhau về một cái nhà vàng lạ lùng ở Tân
Thanh. Cái nhà toàn bằng vàng, ở trong có đủ
thứ bửu vật. Ma thuật chuyện ấy
cho nhau nghe, và bảo rằng cái nhà quý báu hiện có trên thế gian.
Thổ
công nằm nghỉ, xem trăng trong cái liêu1 bên cạnh cây gạo, nghe chuyện cũng cho
là lạ lắm. Vì chính ông ở
trong cuộc đất mà không hay biết điều kỳ lạ ấy bao
giờ. Ngay đêm ấy ngài đến chơi đức Thành hoàng bổn cảnh để
hỏi xem có tin
tức về câu chuyện của ma nói không? Thành hoàng lại ngạc nhiên hơn nữa.
- Ông còn không rõ, tôi thì đi đâu mà biết được. - Ngài bảo Thổ công như thế.
Rồi cùng nhau đem việc lạ ấy hỏi Đông trù tư mệnh. Đông trù nghe hai ông khách,
lại tưởng chuyện trong sử Phong
thần, cười và nói:
- ấy, các ông hãy
kể nốt câu chuyện cho tôi nghe.
Thấy hai ông kia ngơ ngác, bấy giờ mới
suy ra là chuyện thực. Đông trù thú thật rằng, chưa biết việc ấy bao giờ.
- Tôi tra xét việc thế gian, năm năm tâu lên Thượng đế, mà không thấy một việc
lạ như thế, cũng không nghe ai nói
đến. Vả lại ở thế gian, nếu có lâu đài vĩ
đại, bất quá chỉ làm bằng đá bằng cây, chạm trổ đủ hình, đủ kiểu. Xưa lắm thì
độ năm sáu nghìn năm, chớ có nghe đâu nhà toàn bằng vàng như các ông bảo. Âu
chúng ta nên hỏi Nam tào giữ sổ
nhân gian, chắc có lẽ biết được hết cái lạ
trong quá khứ và vị lai vậy.
Cùng nhau lên xe mây, để vân ngưu kéo về
thiên đình, thì bỗng gặp một nhà tu hành kỳ quái, không biết ở đâu lại,
thinh không hiện ra giữa chừng không trung. Các thần đều hỏi:
- Ông là
ai? Chúng tôi chưa được biết?
Người lạ đáp:
- Tôi sống trong một
thế giới khác, nên các ngài không biết được. Nhưng về sau rồi các ngài có thể
biết.
1. Cái liêu: chưa rõ là cái gì.
Các thần hỏi:
- Vậy ông đến chúng tôi có việc gì?
Người lạ đáp:
- Đây cũng vừa
nghe, các ngài bàn việc lên trên kia hỏi một vị thần khác giữ sổ thế gian, xem
cái nhà vàng ở đâu. Tôi
sợ các ngài đi xa nhọc nhằn mà sẽ không kết quả gì,
vì chắc chắn trên kia, vị thần mà các ngài đến hỏi chuyện cũng
không thấu rõ
cái kỳ quan đó.
Các thần nhìn nhau, rồi hỏi:
- Thế ông có cách
gì cho chúng tôi biết không?
Người lạ gật đầu rồi dẫn các thần trở lại
thế gian, về làng Tân Thanh. Đến đây thì trời rạng đông, các ma đã tản lạc
theo đêm tối về phương khác. Người lạ rút trong tay áo ra một hạt ngọc trong như
thuỷ tinh, hạt ngọc chiếu những tia
sáng tinh anh. Rồi cho những tia sáng ấy
rọi về phía người lạ trỏ, cho các thần chăm chú, tức thì cách đó ba dặm,
trong một cảnh thật huyền ảo, cái nhà vàng rực rỡ xuất hiện giữa một vườn cây kỳ
dị.
Các thần rú lên:
- Đích rồi! Hoàng kim ốc!
Vừa nói
xong, hạt ngọc và người lạ bỗng dưng biến mất. Các thần nhìn nhau, không biết
mình hãy còn chiêm bao như
kẻ tục, hay là, đấy là một sự thực hiển nhiên.
Nhìn về chốn huyền ảo khi nãy, thì chỉ thấy ánh sáng ban mai nhuộm
hồng
những chót cây cổ thụ và cánh đồng phẳng lì, mạ xanh rợn sóng. ở đấy rải rác một
vài nóc nhà, và chính nơi cái
nhà vàng vừa thấy, thì lại là một túp lều
tranh không đẹp.
*
* *
Chàng thư sinh đặt viết xuống
bàn, cất một quyển sách rồi đi nghỉ. Nằm trên phản, lim dim thì mang máng thấy
trên
xà nhà có ba gương mặt nhìn xuống mình như dò xét. Chàng nhận được một
gương mặt đen như nhọ chảo, nhưng
không có vẻ ghê gớm lắm, một gương mặt
trắng như phấn dồi, môi đỏ như bôi son, có râu mép uốn cong, râu cằm
suôn
đuột, vẻ như vui cười, tươi mãi, và gương mặt thứ ba xám nắng, vẻ đạo mạo,
nghiêm trang, đầu đội mũ vàng,
chàng cho đấy là một vị đại thần thời nào.
Chàng dụi mắt, để tưởng mình không mê muội, hoặc bị một ám ảnh. Dụi
xong thì
không thấy gì cả. Nhưng trên bàn bên cạnh, quyển sách khi nãy bỗng cất lên
không, những trang tự lật ra
từng tờ, và bình mực tự nó bắn cái nắp ra một
lúc rồi tự nó sập lại như trước. Chàng dụi mắt lần nữa, để chắc mình
không
phải chiêm bao; ngồi nhổm dậy, thì đâu đấy yên lành. Chàng nằm xuống trở lại mơ
mòng sắp ngủ, thì tai nghe
văng vẳng những tiếng bàn cãi xôn xao. Tiếng nghe
xa xôi dần dần, chàng chỉ mơ hồ như nhận được một câu:
- Thị phi tất cả,
đâu có lẽ như thế được.
Chàng mòn mỏi, hơi thở đều đều, rồi an giấc.
Đông trù cằn nhằn Thổ công:
- Hắn ta chỉ là một anh học trò khó, nghèo
xơ xác, mà lại bảo ở nhà vàng. Mộng mị quá, thật là mộng mị. Thế này tôi
phải không nghe ông mới được. Trọn mấy hôm ròng, tôi phí cả việc tôi mà đi với
các ông. Trong mấy hôm việc lành
dữ của thế gian đã chồng đống trên bàn mà
chưa kiểm điểm và ghi một việc nào.
Thành hoàng cũng bực mình:
-
Tôi bỏ qua hết ba cuộc lễ kỳ yên rồi còn gì. Một ở Tân Trung, một ở Tân Bình và
một ở Hưng Khánh. ở Hưng
Khánh thì lớn hơn cả, có hát bộ ba chầu và tế đủ
các thứ con sinh. Ông Thành hoàng thôn ấy lại ân cần mời, tôi định
thế nào
cũng dự, mà rồi phải thất hứa.
Thổ công vuốt râu cười hắt:
- Các
ông sao nóng nảy. Chúng ta hãy tìm cái ông Đạo sĩ hôm trước, mà hỏi lại manh mối
thì khắc biết.
Ba vị thần trở lại chốn nhà tranh. Chàng thư sinh nằm
thiêm thiếp ngủ. Ông Đạo sĩ lạ lùng đương bách bộ trước sân.
Đêm trăng, gió
thổi chập chờn những cành đốm hoa trắng. Bấy giờ thấy ba ông đến thì Đạo sĩ mừng
rỡ đón mời:
- Các ông đến đây. - Đạo sĩ nói - trong lúc vừa được rảnh,
định tìm các ông, thì các ông lại đến. Hay quá!
Thổ công liền hỏi:
- Ông là gì của hắn mà ở đây? - Thổ công trỏ vào chàng thư sinh.
- Tôi là
thần đăng đây. Tôi là cái đèn, cùng người ấy làm việc đã ngót hai mươi năm.
- Thế còn cái nhà vàng?
- Chính ở đây.
- ở đây?
- Vâng.
Thổ công và hai vị thần ngơ ngác nhìn chung quanh, cố tìm, rồi lại nhìn nhau mà
cười: - Chắc ông mị chúng tôi?
- Không phải, nhưng phải có viên ngọc của
người ấy mới xem thấy được.
- Viên ngọc hiện giờ hắn để đâu? - Thổ công
hỏi.
Thần đăng đáp:
- Cũng không chừng, dường như khó định lắm;
những đêm nào chàng thức khuya cùng tôi làm việc, nghĩa là tôi phải
đem ánh
sáng cho chàng mãi, và chàng thì mài giũa sự gì trên trang giấy trắng. Khi chàng
ngồi nghĩ, tự những trang
giấy ấy xuất hiện một hạt ngọc; lúc bấy giờ lấy
ngọc ấy mà soi, tự nhiên xuất hiện ?hoàng kim ốc?.
*
* *
Từ
đấy, mỗi đêm chàng thư sinh nghe như có ai thơ thẩn trước sân. Nhưng khi mở cửa
trông ra thì chỉ thấy bóng trăng
trên những chiếc lá mướt. Lúc trở vào,
chàng hơi là lạ về chiếc đèn bỗng nhiên sáng rõ khác thường. Hiện trạng ấy chỉ
thoáng qua, rồi thì đâu đấy lặng lẽ, bình thường. Chàng không để ý đến nữa.
Một đêm, nhằm mùa hoa dạ lý nở, mùi hương bay toả một vùng. Chàng nghe mình bồn
chồn rạo rực về một nỗi
nhiệm màu nào, rồi cảm giác ấy tăng gia từng phút.
Chàng không còn là chàng của thời khắc trước nữa. Chàng nghe
mình đi vào một
cõi sống khác, mà sự thăng bằng đổi hẳn cái thăng bằng của hàng ngày. Chàng thấy
chàng nhẹ
nhàng có thể chơi trên mặt nước, có thể lướt qua những lá liễu,
đùa những làn hương và tia sáng. Chàng ghi trên tờ
giấy những cảnh chàng
đương ngắm, chàng vẽ con đường chàng đương đi, con đường huyền bí...
Lúc
bấy giờ, ngọn đèn tự nó dài ra mãi, tượng thành một dạng người, rồi lìa cái thân
bằng sành, Đạo sĩ hiện ra nhè
nhẹ, bước lại cửa.
Thổ công và hai vị
thần kia đã chực hờ ngoài cửa, Đạo sĩ gọi vào. Bấy giờ trên những trang giấy vừa
khô, có một vật
gì trong sáng xuất lộ. Chàng thư sinh, như mệt mỏi sau một
cuộc thôi miên, gục đầu thiêm thiếp trên bàn. Thần đăng
cầm hạt ngọc trao
cho Thổ công và các vị thần xem. Những tia sáng chiếu ngời, rực rỡ. Thần đăng
lại bảo soi những
tia sáng kỳ diệu ấy vào vừng trán cao của chàng thư sinh.
Các thần y theo, tức thì không còn thấy chàng thư sinh đâu
nữa. Giữa không
gian, xuất hiện một cái nhà vàng, trong một cảnh lạ. Các thần đang ở trong cái
nhà vàng ấy mà
không hay biết. Bấy giờ đưa nhau đi xem, thì thấy không biết
bao nhiêu là bửu vật nhiệm màu. Có vật các thần nhận
ra được, nhưng có vật
các thần phải chịu là không thể nào hiểu biết tính chất...
... Như thế
không biết độ bao lâu, mé ngoài có tiếng gà gáy; các vị thần vội vã trở ra, tiếc
đành bỏ dở cuộc xem kỳ thú
ấy. Một tiếng động, chàng thư sinh cựa mình. Các
thần vội vã lánh đi và xô nhau chen một kẹt cửa. Chàng thức giấc,
thấy mình
mỏi mệt lạ thường, đầu choáng váng. Ngọn đèn hết dầu đã tắt từ lâu. Chàng đứng
dậy loạng choạng, đi lại
giường. Tay sờ trán như sờ một vết thương. Chàng
lẩm bẩm:
- Dại khờ quá, để sương vào mà không hay, hẳn là bị cảm.
Khi qua một cửa sổ còn mở; nhìn ra thì lại thấy ba gương mặt hôm trước, tự
khoảng trống khung cửa nhìn chàng như
lo lắng. Chàng vỗ trán để xua đuổi một
giấc mê nào, thì những gương mặt ấy biến mất