Bãi Ông Nam
.:: Tác giả: thuật giả Nguyễn
Đồng Chi ::.
Ngày ấy, những người dân chài vùng biển
Nam nước Việt ta trong khi ra khơi làm ăn thường bị nạn bão tố. Mỗi lần bão tố
thình lình xảy ra, nếu trên đất liền chỉ đổ cửa đổ nhà thì trên mặt biển khơi có
thể chết hàng trăm hàng nghìn mạng người. Không những thế, nó còn chôn vùi xuống
đáy biển biết bao nhiêu là chài lưới thuyền mảng, những của cải mồ hôi nước mắt
tích góp không phải chỉ một ngày. Vì vậy, những dân chài vùng biển Nam luôn luôn
kêu gào oán trời trách đất độc ác phũ phàng, làm cho con mất cha, vợ lìa chồng,
táng gia bại sản. Cuối cùng lời kêu gào của họ cũng động đến tòa sen.
Một hôm, đức Bồ tát ngự trên tòa sen nghe tiếng than khóc, bèn cúi nhìn xuống
toàn cõi biển Nam. Nhận thấy muôn nghìn sinh linh bỏ mạng đều là những con người
nghèo khổ, lương thiện, chất phác, thì động lòng thương, bèn cởi ngay chiếc pháp
y mình đang mặc, xé thành từng mảnh ném xuống mặt biển rồi niệm chú cho mỗi mảnh
hóa thành một con vật để chúng làm công việc cứu giúp dân chài. Những con vật ấy
một khi xuất hiện ở biển Nam, bèn bơi lội khắp nơi, cố gắng làm những việc được
giao, nhưng tiếc thay, thân tuy dài nhưng không lớn mấy, không thể chống chọi
với những cơn bão tố, chẳng đủ sức che chở cho ghe thuyền, nên cuối cùng kết quả
không được là bao. Bởi vậy, một hôm chúng họp lại trình lên tòa sen để Bồ tát
biết sự bất lực của chúng.
Thấy vậy, Bồ tát bèn lại mượn mấy bộ xương
voi ném xuống biển, biến những con vật nhỏ bé trước thành những con vật vừa dài
vừa có vóc dạc khổng lồ. Bồ tát dặn:
- Ta đã làm cho thân thể các ngươi
đủ sức đương đầu với bão tố. Từ nay ta giao cho các ngươi chuyên một nhiệm vụ
cứu nguy trên vùng biển Nam. Các ngươi hãy cố gắng làm tròn bổn phận. Để giúp đỡ
các ngươi, ta sẽ cho một số quân đi theo hầu hạ, đồng thời nhắc nhở các ngươi
không được lơ là với phận sự.
Nghe lời truyền phán, những con vật mới
vui lòng chia nhau bơi đi các nơi làm chức trách của mình. Bọn quân hầu cũng
chia nhau đi theo hết lòng giúp đỡ.
Nhưng rồi Bồ tát vẫn chưa vừa ý.
Nhận thấy mấy con vật mới sáng tạo vì quá to xác nên không được hoạt bát nhanh
nhẹn, Bồ tát lại ban cho chúng phép thần thông để có thể sớm phát hiện ra tiếng
kêu cứu dù xa hàng nghìn dặm. Đối với bọn quân hầu của chúng, Bồ tát cũng cho
một tên dùng mực để chỉ đường vạch lối cho chủ chúng đi được nhanh, một tên thì
cầm một ngọn đao luôn luôn hộ vệ tả hữu. Như vậy là Bồ tát đã tạo nên cá voi, cá
mực và cá đao.
Nhờ thế, dân chài vùng biển Nam cũng được an ủi đôi phần.
Từ đó họ gọi cá voi bằng cái tên Ông Nam hay cá Ông(1).
* * *
Bấy giờ ở một cửa biển Nam có một vàm sông (2) quen gọi là vàm Ông Đốc, có một
cá Ông làm trấn thủ tại đây. Cá Ông làm việc tận tụy, ít khi xa rời vùng mình
cai quản. Nhưng một hôm nó có ý muốn được ngao du một chuyến ra khỏi cõi bờ để
ngắm xem cho thỏa thích. Bèn ngỏ ý ấy với những kẻ tùy tòng. Cá mực và cá đao
đều trả lời: - "Hiện nay chưa phải là mùa dông bão, ngài có đi xa cũng chẳng
sao. Chỉ mong ngài phải nhớ trở về sớm, đừng có la cà mà hối không kịp. Hơn nữa
cũng cần phải bảo vệ tấm thân vì ngài đang kỳ thai nghén".
Được lời, cá
Ông bèn quyết chí xuất hành cùng với cá mực và cá đao. Chương trình đã định là
sẽ vòng theo mũi biển, cứ như bây giờ gọi là mũi Cà Mau, lần lượt tiến dần về
phía đông bắc đi thăm các vàm khác, ở đó sẽ gặp một số bạn bè và người thân
thuộc, cuối cùng lại vòng theo mũi biển trở về chỗ cũ. Nhằm một buổi tối trời,
cả đoàn kéo nhau ra đi. Vừa qua khỏi mũi đất, họ tiến vào vàm sông Bồ Đề. Đối
với cá Ông, cuộc ngao du trở nên ngày một thú vị khi được gặp lại những người
quen thuộc và được thấy những cảnh đẹp ở vùng Biển Đông. Cho nên cả đàn lưu lại
nhiều ngày ở vàm sông Bồ Đề để xem cho thỏa thích trước khi rời lên phía bắc.
Nhưng một đêm nọ, bỗng nhiên khí lạnh làm rởn da mọi người, báo hiệu một cơn
sóng gió hãi hùng sắp nổ ra. Không ngờ bão tố lại xuất hiện bất thường như vậy,
cả đoàn hết sức hoảng hốt. - "Trời nổi bão rồi! Chúng ta phải mau mau trở về đi
thôi, vì thế nào cũng có người bị nạn". Tiếng chủ tướng kêu lên. Và nó ra lệnh
cho cả đoàn tập hợp đông đủ để chuẩn bị trở về.
Nhưng khi quay về, vì có
phép thần nên cá Ông đã biết tin có một chiếc ghe đang vô tình tiến xa ra khơi
thuộc vàm sông Ông Đốc. Cá Ông than thở: - "Ôi! vẫn còn có một chiếc ghe đang
vật vờ ngoài vàm. Bây giờ mà trở về vùng ấy nhanh nhất cũng phải mất một ngày.
Biết làm sao bây giờ?"
Thấy cá đao thỉnh thoảng lại thúc bên hông, cá
Ông hết sức lo lắng. - "Bây giờ về đường biển thì e không kịp vì phải đi quanh.
Chỉ có cách là chúng ta chịu liều đi tắt vào vàm sông Bồ Đề, tuy có nguy hiểm
nhưng may ra có thể cứu kịp".
Nói sao làm vậy. Cả đoàn lại tiến phát.
Nhưng khi lọt vào vàm thì bão đã nổi lên mỗi lúc một mạnh. Hơn nữa, sông Bồ Đề
thì nước cạn mà thân của Ông Nam thì lại quá vĩ đại. Tuy vậy, theo dấu cá mực,
nó vẫn cố trườn, có lúc phải trườn trên bãi đầy cây tràm và cây đước xây xát cả
mình mẩy. Hồi này nó đang mang thai. Vì phải cố gắng dùng hết sức lực nên cái
thai bị sảo. Cá bé ra đời đáng lý có thể sống được, nhưng vì nước cạn nên chẳng
mấy chốc thì tắt thở. Tuy lòng đau như cắt và mệt hết sức, Ông Nam vẫn không bịn
rịn, vẫn cố xuyên qua dòng nước để về cho kịp vàm sông Ông Đốc, nơi mình có
trách nhiệm với dân chài.
Chẳng mấy chốc cả đoàn cũng về được đến nơi.
Bão khi ấy đang tung hoành dữ dội hết mức. Cá Ông vùng ngay ra khơi, chỉ một
nhoáng nó đã đội được chiếc ghe sắp bị chìm lên lưng đưa vào bờ. Dọc đường nó
còn cứu được năm chiếc khác đang vật vờ trong sóng biển.
Vì mất sức
khỏe, nên chuyến ấy Ông Nam cũng bị đau trong mấy tuần. Biết được mọi việc xảy
ra, Bồ tát cũng vui lòng xá tội.
Từ đó, dân chài vàm sông Bồ Đề lập miếu
thờ đứa con vô tội của cá Ông đẻ rơi trong khi làm nhiệm vụ. Hiện nay cái miếu
ấy vẫn còn, người ta quen gọi là miếu Ông Nam. Cả cái dòng nước mà ông vượt qua
ngày nay đã bồi thành bãi, người ta cũng gọi là bãi Ông Nam (3).
Nguyễn Đổng Chi
(kể)
------------------------
(1) Đoạn này theo
Toan Ánh: Nếp cũ hội hè đình đám, quyển hạ; và Văn hóa tập san số 3 (1973).
(2) Vàm sông: tức cửa sông hoặc cửa biển, chỗ sông đổ ra biển.
(3) Theo Sơn
Nam: Truyện xưa tích cũ tập I.
Người dân chài ở vùng Côn Lôn cho rằng mỗi
lần cá voi đi đâu thì ở phía trước có cặp cá đao rất lớn, kế đó là một cặp cá
mực rất to, nhưng là để kiếm mồi cho cá voi. Cá đao phải dùng cái gươm của mình
để lùa các loài cá nhỏ vào cái miệng khổng lồ của chủ tướng, còn cá mực thì phun
chất mực đen trong nước biển khiến cho các loại cá nhỏ không thấy đường mà đi
phải chạy vào miệng chủ tướng. Khi miệng đã đầy cá, cá Ông bèn ngậm lại, ăn một
cách ngon lành, lại còn xịt nước lên cao thành vòi để cảm ơn những kẻ tùy tòng
đã giúp cho mình ngon miệng. Còn ở một số vùng khác thì cho rằng cá Ông đi đâu,
tiền đội thường có cá mực cầm cờ dẫn đường, lại phun chất mực như để đánh dấu
cho chủ tướng biết đường mà đi, còn hai bên sườn thì có cá đao đi hộ vệ.