Đời Lý, ở vùng Thanh Hóa có Lê Phụng Hiểu. Nhà Hiểu ở gần một hòn núi nhỏ nhô lên ở giữa đồng gọi là núi Bơng (Băng Sơn) nên người ta cũng gọi Hiểu là ông Bơng. Hiểu là người to lớn khỏe mạnh. Mẹ chàng lúc trước lên núi trông thấy một dấu chân to lạ thường. Bà ướm chân mình vào thử, không ngờ tự nhiên cảm động mà có thai, về sau sinh ra Hiểu. Thuở nhỏ, Hiểu không học chữ, chỉ thích tập ném dao, đánh gậy, cử tạ, múa quyền. Chàng thường dùng một hòn đá tròn ở trên núi làm quả tạ để tập luyện. Hòn đá đó nặng tám người khiêng mới nổi. Năm Hiểu hai mươi tuổi, những tay đô vật trong vùng hết dám tỉ thí với chàng. Hiểu có thể chỉ một đấm vật ngã một con bò mộng. Thuở ấy, ở vùng Đông Sơn có ông Tuấn tục gọi là ông Vồm, sức khỏe vô địch lại rất giỏi vật. Nghe tiếng Hiểu là tay đô vật mới nổi lên, Vồm tìm đến Băng Sơn đòi thử sức. Vồm đến gặp lúc Hiểu đi kiếm củi vắng. Mẹ Hiểu bảo:-Ông cần hỏi gì cháu thì rán chờ một lát. Nó sắp gánh củi về rồi đấy! Mới nhìn thấy Hiểu từ đàng xa do mẹ chàng chỉ cho thì Vồm đã giật mình kinh sợ. Bởi vì bóng Hiểu hiện ra giữa con đường núi là một gã to lớn quảy hai bó củi to như đụn rạ một, chạy vùn vụt như bay. Thấy thế Vồm không đợi nữa, thác kế cáo từ đi thẳng. Hiểu vừa bước vào ngõ nghe mẹ nói có khách chờ mình lúc nãy, vội quẳng ngay gánh củi bắn tung ra đầy sân, rồi đuổi theo Vồm. Chả mấy chốc chàng đã theo kịp. Hai bên bắt đầu làm quen nhau bằng một cuộc tỉ thí dữ dội trên hòn Băng Sơn. Đất bay rào rào, cây cối xiêu vẹo vì những cái quật kinh người. Trong keo vật lần thứ tám, không chịu được cái móc của Hiểu, Vồm bị chẹt vào giữa hai tảng đá lớn. Gần miền lúc đó có hai thôn Đàm Xá và Cổ Bi tranh nhau một bãi đất. Dân Đàm Xá đông gấp hai Cổ Bi, lại thêm lúc này có tay Tá Lực vốn là hào trưởng mới ở Kẻ chợ về tự khoe giỏi võ, nên họ quyết lấy thịt đè người để chiếm đoạt lâu dài bãi đất kia. Không nói thì ai cũng biết bên Cổ Bi nắm chắc thất bại. Thất bại nhưng họ vẫn không chịu để mất đất. Hai bên đánh nhau trót tháng. Bọn trai tráng Đàm Xá dưới sự điều khiển của Tá Lực ngày ngày cầm gậy tầy tay thước tiến sang đất Cổ Bi che chở cho một bọn khác trồng tre đắp bờ ngăn hẳn bãi bồi làm đất của mình. Hễ bên Cổ Bi thò ra người nào thì chúng xúm lại đuổi đánh. Không kể số sứt đầu mẻ tai, những người bị thương nặng nằm la liệt cả một đình làng. Tá Lực vẫn thỉnh thoảng đứng trên gò cao nói vọng vào những câu khiêu khích. Bấy giờ Lê Phụng Hiểu có việc qua đó. Nghe rõ câu chuyện, chàng bừng bừng nổi giận, Hiểu vung tay áo nói với mấy vị phụ lão Cổ Bi:-Nó cong, ta thẳng, không thể ỷ chúng hiếp cô như vậy được! Rồi chỉ vào ngực mình:-Chỉ một mình tôi có thể đánh tan được bọn nhãi. Các cụ mừng lắm, sai dọn cỗ mời ăn. Một mình Hiểu tì tì chén hết một dãy hai mươi cỗ cơm. †n xong Hiểu vỗ bụng đứng dậy, tay không xông thẳng vào trận, trên mình chỉ còn mỗi chiếc khố. Trước hết, Hiểu rẽ vào lùm cây nhổ những cây gỗ vừa tầm để thành từng đống. Rồi cầm lấy cả cành cả rễ, Hiểu vụt túi bụi vào đám đông địch thủ đang sấn tới trước mặt mình. Cây nào gãy, chàng thay cây khác. Cứ thế Hiểu đã quật ngã không biết bao nhiêu người. Nghề võ của Tá Lực và ngọn côn của y không thể trụ nổi những đòn bằng trời giáng của Hiểu. Chưa xong một hiệp, Tá Lực đã ngã quay lơ xuống đất. Các tay võ khác và dân đinh Đàm Xá còn sót đều co chân chạy thục mạng. Hiểu quay lại giẫm chân lên ngực Tá Lực, bắt hắn phải nhận điều kiện trả lại ruộng đất cho dân Cổ Bi rồi mới chịu cho khiêng về. Từ đấy tiếng tăm của Hiểu được truyền đi khắp nơi. Ngày đó, vua Lý kén người khỏe mạnh sung vào quân túc vệ. Chỉ một cuộc tỉ thí đầu tiên, Hiểu đã được vua triệu vào bệ kiến và cho chỉ huy một đội quân toàn những tay lực sĩ. Chẳng bao lâu Hiểu được vua cất làm tướng, người ta gọi là Võ vệ tướng quân. Chưa được mấy năm thì vua băng hà. Triều thần theo di chiếu định tôn hoàng thái tử lên ngôi báu trước khi làm lễ phát tang. Nhưng lễ đăng quang của ông vua mới chưa cử hành thì ngoài thành cấm đã thấy ồn ào tiếng người, tiếng ngựa. Quân canh cho biết ba hoàng tử: Võ Đức vương, Đông Chinh vương và Dực Thánh vương đem quân ba phủ vây thành đòi chia sẻ ngôi báu với hoàng thái tử. Bấy giờ trong thành kinh động. Vệ binh được phái đi các nơi phòng thủ. Hoàng thái tử vướng tình máu mủ chưa quyết. Lê Phụng Hiểu nghe chuyện, không nhịn được nữa, bèn đi tìm hoàng thái tử đòi một hai sống mái với quân phản nghịch. Chàng vỗ gươm tâu:-Trước tình thế này xin cho cây gươm của hạ thần ra nói chuyện với chúng. Rồi đó, Hiểu phi ngựa tiến đến cửa Quảng Phúc, tuốt gươm xông vào, chỉ mặt Võ Đức vương quát:-Chúng bay cả gan muốn cướp ngôi ư? Đồ bất hiếu bất mục. Tao cho chúng bay nếm lưỡi gươm này. Võ Đức vương kinh sợ không dám giao phong, quay ngựa toan chạy, nhưng nhát gươm thứ nhất của Hiểu đã làm cho ngựa ngã khuỵu xuống và nhát thứ hai xả đôi người Võ Đức vương. Thế rồi lưỡi gươm của Hiểu múa tít giữa đám quân ba phủ bấy giờ đã chạy tán loạn. Vệ quân của Hiểu được thể mặc sức chém giết. Hai hoàng tử kia chạy trốn biệt tích. Trận đó, ông vua mới cảm ơn Hiểu vô hạn. Hiểu được vua ban tước hầu với chức Đô thống đại tướng quân, coi hết quân sĩ trong nước. Lần đánh giặc thắng trận trở về triều, nhà vua định phong thưởng thêm nữa, nhưng Hiểu tâu vua: -Hạ thần không muốn lĩnh tước. Nhà hạ thần ở chân núi Bơng. Hạ thần chỉ muốn bệ hạ ban cho một số ruộng đất bằng cách đứng trên núi ném dao xuống, hễ dao cắm đến đâu, hạ thần xin lĩnh số đất ấy để về lập nghiệp. Vua đáp:-Tưởng là khanh muốn thế nào, chứ đã muốn ruộng đất thì phải ném dao làm gì cho mệt. Nhưng Lê Phụng Hiểu thì chỉ muốn ném dao. Vua không đợi nói nhiều, bằng lòng ngay. Ngay hôm làm lễ ném dao, mọi người đổ tới xem như đám hội. Trên hòn Băng Sơn chưa khi nào có chiêng trống cờ quạt và quan dân đi lại rộn rịp đến như thế. Dứt tiếng trống, Hiểu cởi trần đóng khố, cầm dao xoay mấy vòng lấy đà, rồi phóng đi. Chiếc dao bay bổng lên như một con chim được thả. Mọi người ngạc nhiên và say sưa nhìn nó bay mãi như một dấu chấm ở lưng chừng trời, xa đến mười dặm mới chịu hạ xuống. Mũi dao chọc xuống địa phận làng Đa Mỹ. Các quan hầu đi đo đạc đóng mốc, trở về cho biết từ chân núi cho đến chỗ ném dao quy vuông lại được hơn một ngàn mẫu. Vua nhà Lý y ước ban cho Hiểu làm hương hỏa truyền cho con cháu và tha không đánh thuế. Từ đó, những ruộng thưởng cho công thần, người ta quen gọi là ruộng thác đao.