Tùy theo bộ phận được sử dụng, hay tùy theo cách sử dụng, nhiều loại cây thuốc là những thứ thuốc độc. Thứ thuốc độc được biết đến ở vùng người Srê là böng kit. Nói như thế không phải là nó thường được sử dụng: quả thật rất ít khi có chuyện đầu độc; nói chung, các loại thuốc độc được sử dụng trong các trường hợp tự sát nhiều hơn là gây tội ác. Cây böngê kin (Jasminum longisetum - Oléacée) khác với loại böngê ăn được, chống sốt rét, có một chất độc trong lá; ăn lá đó tức là tự sát. Ðể có tác dụng tức thì, phải "mua" của lá chất độc ấy; để làm việc đó, người ta cho cây một ít than và buộc vào thân nó một chiếc nhẫn. Sau đó chỉ cần hái vài lá và ăn: sẽ tức khắc buồn ngủ, đầu óc quay cuồng và chết. Ôpkam là một chất độc chết người; lá này đem nấu sẽ xông lên một thứ hơi làm ngạt thở; jar là quả của một loại dây leo. Ðây là một chất độc mạnh; nó đặc biệt được dùng để tẩm các mũi tên của người Mạ; vỏ cây köda, cây söntur (một loại cây dương xỉ), quả gọi là blön kliu (một loại cà tím) là những chất độc nhẹ hơn. Chất giải độc duy nhất được biết hình như là da trâu. Da trâu, nhất là trâu già, được làm cứng lại, nấu chín và tưới rượu cần, ăn vào sẽ có khả năng giải độc. Thuốc cho súc vật - Người Tây Nguyên coi con trâu của mình như một người thân. Ðây là tôi nói về người Srê, là những người làm ruộng nước và cày; những người Tây Nguyên làm rẫy chỉ dùng trâu để giết (cúng thần) không gắn bó với con vật này bằng. Một con trâu bị ốm, việc cày bừa bị đình trệ, là mùa màng cũng bị hại. Hơn nữa, đáng sợ là bệnh dịch, chỉ trong vài ngày có thể sẽ làm tan tành tất cả. Ðể chữa bệnh cho con vật bị ốm, nếu cần người Srê không hề ngần ngại đi xa tìm cho ra cây thuốc thích hợp và cúng hiến tốn kém, chẳng khác gì chữa bệnh cho một con người. Cây töbung chữa trị cho con trâu gầy đến sắp chết. Lá töbung chữa được bệnh. Người ta trộn cơm với vài lá này rồi viên thành những viên nhỏ. Muốn thuốc có tác dụng, thì phải cho trâu ăn vào nửa đêm và không được để cho ai thấy. Cây köda, vỏ là một thứ thuốc độc đối với con người, lại là một thứ thuốc chung các thứ bệnh của trâu; mùi hăng nồng của nó xua bệnh đi. Rit, tức con dơi, là một trong các loại thuốc quý nhất. Phải tìm được một con dơi chết - chứ không được giết nó. Người ta nhúng nó trong nước, rồi xát thứ nước chữa bệnh ấy lên mình trâu. Ðấy là một món quà của Thần, một ân huệ. Người Tây Nguyên đánh thuốc con chó của mình, nhưng vì những mục đích khác. Họ trộn vào thức ăn của nó một thứ sönöm có thể làm cho nó nhanh nhẹn khi đi săn, đuổi bắt được thỏ, sóc và nai, và để cho nó đánh hơi thính hơn. Sönöm jak so là những loại cây có củ, rất giống với các loại cây dùng làm dược phẩm cho người. Cho chó ăn phân hổ sẽ khiến nó phát triển sức mạnh trong khi săn đuổi. Chữa bệnh mà không dùng thuốc - Các kỹ thuật chữa bệnh của người Tây Nguyên rất đa dạng. Ngoài các sản phẩm hóa chất đó, người ta còn dùng các phương pháp vật lý: xoa bóp, xát, ấn, đấm... Cách thức đơn giản nhất để chữa đau ở vùng rốn là tự đánh hay nhờ người khác đánh vào phía dưới thận liên tục. Ðể trị đau đầu, người ta rứt tóc khiến da đầu phát tiếng kêu tanh tách. Trị đau dạ dày, người ta ấn hoặc kéo da bụng. Do tin rằng căn bệnh được cụ thể hóa bằng một vật nhỏ (viên sỏi, hạt gạo, v.v. mà người Tây Nguyên coi như những con vi trùng), người ta cho là phải trục những vật ấy ra thì mới lành được bệnh. Như để trị chứng đau nửa đầu, người ta phải lấy ra được cái hạt gạo bé tí là nguyên nhân của bệnh ấy ở trán, ngực hay lưng. Thông thường một người thân của người bệnh làm việc đó: anh ta dùng một con dao, khứa một vết nhỏ trên da người bệnh để trục cái mầm bệnh ấy ra: có khi họ chẳng tìm được gì cả; nhưng họ nặn ra một ít máu và bảo rằng con vi trùng đã hòa tan trong máu ấy cần phải trục ra. Ðôi khi công việc này là của người thầy cúng; nhưng ông ta thực hiện bằng cách hút. Ở vùng Bana, người thầy cúng lấy cái đau ra, làm lành một vết thương bằng cách cho nó vào trong một cái ống và vứt ra xa. Bệnh kiết lỵ được bà thầy cúng chữa bằng cách nhổ con vi trùng ra khỏi người bệnh. Con vi trùng ấy gọi là bödruh. Ở vùng Xơđăng, người thầy cúng thậm chí chữa bệnh từ xa bằng cách chỉ dùng đến một chiếc áo của người bệnh coi như người làm chứng. Ðôi khi người Tây Nguyên chữa bệnh bằng cách trừng phạt. Như để chữa viêm da do lá cây bangchai gây ra, họ có thể không cần dùng đến thuốc römit, mà đi phạt cái cây đã gây ra bệnh. Họ tìm đến chỗ cái cây có tội ấy, hoàn toàn trần truồng, và ném đất vào thân cây. Ðể không phải nhìn thấy con người ấy, và để khỏi bị đất làm bẩn, mầm bệnh phải thoát ra khỏi cây và chạy trốn; như vậy cùng lúc đó con người ấy sẽ khỏi bệnh. Cũng còn có những hình thức khấn vái để chữa bệnh. Người Êđê biết những "lời cầu khấn chữa khỏi bệnh xuất huyết". Trong tất cả các phương thuốc vừa kể trên đây, dường như chúng tôi đã đánh đồng những loại thuốc thực sự với những mê tín hão huyền. Có thể như vậy. Rất tế nhị trong việc phân định ở một lĩnh vực quá rộng và quá xa lạ như vậy. Làm sao có thể khẳng định rằng những điều kiện nào đó, gắn liền với Phong tục trong việc sử dụng một phương thuốc nào đó, không có ý nghĩa gì đối với tác dụng của nó? Phải chăng chúng ta có quyền nghĩ rằng những nguyên nhân và những kết quả vượt ra ngoài tầm hiểu biết của chúng ta có thể được những người Tây Nguyên, vốn gần gũi với thiên nhiên hơn, cảm nhận một cách bản năng? Có điều chính họ, họ không hề có sự phân định đó; họ nhìn mọi sự một cách nghiêm túc. Một sự cả tin vô bằng chứng chăng? Hay là lòng tin cơ sở trên kinh nghiệm? Dù thế nào đi nữa, có một hệ số công hiệu nhất định. Công hiệu của những thuốc bùa truyền thuyếtNgoài những phương thuốc chính thức, người Tây Nguyên còn biết và sử dụng nhiều thứ sönöm, bùa bả và thuốc bôi có tác dụng kỳ diệu. Người ngoại đạo chỉ cười nhạo; những ai đã quen với người Tây Nguyên và sống cùng họ, thì nghiên cứu chuyện này một cách không định kiến. Sönöm khiến việc đi săn thành công (đặc biệt trong vùng người Mạ): thuốc Göling khiến người ta khéo tìm ra được con mồi; loại củ này đặc biệt công hiệu khi nó được ăn với máu voi; thuốc Banglut khiến người ta ngắm ná trúng; thuốc Gup khiến người đi săn có thể đến gần con mồi mà nó không trông thấy được mình; thuốc Pharpro làm cho tầm vũ khí đi được xa; thuốc Pharpi, dùng trong khi di săn voi, khiến nó ngủ say hay mụ đi; thuốc R'nong khiến nhát lao đâm mạnh hơn. Người ta bảo một người có loại sönöm này đâm chết bảy con hổ chỉ với một cây dáo và bảy mũi sắt khác nhau. Người ta kể rằng có một người thợ săn khác, đâm một con voi đang ngủ, chỉ một phát đã xuyên qua cả đầu nó từ trên xuống dưới, rồi lại đâm xuyên từ nách bên này qua nách bên kia của nó; anh ta đuổi theo con voi đã bị tử thương đến tận sông và lặn suốt nửa ngày dưới đáy sông để rút cặp ngà của nó ra. Theo phong tục Rơngao, lấy được da con rắn đang lột xác sẽ khiến ta trở thành vô hình khi đi săn. Sönöm khiến việc đánh cá thành công: Thuốc Ndar, mắc vào mồi, sẽ câu được nhiều cá; thuốc Jirlê, thuốc Bung làm cho cá say. Người ta xát các thứ quả này vào lưỡi câu, khiến nước bị nhiễm độc. Ðấy là thuốc Deng của người Bana; thuốc Könja-tul dắt ta đến chỗ có nhiều cá. Sönöm gây cười: Thuốc Nyonye làm cho mọi người cười, chỉ trừ người mang nó. Sönöm khiến người ta không phải bị phạt vì các tội của mình: thuốc Banling khiến người ta hung hăng và bất bại. Cho trâu ăn loại củ này sẽ khiến nó húc các con trâu khác; thuốc Mhoal làm cho người ta trở thành hùng biện và thắng trong các cuộc tranh luận; Sönöm Pörlum khiến ta đánh lừa người khác mà họ không hề hay. Ngày xưa chính con thỏ có được loại thuốc này; thuốc De làm cho các tên ăn trộm trở nên vô hình. Tuy nhiên, nếu người bị mất trộm có được thuốc sönöm Klang-kô (lông cánh con cò bạch) thì anh ta sẽ tóm được kẻ trộm. Sönöm làm tăng trí nhớ và ăn nói trôi chảy: thuốc Gölal cho ta khả năng nhớ lại các truyền thuyết và truyền thống xa xưa, thông thạo phong tục tập quán; thuốc Salao làm cho người ta thông minh và biết suy nghĩ; thuốc Kracha khiến lời nói trôi chảy. Sönöm Jak: làm cho người ta trở nên khôn khéo trong mọi việc. Ðối với những người thường, Sönöm Jak gồm có römit, bột tre và rượu cần. Thầy cúng thì dùng loại chế bằng da rắn. Sönöm đem lại may mắn: thuốc Tönho. Ai có thứ thuốc này sẽ được người khác cho ăn mà chẳng phải tốn một xu; thuốc R'nhoê. Loại củ này, trộn với vỏ cây có con nai đến cọ mình vào đó, được đem đặt dưới ngưỡng cửa nhà sàn. Mọi người sẽ thích đến chơi nhà này; ai có được thuốc Gun-jirko sẽ khiến mọi người yêu mến; thuốc Pögang deng (Giarai) làm cho tránh được các tai họa; người ta mang loại củ này trong một nếp khố; thuốc Pögang kla xua được hổ; thuốc Hla ndei (Xơđăng) là một thứ nhánh cây được làm phép để xua đuổi ma quỷ ra khỏi nhà; thuốc Baboh làm cho ta đạt được những gì mình muốn; thuốc törleh-njang khiến ta không thể còn hận thù với kẻ đang thù ta; thậm chí ta không thể đòi anh ta phải trả nợ. Nanh con chuột bạch và mỏ con chim vẹt là những thứ sönöm-mang-lại may mắn đối người Rơngao. Phần lớn các sönöm kỳ diệu này đều là thảo mộc; theo tư duy Tây Nguyên, chúng đóng một vai trò to lớn trong việc tạo nên thế giới. Chúng ta sẽ có dịp trở lại vấn đề này khi nghiên cứu về Tôn giáo, siêu hình học của Tây Nguyên. Phép vi lượng đồng cân và bức xạ Trong các loại sönöm nói trên của Tây Nguyên, nhiều thứ vừa là thuốc chữa bệnh vừa là thuốc độc, đặc biệt như böngê, bangchal, bangsrah. Vả chăng đấy cũng là trường hợp của hầu hết các loại dược thảo. Cây thuốc tự nó đã "có khuynh hướng" gây ra bệnh; chịu một sự chế biến nào đó, nó có thể chữa được bệnh ấy hay một bệnh khác. Như là cây bangsrah gây ra viêm da; khi đem nấu chín nó lại chữa được bệnh thấp khớp. Sönöm ji nus chỉ cần bốc hơi gây ra đau tim, sắc uống nó lại chữa đau tim. Người Tây Nguyên thường nói các loại sönöm (tất cả các sönöm -củ) "cắn, bắt người" ngay từ xa; cũng tức là nói rằng chúng phát ra những bức xạ có hại. Chính vì tác dụng kép của chúng, mà không bao giờ được trồng các loại sönöm gần nhà: nó sẽ làm cho người khỏe nhiễm bệnh, và nhiễm ngay thứ bệnh mà nó có công dụng chữa cho người có bệnh. Một người nào đó chữa bằng sönöm ji nus chẳng hạn, thứ sönöm này có thể làm cho những người khỏe mạnh chỉ cần ở chung nhà phải bị nôn. Ðể chữa các tác dụng gián tiếp có hại đó, thông thường phải làm như sau: người chữa bệnh bằng sönöm ji nus nhúng một mẩu tóc và cùi tay của mình vào nước; anh ta bôi nước ấy vào người bị nhiễm sönöm; ảnh hưởng huyền bí sẽ bị thủ tiêu. Hiện tượng kỳ lạ nhưng được ghi nhận đó, thường gặp trong các trò ảo thuật, dường như là một trường hợp thể hiện quy luật chung về sự đối xứng trong tổ chức vũ trụ và được biểu hiện bằng nhiều cách. Trong số các sönöm có tác dụng kép, người Tây Nguyên phân biệt những loại ác liệt hơn cả mà họ gọi là sönö yöh (thuốc nguy hiểm). Ðặc biệt là các thuốc: Kôp-mang, Bu-pis, Pu, Changlir. Chúng tác động từ xa đến cả một người qua đường bình thường không chú ý. Những người biết các thứ thuốc ấy cất chúng ở nhà mình; như vậy chúng gây hại cho họ. Nếu một trong các thứ sönöm đó gây hại cho một người lạ, người có thuốc sẽ chữa cho anh ta bằng chính thứ sönöm đó. Chỉ cần xoa hay bôi bằng thứ thuốc nguy hiểm đó là người bị nhiễm bức xạ sẽ khỏi ngay. Có những trường hợp bố mẹ cho con uống một trong những thứ thuốc bức xạ đó, trong lúc nó đang ngủ. Như vậy đứa bé sẽ có được sönö yöh này trong người và sẽ không còn bị nhiễm thứ sönöm này nữa, nó lại có thể chữa cho những người bị nhiễm sönöm này. Nước cũng phát ra bức xạ, các nguyên nhân gây bệnh và các thứ thuốc chữa bệnh. Kôp tönoâ là một tình trạng gần như bị ảo giác: người bệnh, trong tình trạng ngủ, có những nỗi sợ hãi, kinh hoàng, đôi khi thấy những ảo ảnh; tình trạng này không hiếm ở trẻ con; đôi khi đó là bệnh mộng du. Người ta bảo chính nước "gây ra" điều đó, và nước sẽ chữa được bệnh đó. Sau một lần tắm bình thường ở sông, đứa bé có thể bị mắc bệnh đó. Ðể chữa cho nó, người ta tìm lấy nước của chính con sông đó, đổ lên đầu đứa bé đang mắc bệnh. Trong khi đổ ngập nước lên đầu đứa bé như vậy, người ta mô phỏng tình trạng của nó khi nó đâm ngập đầu xuống nước: nó vẫn còn có ý thức, nhưng lại nhìn thấy mọi vật một cách khác, nó có thể hoảng sợ. Ảo giác của đứa bé, do nước gây ra là như vậy. Người ta chữa bằng cách đổ những lên đầu nó, là tượng trưng tình trạng bất bình thường của nó. Nước là nguyên nhân căn bệnh trở thành thuốc chữa chính căn bệnh ấy do phép chơi một biểu tượng có chủ định. Một đứa bé chơi dầm nước quá lâu trong một đầm lầy, trong bùn, có thể nhiễm bệnh, và trở thành gần như cuồng loạn. Ðể chữa cho nó, chỉ cần lấy ngay nước hay bùn độc ấy và xát vào người đứa bé. Cũng giống như các loài cây và nước, đất cũng phóng xạ. Có những chỗ đất có dòng điện có hại khiến những người làm nhà trên chỗ ấy bị bệnh. Trường hợp này ít khi xảy ra đối với những người dân ở chung thành làng, đất đã được chọn chung và được thử thách rồi. Tuy nhiên có trường hợp sau một trận dịch, tất cả dân làng cùng quyết định thay đổi chỗ ở vì chính chỗ đất đó đã gây ra bệnh; cả làng dời đi đến một khoảng cách nào đó. Trường hợp đất gây bệnh thường xảy ra đối với các chòi rẫy nơi người ta ở theo mùa. Ðất trên các rẫy ấy không được dân làng hiểu rõ bằng đất cư trú của làng; chúng thường bị "kết tội" là nguyên nhân của một căn bệnh nào đó, đặc biệt là bệnh thấp khớp và bệnh phong. Nhưng sau khi đã phát bệnh thì mới biết được chỗ ấy thật sự là đất xấu. Cho nên, nếu một người mắc bệnh (thấp khớp, phong,...) nhớ mình ta đã mắc bệnh từ lúc sống ở một chòi rẫy nào đó, anh ta sẽ cố nhớ lại địa điểm chính xác nơi anh ta đã nhiễm bệnh. Nếu tìm và đến lại được đúng chỗ đó, anh ta sẽ cố nhận ra dấu vết căn chòi bẩn thỉu nọ, cuốc hết đất chỗ đó, và đổ đi thật xa; nếu ngày trước anh đã nhiễm bệnh phong tại đó, anh sẽ nói như vậy là anh đã "vứt bệnh phong đi", đồng nhất chỗ đất đó với căn bệnh do nó gây ra. Ở vùng Êđê, đất một nấm mồ mà người chết không thích có thể làm cho một người thân của người chết đổ bệnh. Chỗ đất ấy cũng sẽ là phương thuốc: một thành viên trong gia đình đến lấy một ít đất ở đầu nấm mộ; chỗ đất đó đem hòa với nước nóng trong một cái nồi; người ta hướng hơi bốc ra vào chỗ đau, và trùm một tấm chăn lên cả người. Người Êđê gọi kiểu xông đó là môhul. Gắn với các hiện tượng đó, là phương pháp chữa bệnh sau đây: người ta chữa bệnh viêm mắt bằng cách làm cho chảy máu ở một điểm nào đó trên cơ thể (thông thường là trên lưng), điểm đó là một cái nhọt tấy lên cùng lúc với bệnh đau mắt và tương ứng với mắt. Ðiểm ấy gọi là klun mat, "dạ dày của mắt". Ðấy là trường hợp châm cứu duy nhất mà chúng tôi quan sát được. Trước cái khoa học có vẻ kỳ lạ và huyền bí đó, mà chúng tôi đã nhận thấy có một số hiệu lực thật sự, hình như chúng ta không được phép nghĩ rằng đó chỉ đơn giản là chuyện mê tín, một kiểu kết luận hoài nghi và không khoa học. Không có gì chứng minh rằng người Tây Nguyên không biết tận dụng một sự hiểu biết nào đó về các bức xạ do các vật thể phát ra. Từ những thời rất cổ xưa, nhân loại đã có một số khái niệm trong lĩnh vực này, mà từ đó thời hiện đại tìm cách xây dựng một nền khoa học. Chúng tôi không muốn kết luận. Y học và sự tái sinh Hệ thống phức tạp các tác dụng và cách sử dụng các loài dược thảo là một biểu hiện của một quan niệm tổng quát hơn mà chúng tôi sẽ nghiên cứu trong chương nói về Tôn giáo: vai trò tái sinh của các loài thảo mộc trong quan niệm tôn giáo về vũ trụ. Con người gắn bó chặt chẽ với Tự nhiên; đất đã cung cấp chất liệu để làm nên cơ thể con người, cây đa thì cung cấp chất liệu để làm xương, các dây leo làm các mạch máu. Cơ thể con người là một sản phẩm của Tự nhiên; Tự nhiên sẽ phục hồi các tổ chức của cơ thể bị xáo trộn một cách đột xuất, theo những chuẩn mực nguyên lai. Các linh hồn là đối tượng của các giác quan dưới những hình thức ngẫu nhiên khác nhau: cơ thể con người, cây đa, cái sönöm böla, là những hình thức của linh hồn ở cùng một cấp độ. Các hình thức này có thể tác động lẫn nhau cùng lúc và qua lại với nhau. Linh hồn tồn tại mãi dưới một dạng này hay một dạng khác; các hình thức của nó tuân theo các quy luật của chu kỳ đổi mới vĩ đại. Bản chất của con người phụ thuộc vào sự đổi mới đó, cũng giống như tự nhiên mà phương Tây coi là vô tri; cái này đã "sinh ra" cái kia; cái kia cần có các lực tái sinh của cái này, từ đó mà có việc sử dụng các loài thảo mộc để chữa bệnh. V. Từ những phương thức biểu hiện đơn giản đến việc đi tìm cái thẩm mĩ Bản năng của con vật khiến nó đi tìm cái cần thiết để tự nuôi sống; bản năng của con người, dù là nguyên thủy nhất, khiến nó đi tìm cái đẹp, ưa cái phù phiếm. Ðối với tất cả các phương thức biểu hiện, con người hướng tới chỗ đem đến cho nó một hình thức thẩm mỹ, đôi khi đơn sơ và tự nhiên, như vẻ duyên dáng của một cử chỉ quen thuộc, đôi khi thật cao cả, đến tận đỉnh cao của nghệ thuật thuần túy, như âm nhạc. Công trình nghiên cứu này sẽ cho thấy những mức độ ấy trong các phương thức biểu hiện quen thuộc của người Tây Nguyên. Cử chỉ - Điệu bộ -Trò chơi -Nhảy múa Một người tiếp xúc với một dân tộc khác với dân tộc mình cảm thấy hoang mang vì cái ngôn ngữ mà anh ta không hiểu; từ đó nảy sinh cảm giác "xa lạ". Nhưng chỉ cần anh nhận ra được một cử chỉ quen thuộc đối với anh là anh sẽ thấy đỡ lạc lõng ngay; anh sẽ bắt gặp lại được ở những con người, trước đó đối với anh là mới lạ, một vẻ thân thuộc khiến anh có thể họ qua một dấu hiệu đơn giản, một cử chỉ sơ đẳng nhất gợi lên ngay tức thì một sự thông tiếp về ý tưởng. Con người trên khắp trái đất này đều giống nhau; các phương tiện biểu hiện đơn giản nhất của họ đều giống nhau, dù đó là một người trí thức ở thành thị hay một người nguyên thủy ở trong rừng rú. Như các cử động của đầu để nói đồng ý hay không. Như cái mã phổ biến các cử chỉ để biểu lộ cơn buồn ngủ, cái đói, cái đau. Cũng là phổ biến toàn nhân loại, những cử chỉ của người mẹ ru con, âu yếm con, đánh đuổi cái đối tượng "ác" làm cho con đau - cũng như những động tác biểu cảm đầu tiên của đứa trẻ sơ sinh chưa biết nói nên lời. Các cử chỉ minh họa cho lời nói cũng vậy, những cử chỉ biểu lộ sự khinh bỉ (dậm chân, khạc nhổ, xỉa ngón tay), hay bộc lộ niềm vui (vỗ tay). Nhưng đến vỗ tay thì đã là bắt đầu có thẩm mỹ, vì nó tuân theo một nhịp điệu (vỗ một cái, im lặng, lại vỗ một cái,...), và đã nhằm một thích thú vô tư. Phong tục Tây Nguyên còn quy định một số cử chỉ và thái độ có ý nghĩa biểu tượng và nhất quán hơn: như việc cam kết, đánh cuộc giữa hai người ngón tay cong lại nghéo vào nhau, một kiểu "đồng ý!"; giao ước liên minh hay cưới xin bằng việc trao vào tay nhau chiếc vòng; kết quả một thỏa thuận, một lời hứa, giữa hai phía, người này đổ cơm của mình vào bát của người kia: giữa chồng và vợ, cử chỉ đó là nghi thức quyết định của việc ly hôn; giữa người tổ chức một buổi lễ và người khách của mình, đó là lời mời đến uống rượu: "thời kỳ chuẩn bị đã xong, lễ hội hoàn tất". Có những cử chỉ đi kèm theo lời thề hay mang ý nghĩa là lời thề (đặc biệt ở người Bana); như cắn vào một sợi dây biểu lộ sức mạnh của mình: "Nếu tôi nói không thật tôi sẽ bị treo cổ!". Các điệu bộ đó, đủ sức biểu cảm dù không cần có lời nói kèm theo, đã thuộc về nghệ thuật kịch; các tư thế được sắp xếp và mang tính truyền thống; đấy đã là những hiện tượng thuộc phạm trù thẩm mỹ. Trong lĩnh vực tôn giáo, các cử chỉ đi kèm theo các lời khấn, dâng cúng và hiến sinh, và tượng trưng cho những việc ấy, thật sự là những thành phần của một vở kịch. Toàn bộ cơ thể con người diễn xuất: lạy, quỳ, rước, hôn; và nhất là các ngón tay: chạm các ngón tay vào nhau để ban thánh thể trong lễ cúng dâng với những người tham dự, bàn tay chắp lại của người cầu khấn, nâng cần rượu lên khi uống rượu cần, v.v. Những người thực hiện các nghi thức ấy là những diễn viên diễn lại vở kịch cổ, vở kịch đã được diễn như thế từ thuở khai thiên lập địa, và họ đắm mình vào cuộc chơi. Trò chơi - Trò chơi là một hoạt động, hiểu theo nghĩa không vụ lợi, mà con người sáng tạo ra trong khi đi tìm niềm khoái cảm. Nhiều trạng thái tinh thần khác nhau được biểu hiện bằng phương tiện này: niềm vui, sức mạnh, sự thống trị, sự nỗ lực. Trong phương ngữ Srê, nhöl nói chung có nghĩa là: vui đùa, trò chơi, thú vui. Ði theo sau một động từ hành động, nó có nghĩa là người ta thực hiện hành động đó "chẳng để làm gì cả", "chỉ vì thích thú"; như "đi nhöl", tức là đi chơi, chẳng có mục đích lợi ích gì. Người Tây Nguyên vốn rất trẻ về mặt tinh thần, biết đùa chơi ở mọi lứa tuổi và, giống như trẻ con, họ thích chơi với những thứ chẳng ra gì cả hay với những đồ vật tượng trưng do họ làm ra, hơn là với những đồ chơi được làm sẵn hoặc tham gia những trò chơi có tổ chức. Yếu tố vô tư là cốt yếu đối với trò chơi của họ. Những đứa trẻ có xu hướng thích thú với những trò chơi cá nhân hơn; chỉ cần một vật chẳng đáng kể gì cả, đứa bé đã có thể chơi suốt ngày. Nó biểu lộ những suy nghĩ, những ham thích của nó bằng cách chế ra những thứ nho nhỏ mà nó làm "chẳng vì cái gì cả": nặn một con trâu bằng đất sét, hình mẫu một đám ruộng, một căn nhà sàn, cột cúng thần cỡ nhỏ; nó thắng một con bọ hung vào một chiếc xe bò bé tí; nó chơi trò đi săn trong đó nó hết đóng vai người thợ săn lại đóng vai con nai, tùy theo lúc nó cầm cây ná hay lúc nó cắm hai cái sừng lên đầu. Con gái chơi trò nấu ăn. Ðứa trẻ dùng nhựa pöga và một cái ống trúc nhỏ hay một thân cây rỗng để thổi những cái bong bóng xanh lơ và nhìn theo. Lớn lên hơn, chúng thích các thú chơi có tính chất xã hội. Bọn trẻ chăn trâu để mặc cho trâu ăn lúa của người hàng xóm, trong khi tập họp nhau lại chơi trò ú tim hay trò bịt mắt bắt dê, một trò chơi được ưa thích ở Tây Nguyên cũng như ở phương Tây. Cũng đã đến lúc chúng thích đọ sức trong các cuộc đua. Trong khi trò chơi mang tính chất đấu tranh, nó cũng trở thành một biểu hiện mang tính thẩm mỹ. Trí tưởng tượng càng phong phú thì đối tượng của các cuộc ganh đua đó càng đa dạng; chúng thường thuộc loại điền kinh: xem ai vật ngã được đối thủ bằng cách nắm ở thắt lưng, ai lặn được dưới nước lâu hơn, ai ném được xa hơn một cây lao bằng tre, ai tung được một hòn đá lên trời cao hơn. Người ta thi nhau xem ai làm được con quay gỗ kêu to hơn; ai ăn được nhiều ớt hơn. Trẻ con cũng tổ chức thi thả diều; đứa thua phải trả tiền bằng... lá cây; chúng mắc nợ nhau một nải chuối... mà chúng sẽ bẻ trộm ở vườn của người hàng xóm, hay một quả trứng mà chúng sẽ lấy trộm của bố mẹ. Ðứa thắng sẽ trở thành thủ lĩnh của cả đám. Các cuộc thi đấu điền kinh, nhất là các cuộc vật nắm thắt lưng rất gây ấn tượng. Ðấy là những cuộc đấu về tài uyển chuyển; không bao giờ có chuyện hung bạo. Trẻ con chen lấn, xô đẩy nhau, nhảy lên, kêu lên "hu! hu!" mỗi lúc đấu sĩ cố vượt lên, cho đến khi một trong hai người bị vật ra đất. Những cơ thể ở trần thu mình lại, uốn cong, bung ra thật đẹp. Chung quanh họ, một đám khán giả trẻ cổ vũ, kích thích, vỗ tay, cùng rung động theo trận đấu, không phải thèm khát sự hung bạo và các cú đánh, mà vì một sự thích thú lành mạnh và vui vẻ. Cũng như đám trẻ này, trong các trò chơi của mình, đàn ông chỉ nhằm tìm niềm thích thú vô tư. Họ không hề nghĩ đến những môn thể thao có thể kiếm lợi; họ chỉ chờ đợi ở đây một trò tiêu khiển về cơ thể và tinh thần. Các cuộc thi là vì danh dự: chạy đua, nhảy, ném lao, bắn ná. Ðôi khi môn điền kinh nhường chỗ cho trò hài: thách nhau ăn liền hai chục quả ngô, trọn một nải chuối, nuốt một quả trứng mà không nhai. Ðối tượng thi đấu cũng có thể là súc vật: các cuộc chọi gà rất được ưa thích. Cái được thua bao giờ cũng thật đơn giản: chẳng hạn người thua mời người thắng uống rượu cần của mình. Một số người khéo tay chơi trò ảo thuật, vì sự thích thú của khán giả, làm những chiếc bẫy, những chiếc nút thắt bằng dây leo tự nó bung ra. Ðôi người làm trò ảo thuật hiếm hoi và khéo léo rất nổi danh; một trò nổi tiếng là làm sống lại một con gà đã bị đập chết, chẳng hề có chuyện thầy cúng gì trong trò này. Người Tây Nguyên không biết đến các trò chơi may rủi. Nếu người ta cho họ biết những trò đó, họ chẳng thèm quan tâm; đối với họ đó không phải là trò chơi, vì họ không tìm thấy ở đó niềm thích thú mà họ mong muốn. Nghệ thuật trò chơi nảy nở trọn vẹn trong nghệ thuật kịch. Người Tây Nguyên không đóng kịch theo nghĩa như quan niệm của phương Tây. Họ không biết đến sân khấu [1], rạp hát; tuy nhiên họ biết dàn cảnh và vai diễn. Một phiên xử án (theo luật tục) chẳng hạn, là một vở diễn gồm có bi kịch và hài kịch, cũng giống như cả cuộc đời người. Các nhân vật đóng các vai diễn thật sự: vị quan tòa, không phải lúc nào cũng làm nghiêm; khán giả - những người đóng vai phụ - coi đây là một dịp khoái trá để tiêu khiển. Ở nơi nào cũng vậy, một phiên tòa thời bình là một vở kịch phong tục tuyệt vời, thường được diễn một cách hết sức tự nhiên. Ý tưởng ganh đua không phải là xa lạ trong loại trò chơi diễn kịch này: những người biện hộ thi nhau nói thật to và nhất là thật dài để khiến cho vị quan tòa phải mụ người đi, lại còn thêm có rượu nữa. Ðỉnh cao của nghệ thuật kịch Tây Nguyên là ở các lễ hội tôn giáo, trong đó mỗi người được phân một vai nghi thức theo một truyền thống cổ xưa và không thay đổi. Lễ hội lớn hiến tế trâu của làng là một trò chơi kéo dài ba đêm và mang tính chất trang trọng, song không vì thế mà mất đi khía cạnh vui chơi vô tư, dư thừa mà chúng ta đã nhận thấy trong các trò tiêu khiển thông thường. Chính những người bản địa phân biệt ra ba hồi trong vở kịch nghi thức này, tương ứng với ba ngày: Hồi 1: Lễ đón tiếp. Cảnh thứ nhất là động tác mời của người chủ nhà có trâu hiến tế đối với các bạn bè và người quen của ông ta. Ông ta xác định ngày hẹn làm lễ, trình bày lý do của lễ, mô tả con trâu sẽ hiến tế. Ðấy là tiết mục giới thiệu chủ đề của vở kịch, trong đó con trâu là nhân vật chính. Cảnh hai là cuộc gặp gỡ ở ven làng giữa chủ và khách; người ta nói với nhau những lời thường lệ, chúc tụng nhau, mừng đón nhau. Tiếng chiêng đưa khách vào đến làng, kết thúc Hồi I bằng một cảnh nhạc. Hồi 2: Chè chén say sưa, kéo dài từ đêm thứ nhất đến rạng sáng ngày hôm sau. Trước hết là cảnh truyền thống các ghè rượu được mở ra, mời và uống theo nghi thức thích hợp. Nửa đêm, phần đông những người đóng vai phụ đều đã thiu thiu ngủ, là đến cảnh các cụ Già làng hát những bài ca truyền thuyết mà các cụ đã thuộc lòng. Mờ sáng diễn ra cảnh chủ chốt của lễ hiến tế: một đám rước vây quanh con trâu, nhân vật câm, trung tâm của vở diễn; người ta an ủi nó, cho nó uống rượu, rồi giết. Hồi 3: Những con ruồi (dịch đúng từng chữ: "đêm giành cho các con ruồi", tiếp theo "đêm người ta uống rượu"). Hứng thú của vở diễn giảm đi rõ rệt. Ba cảnh chính trên sàn diễn: phần lớn các diễn viên nằm ngủ và tiêu hóa những gì họ đã uống hôm trước, trong khi các cụ Già làng, tỏ ra kiên cường, uống tiếp những ghè rượu mới nhân lễ dỡ bàn thờ. Các bà thì cất giữ thịt trâu đã xẻ trong những chiếc ghè lớn. Cuối cùng, khi ngày đã muộn, các vai diễn đã xong, mọi người đã mệt, bọn ruồi vào cuộc; giống như những con người ăn mặc những bộ quần áo đẹp bóng lộn, chưng diện bộ cánh phơn phớt xanh, óng ánh, chúng đổ xô vào những chỗ thừa thãi và bộ xương của con vật đã hiến sinh, phần giành cho chúng theo truyền thống. Một nghi thức như vậy là một hiện tượng thuộc phạm trù thẩm mỹ. Ở đây người ta không chỉ đi tìm cái phù phiếm, cái thú vui, mà cả cái đẹp, biểu hiện trong trang trí: trang phục của những người tham dự (khách mặc quần áo trắng, chủ nhà-người tổ chức mặc quần áo đỏ, các cây ô chỉ được đem ra diện trong dịp này...), trang trí trong làng, trong nhà, âm nhạc. Ý tưởng ganh đua cũng biểu hiện trong trò chơi hoàn chỉnh này: xem làng nào, năm này qua năm khác, tỏ ra là người tổ chức hào phóng hơn. Con trâu nào to hơn, nhà nào trang hoàng đẹp hơn, rượu nào ngon hơn, đấy là niềm tự hào của người chủ nhà. Múa - Hình như múa không phải là một nghệ thuật bản địa của người Tây Nguyên. Không phải tất cả các tộc người đều múa, và những tộc người có múa đã học được của những người nước ngoài: các tộc người ở phía Ðông học của người Cămpuchia, các tộc người phía Tây (Raglai, Noang, Noup, Cil) học của người Chàm. Chính người Tây Nguyên cũng nói: "Người Chàm đã dạy chúng ta múa". Hầu như bao giờ cũng mang tính chất tôn giáo: người ta múa nhân dịp hiến sinh một con dê, một con trâu ("gà thì chẳng phải nhọc công"), nhân dịp đám cưới, đám tang (tộc người Bana). Người ta múa trong nhà, trên bãi cỏ, ở nghĩa trang. Nhìn bên ngoài, mục đích là vui chơi; nhưng bên trong đấy là một vấn đề sùng kính; người ta tìm cách làm cho các Thần vui lòng, phục vụ các Thần mọi điều có thể. Kimlang là một điệu múa chiến đấu lớn của người Xơđăng; múa rất chậm, nó nhằm xin các Thần ban ơn và cầu được thắng lợi. Trong phương ngữ Srê, múa là tam ya, thành tố tam có nghĩa là qua lại lẫn nhau. Qua lại lẫn nhau ở đây không phải là do múa nhiều người, trao đổi với nhau những cử chỉ có nhịp độ, bởi vì từ ngữ này cũng được dùng khi người ta múa một mình. Tam mang nghĩa qua lại lẫn nhau đây là để nói về tính đối xứng của các động tác tay chân so với trục cơ thể: tay đung đưa và chân gập xuống, lặp đi lặp lại và đáp lại nhau. Múa Tây Nguyên không phải là một sự dịch chuyển cơ thể, mà là một sự uốn éo có nhịp và mềm mại. Nếu nhiều người cùng múa, thì các thân người không chạm vào nhau; họ lặp đi lặp lại cùng những động tác ấy trên một hay hai đường thẳng, hoặc vòng tròn theo điệu: sol, la sol, fa fa, sol sol fa của tiếng kèn mboat. Trong múa, người ta đạt đến nghệ thuật thuần túy, hướng về tôn giáo. Ý niệm vui chơi đã được vượt qua; người múa đến mệt lả, khán giả cùng căng thẳng; đôi khi họ thấy người múa ngã lăn ra và như bị thôi miên đi. Trang phục trong khi múa, tiếng nhạc gợi lên điệu múa và nâng đỡ nó, các động tác của những cơ thể đẹp với những đường nét thuần khiết, tất cả đều chỉ là để vươn tới cái đẹp. Và như vậy là để làm vừa lòng các Thần. Múa, trò chơi đầy nhịp điệu của cơ thể, là món quà dâng cúng êm dịu của con người, của toàn bộ con người họ, đi đôi với với cảnh hiến sinh đẫm máu mà con vật có nhiệm vụ tượng trưng.
[1]Tuy nhiên, ở vùng người Xơđăng, có một kiểu hình thức sân khấu trong Trò bắt cóc: hai người đàn ông giữ các cô gái; một anh chàng nghèo khổ xuất hiện, tìm cách bắt cóc một cô gái. Sau nhiều lần cố gắng, anh ta đánh lừa được những người canh giữ, ôm lấy cô gái, ngây ngất vì sung sướng... ngã ra bất tỉnh.
[1]Tuy nhiên, ở vùng người Xơđăng, có một kiểu hình thức sân khấu trong Trò bắt cóc: hai người đàn ông giữ các cô gái; một anh chàng nghèo khổ xuất hiện, tìm cách bắt cóc một cô gái. Sau nhiều lần cố gắng, anh ta đánh lừa được những người canh giữ, ôm lấy cô gái, ngây ngất vì sung sướng... ngã ra bất tỉnh.