(Các dân tộc miền núi Nam Đông Dương)
Phần XVI
Phụ lục

Linh hồn và các giấc mộng
Người Tây Nguyên, đúng như một người nguyên thủy, sợ tất cả, và chẳng ngạc nhiên về bất cứ điều gì. Họ thấy mình yếu đuối, thấp kém, bất lực, ngu dốt. Họ sợ tất cả những gì không phải là mình: các lực lượng của tự nhiên, các con thú trong rừng, những người lạ. Dù là đi chặt gỗ trên rừng, đi ra chợ Di Linh, đi đâu đó hơi xa, bao giờ họ cũng cảm thấy, trong các hành vi của mình, một lực lượng thù địch đe dọa; và ngay cả khi họ không hề động đậy chân tay, họ cũng không thoát khỏi các Thần ác mà họ sợ hơn mọi thứ. Tóm lại, họ thấy mình thua kém, và điều đó ở trong một không khí sợ sệt, có hay không có lý do.
Họ cũng có một khả năng cảm thụ đáng chú ý và một tính cả tin mềm dịu - họ học mọi thứ và rất dễ tin; cái kỳ lạ, cái khác thường, cái kỳ diệu bao bọc lấy họ và đối với họ là tự nhiên. Họ nhìn một điều kỳ diệu vượt quá họ bằng cái lô-gích đơn giản nhất và thích lối giải thích đó hơn mọi thứ khác; tự nhiên vốn đầy những điều huyền diệu và bí ẩn, họ chẳng hề ngạc nhiên về bất cứ điều gì.
Chúng tôi nghĩ rằng, "khiên cưỡng" một chút, ta có thể có một ý niệm về cái mặc cảm đó khi so sánh với con người của ta lúc ta nằm mơ, cái trạng thái theo tôi dường như gần với dáng vẻ tư duy của người mọi hơn cả: con người bất lực trước những gì vượt quá mình, gây nên sự sợ hãi và, đồng thời đầu óc lại quy phục không còn ngạc nhiên nữa, đi vào cõi kỳ lạ và huyền diệu.
Ðối với người Tây Nguyên thế giới hiện lên như là một chuỗi hình ảnh mà nội dung không giải thích được nó. Tất cả đều là hình ảnh, rup; chúng ta chỉ nắm được chúng, còn sự thật sâu xa thì chẳng thể biết. Và giấc mơ là gì nếu không phải một sự phóng chiếu siêu nhanh các hình ảnh kỳ lạ? Vả chăng, đối với người Miền núi, có một mối liên hệ sâu xa, sinh động nối liền giấc mơ với trạng thái thức: đấy đều là cái hồn ấy, soan, ban ngày dưới dạng rup người, ban đêm lại dưới một dạng rup khác, cảm nhận các hình ảnh liên quan đến điều kiện cái rup của mình, mà sự thật sâu xa vẫn là một.
Soan, hồn.
Ðêm bên bếp lửa trong nhà người Tây Nguyên. Chúng tôi nói với nhau rất lâu về những đề tài nghiêm túc; tôi yêu cầu họ giải thích cho tôi về soanrup, những thực thể mà tôi không hiểu rõ...
Bếp lửa gồm một cái khung gỗ đặt trên nền nhà, đựng đầy đất, trên đó các cây củi đang cháy; ở cuối bếp, có một tấm gỗ hay tôn, dựng đứng. Một vật đặt giữa bếp lửa và tấm ấy sẽ in bóng lên đó. Và vậy là nảy ra cách giải thích: một vật, giả định không thể nhìn thấy (cái nhìn chỉ có thể thấy được những gì diễn ra trên tấm gỗ hay tôn kia), chiếu bóng của nó lên tấm ấy; ta chỉ biết được cái hình ảnh ấy. Sự thật - tức vật không nhìn thấy - là soan (hồn, cái tinh thần khiến ta sống, cái phần sâu xa nhất trong chính ta); cái bóng thấy được kia là rup (hình, ảnh, vẽ). Sa, thân thể của ta, như vậy là rup của soan.
Thân thể con người là một trong những hình ảnh của soan. Những gì ta biết về hồn là một hình ảnh của con người. Sa, đấy là cá nhân có thể nhận biết; đấy là cái "nó" có thể xác định được (bằng các giác quan của ta, các giác quan chỉ có thể nhận biết một hình ảnh thứ cấp của sự thật tinh thần). Sa chỉ là một hình ảnh - một sự phóng chiếu của soan lên bình diện các giác quan của ta - rupsa gần như đồng nhất với nhau, khi nói về con người. Nhìn thấy rupsa của một ai đó thì cũng như nhau, bởi vì, trong các điều kiện bình thường, soan không có hình thức nào khác hơn là cái cơ thể đó. Ðiều đó giải thích sự xúc động của người đàn bà thấy trên màn ảnh cái rup của con trai bà, đã chết sau khi quay phim; bà van người ta trả lại con cho bà bởi cậu ta còn sống đó.
Rup, đấy là cái ta thấy của người khác, và cái người khác thấy của ta. Ðấy là thân thể, là một hình ảnh của thân thể, đấy còn là một hình ảnh của linh hồn sâu xa và không thể nắm bắt được của ta. Tôi đã nghe người ta nói: "Mắt tôi lừa dối, quên, không biết nhìn thấy cái thật". Các giác quan của ta bất lực chỉ có thể nắm bắt được cái hình ảnh của sự thật được phóng chiếu lên kia. Có người có thể xác định được rup bằng những cái phụ tạo nên một hình hài; người Tây Nguyên thì nói: "Ðấy là cái ta nhìn thấy, cái mà soan của ta có thể biết được về một cái soan sâu xa, được điều kiện hóa bằng một hình thức nào đó, nhưng nó là một sinh thể riêng, thực hơn, ít biến đổi hơn, thật và không bề ngoài". Từ đó mà họ thản nhiên với cái chết của cơ thể con người, hình thức đầu tiên của soan, bởi vì soan, sau đó, vẫn tiếp tục - dưới những hình thức khác - và trải qua những biến đổi lý thú.
Sự vắng mặt của cơ thể ấy tương đương với sự vắng mặt của một hình ảnh cảm nhận được; đấy là trường hợp soan lom - một linh hồn thuần túy.
Sa, thân thể (hình hài người của sinh thể) chỉ cho phép chúng ta nhìn thấy hình ảnh của soan, còn hơn thế nữa, một hình ảnh đối với chúng ta, của một sự thật vô hình. Bọn Chà - bọn ma - lại nhìn thấy cái ấy dưới dạng trâu, cho nên lúc nào chúng cũng muốn ăn thịt người.
Tất cả sự sống (ý nghĩ, kỷ niệm, tâm hồn...) đều ở trong soan; nó chỉ thể hiện ra bên ngoài bằng cái rup của sa và, sau khi sa chết, tiếp tục các cuộc viễn du của nó trong các cuộc sống khác dưới một hình thức này hay hình thức khác, ngẫu nhiên, chẳng có gì quan trọng.
Tóm lại, trong mọi sự tồn tại, thường xuyên có hai yếu tố:
  • soan, sâu xa, vô hình, cái nhân tính thật
  • rup, cái mà chúng ta nhìn thấy, là hình ảnh của soan, ở tầm các giác quan của chúng ta, là sự phóng chiếu, là cái bóng biến mất hay biến đổi.
Các giấc mơ
Chúng ta vừa thấy, đối với người Tây Nguyên, thân thể vật chất của chúng ta là hình ảnh, hay đúng hơn là một hình ảnh của linh hồn chúng ta, một thực thể sâu xa hiện lên dưới một hình thức có thể cảm nhận được. Ðiều này đúng vào ban ngày; ban đêm thì lại khác - và ban đêm chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống ở miền núi (dầu ở đây đêm ngắn hơn ngày), vì nó khiến cho người bản địa thực sự trở thành một con người khác, và thú vị hơn nhiều. Tôi sẽ có dịp trở lại chuyện này. Nhưng bây giờ ta hãy nói về trạng thái ngủ mà con người chìm đắm vào; khi đó, hồn - bao giờ cũng nguyên là nó - có hai rup; hình hài người, hình ảnh một cơ thể con người đang ngủ, không có gì đặc biệt, và hình hài một con sâu. Chính con sâu này là cái ta cần chú ý. Khi rup-cơ thể đắm vào giấc ngủ, hồn, không mệt mỏi, đi ra dưới dạng con nhện (đối với đa số người), đom đóm (đối với hạng các nhân vật bất tử), cóc, rắn, hươu, ngựa, hổ, hay những con vật hổn hợp khủng khiếp (đối với những chau chà, hay những người bị ma ám) Con nhện chui ra từ rốn; các con vật kỳ dị thì từ hậu môn.
Hồn, được giải phóng dưới hình thức loài vật như vậy, rong chơi; chúng ta biết về các cuộc lang thang ban đêm đó thông qua giấc mơ.
Về đề tài này, người Tây Nguyên kể một truyền thuyết, truyền thuyết về một con cóc và một con nhện:
"Một người già ở chòi rẫy cùng với hai đứa con, hai đứa trẻ chăn trâu. Ban ngày mọi người đi làm việc; đêm họ về ngủ ở đấy, hai đứa trẻ nằm cạnh nhau, ông nằm hơi xa ra một chút.
"Một hôm, hai đứa bé cãi nhau; chúng nó đánh nhau ra trò. Một trong hai đứa là bình thường, còn đứa kia thì bị ma ám. Buổi tối, lùa trâu về chuồng xong, chúng đi ngủ. Trong đêm, một con nhện chui ra từ rốn đứa bé ngoan, trong khi một con cóc chui ra từ hậu môn đứa bị ma ám. Con cóc cố đớp con nhện, con nhện chạy trốn và leo lên một khúc cây dài. Con cóc không thể với được nó; gắng mãi không được đến mệt, cóc chui trở vào trong bụng đứa bị ám. Ðến lượt mình, con nhện cũng trở vào trong nội tạng đứa bé kia.
"Ngày hôm sau, vẫn lại cái cảnh ấy, ngoài ra còn có đánh nhau. Ðứa bé bình thường chống cự tốt. Ðêm sau, lại một cuộc đuổi bắt mới; nhưng con cóc với được con nhện, đêm đó thằng bé ngoan bị ốm. Ông già, vốn yêu thằng bé, bắt lấy con cóc, và nhốt trong cái hộp thuốc lá của ông. Trong khi đó, thằng bé bị ám không thể mở mắt được, thở rất yếu. Thằng kia thì đột ngột khỏi bệnh.
"Ngày hôm sau, thằng bé này cùng ông già trở về nhà trong làng. Ông già muốn kế thúc một lần cho xong với hồn thằng bé bị ám: ông nhận con cóc xuống nước; thằng bé bị ám thấy lạnh, cả người nó tê cóng. Ông già bèn ném con cóc vào lửa: thằng bé bị ám chết".
Con cóc và con nhện là những hình thức của hồn, khi hình hài người ngủ; hai hình thức ấy gắn chặt với nhau (hình thức-cơ thể người và hình thức-loài vật) bởi một soan đồng nhất mà chúng là một cái giá đỡ đến mức người bản địa rất do dự khi giết một con nhện, sợ sẽ gây ra cái chết cho một người nào đó.
Như vậy khi hình hài người ngủ, hồn thoát ra dưới hình thức một con nhện đối với những người bình thường. Ðấy là hồn - và là nhân cách thật sự - thoát ra khỏi hình ảnh "cơ thể người" để mang hình ảnh con sâu; điều đó cho thấy trạng thái ngủ gần với cái chết, ở đấy hồn cũng thoát ra khỏi cơ thể để mang một hình hài khác nhưng - trừ trường hợp ngoại lệ - không trở về trong cơ thể ấy nữa.
Hồn thoát ra, các giấc mơ cho ta biết nó nhìn thấy những gì. Nhưng hồn, trong trạng thái ấy, nhìn thấy qua trung gian hình hài ban đêm của nó; vậy nên nó nhìn thế giới khác với khi chúng ta thức. Những vật tự nó, có bao giờ có ai nhìn thấy được? ngay cả hồn cũng không thể bởi bao giờ nó cũng phải cần một hình thức-giá đỡ và nó tổng giác bằng phương cách đó, theo cách của hình thức đó. Ðiều đó cắt nghĩa sự khác nhau giữa cái nhìn của hồn dưới hình thức con sâu - và sự ý thức về cái nhìn đó của trí óc con người, khi hồn đó trở về trong hình hài con người.
Có ngôn ngữ trực tiếp và ngôn ngữ bằng ngụ ngôn và ẩn dụ. Có cái nhìn của soan ban đêm, và cái nhìn ẩn dụ trong giấc mơ chuyển vị lại. Việc giải mộng chính là tái lập cái đối tượng mà soan đã thật sự nhìn thấy. Như một người nằm mơ thấy khỉ; anh ta sẽ chỉnh lại - theo một hệ thống chìa khóa truyền thống: "Ðêm qua, trong khi rong chơi, hồn tôi đã gặp hồn một người khác".
Ban đêm, bóng tối dày đặc, có lúc chúng ta thấy (chúng ta tưởng nhìn thấy) những hình thù kỳ dị, rất khác với những đồ vật thật mang những cái bóng ấy. Những hình thù trong các giấc mơ là những hình ảnh tương tự như những ảo ảnh ban đêm ấy (trong trạng thái thức) mà người ta ngỡ nhìn thấy, trong cả hai trường hợp lại đều có trí tưởng tượng bồi thêm vào. Như vậy, các giấc mơ là những hình ảnh biểu tượng, ẩn dụ, của thực tại do soan "thoát ra" cảm nhận được.
Khó đưa ra một quy tắc chung cho việc giải thích các hình ảnh ấy; hình như cũng không có một quy tắc như vậy. Tùy theo chủ đề, đôi khi phải đảo ngược các hình ảnh để chuyển từ giấc mơ sang vật hồn được hàm ý. Như:
  • mơ thấy giàu có = điềm nghèo đói.
  • mơ thấy một người nào đó khỏe mạnh = anh ta đang ốm.
Có nhiều hình ảnh mà người miền núi có thói quen nhận ra ý nghĩa ẩn dụ và truyền thống:
  • mơ thấy uống rượu cầm = ngày mai sẽ mưa.
  • mơ thấy một người nào đó chết = mất mùa lúa.
    Một người nào đó trong nhà đi xa:
  • mơ thấy anh ta trở về = anh ta đang ốm nặng, phải đi tìm anh ta ngay.
  • thấy anh ta cười trong mơ = anh ta sẽ đến ngay.
  • mơ thấy người ta đi xa = ý thức về các cuộc lang thang của soan.
  • mơ thấy người ta vác củi, gỗ thông = người đi săn sẽ mang con mồi về.
  • mơ thấy người ta vứt chỗ gỗ ấy đi = săn hụt con mồi.
  • mơ thấy bắt gà = hôm sau sẽ được nhiều cá.
  • mơ thấy trâu chết, nai bị giết, xẻ thịt = trong làng có người chết.
  • mơ thấy hổ, rắn, ngựa cắn = một con Chà (ma) đang đuổi bắt một người nào đó trong nhà sắp chết (hồn đi lang thang gặp một con Chà).
  • mơ thấy một người trong gia đình đã chết trở về và ngồi với người thân = một người đàn bà trong nhà sẽ sinh một đứa con mang hồn người đã chết.
  • mơ thấy hồn lang thang, đi đến xứ sở của các nấm mồ = người nằm mơ sắp chết.
  • mơ thấy mặc áo trắng = đề phòng có bệnh.
  • mơ rụng răng = một người thân sắp chết.
Danh mục này còn lâu mới hết, và bên cạnh các hình ảnh truyền thống này, còn có những giấc mơ mà người thường không thể giải thích được.
Một hôm một đứa bé mơ thấy một con hổ (kliu-chà) vào nhà, và khiến cho bạn cậu nằm cùng chiếu với cậu rất hoảng sợ. Hôm sau, cậu bạn, đã chẳng mơ thấy Chà, bị tê liệt. Như vậy là, trong đêm nằm mơ, hồn cậu bé nọ, đã gặp con ma bắt bạn của cậu.
Các giấc mơ cũng có thể cho ta biết đôi điều về những việc sẽ xảy ra; không phải là hồn nhìn thấy tương lai, mà trong những cuộc gặp gỡ ban đêm ấy, người ta đoán ra những gì mình sẽ gặp (như một cái chết, sau khi gặp Chà).
Giấc mơ là một khoảnh khắc được biệt đãi trong đó con người, qua cái soan của mình có thể tiếp xúc với các Thần. Vì hồn thoát ra khỏi tình trạng tự nhiên - cái thế giới mà chúng ta cảm nhận bằng đôi mắt của chúng ta - để đi vào thế giới của sự kỳ ảo. Trong trường hợp đó soan nhận ra các phương diện khác nhau của cùng một thế giới biểu hiện một hình ảnh này hay hình ảnh khác, tùy thuộc đối tượng cảm nhận, và ở đấy diễn ra tấn kịch đơn nhất và đa dạng của cuộc sống của mình, - mối quan hệ sinh động trong trò chơi phức hợp các hình bóng và hình ảnh - giống như những sân khấu quay trong các nhà hát lớn.
Giấc mơ là điểm gặp nhau giữa các con người và các Thần, giữa cái tự nhiên và cái huyền diệu, giữa các thế giới hữu hình và vô hình. Theo người miền núi, người phù thủy niệm thần chú, diễn đạt ý chí của các Thần, ở trong trạng thái lên đồng hoàn toàn giống như trong giấc mơ, giống như cơn ác mộng khiến ta nói, vùng vẫy, kêu la.
Trạng thái ngất - cũng giống như trạng thái ngủ - khiến người ta có khả năng có những giấc mơ mà người Tây Nguyên giải thích một cách giống nhau: hồn, thoát ra khỏi thân thể, lang thang trong một hình hài khác và trở về trong thân thể (lúc người ta có ý thức về giấc mơ).
Cái chết cũng là một hiện tượng giống như cơn ngất. Chỉ có một từ, chot, để chỉ cả hai hiện tượng đó. Ðấy chỉ là hồn thoát ra lang thang dưới một hình hài khác, sự chuyển đổi từ một dạng tồn tại này sang một dạng khác, điều đó khiến ta có một hình dung khác về thế giới, một trò chơi các hình ảnh mới. Trạng thái sau khi chết giống như một giấc mơ. Cuộc sống - cái cuộc sống khốn khổ mà chúng ta, những người không phải là Tây Nguyên xiết bao quý trọng - chỉ là một giai đoạn trong chuỗi biến hóa của soan; nó chẳng bền chắc gì hơn một giấc mơ, cũng chẳng "thực tại" hơn; nó thật sự chỉ đơn giản là một giấc mơ. Các hình hài đi qua, các hình ảnh của thế giới biến đổi, như trong một ống kính vạn hoa; chỉ có hồn, lang thang, vẫn tiếp tục mãi.
Các hình ảnh khác nhau của soan
Soan có thể do những hình hài khác nhau "mang"; tùy theo giai đoạn đạt đến trong sự tồn tại của nó, nó hiện ra dưới hình dạng này hay hình dạng khác, nó biến hóa.
Trên mặt đất, ban ngày, soan có hình dạng người, một rup người. Ban đêm, nó mang rup con nhện.
Soan trải qua bảy hóa thân liên tiếp sau đây:
  1. Khi cơ thể trên mặt đất chết, hồn thoát ra, từ bỏ cái hình hài người sẽ thối rữa đó: nó bay lên đến tận mặt trời để cho mặt trời phán xử. Nếu nó không bị cầm tù, nó sẽ xuống buch, thế giới các mộ, ở đó nó mang một hình hài người mới, nói chung là vô hình đối với thế giới người trần. Truyền thuyết rất phong phú những câu chuyện kể về cuộc sống của những con người mới này, ở dưới buch mọi thứ họ làm đều ngược với những người sống. Các nghi thức tang lễ cũng chứng minh cuộc sống mới này của con người; những người thân đặt vào quan tài quần áo và thức ăn, cho con người mới, cũng có những nhu cầu như trên trần. Ở dưới buch, "người ta vẫn còn nghe người trên trần nói chuyện, nghe gà gáy". Những người ở dưới mộ không sung sướng, cũng chẳng đau khổ: họ nhàn rỗi.
    Tuy nhiên soan vẫn có thể thoát ra để trở về trên trần, nếu nó muốn. Trong thực tế, mọi người đều cố trở về: lik-ri; ai cũng chớm có ý định lik-ri. Hồn muốn hóa kiếp trở về trần thì phải trút bỏ hình thức ở buch, để lấy lại hình hài người. Lang-Ka, chỉ huy Ðịa ngục, cũng là người chỉ huy buch. Ông ta có đội quân cảnh sát gồm các Chà làm nhiệm vụ đàn áp các soan để ngăn họ trở lên cõi trần. Nếu các linh hồn không gặp các sứ giả của cái Ác ấy và đi theo đúng con đường được đánh dấu bằng các lá bị cắt dẫn họ trở lại cõi trần, họ sẽ được hóa kiếp. Hồn chỉ được hóa kiếp như vậy một lần; nếu nó trở về trong một ngôi nhà thân thuộc, ban đêm, những người trong nhà sẽ thấy cuộc trở về đó trong giấc mơ. Nếu một người đàn bà có thai sinh con trong nhà đó, hồn sẽ đầu thai vào đứa bé ấy, trở lại hình người.
    Nói chung, trong cuộc sống mới này, người ta không có ý thức về cuộc sống trước; tuy nhiên người ta kể có trường hợp một người còn nhớ về cuộc sống trong hình hài một người khác đến mức anh ta tìm được cả kho báu do người trước cất giấu. Tất cả các hồn ở buch, nếu không gặp thần ác, đều được đầu thai lại một lần. Sau khi chết lần thứ hai, họ trở xuống cõi mồ, ở lại đấy một năm, rồi đi xuống Ðịa ngục.
    Khi biến khỏi hình hài của mình ở buch, hồn thoát ra và đi về Ðịa ngục ở đấy, dưới những hình thức khác nhau, hồn còn phải trải qua ba giai đoạn:
  2. Trước tiên, hồn đi đến Brah-ting, ở đấy nó vẫn còn mang hình người. Hồn những người nghèo, những người chính trực, được Mặt trời xét xử tốt, không phải gặp đau khổ ở đây. Những người khác thì khốn khổ, phải làm việc cật lực cho tên bạo chúa Lang-Ka khắc nghiệt và hung ác. Ðây là một cuộc sống khổ sai thường trực dưới sự giám sát của các hồn bị đày xuống Ðịa ngục. (Hồn các trẻ con chết khi mới sinh đi xuống Ðịa ngục và xung vào đội cảnh sát này.) Rồi hình hài người này đến lượt nó cũng tàn rụi. Ðấy là một lần chết nữa và hồn thoát ra dưới hình dạng một con mòng, đi xuống Gling-Glong.
  3. Ở cõi mới này, hồn sống một cuộc sống khác. Dưới dạng con mòng của mình, nó lang thang khắp nơi, có ý thức và thông minh.
  4. Ðến khi hình dạng-mòng chết, nó đi vào một cõi gọi là Chorang lu-chorang liang, ở trong những tảng đá gần sát với mặt đất. Lúc này, nó có hình dạng một hòn đá. Ðến lúc này, soan trải qua một sự biến đổi sâu sắc, nó vẫn là nó tiếp tục sự tồn tại của nó, nhưng không có ý thức về mình, giống như một sinh khí của loài vật. Ở giai đoạn này, thoạt tiên dưới rup đá, nó đi vào một cái rễ cây mọc lên và như vậy đi lên trên mặt đất, từ bỏ hẳn giai đoạn Ðịa ngục.
  5. Khi cây này mất, hồn thoát ra và lấy rup một Ka bo (con cá bạc nhỏ) muốn đi đâu thì đi. Khi con cá này chết, nó mang một dạng hình khác. (Nếu một người họ hàng ăn phải con cá này, một số người bảo rằng hồn hóa vào với người ấy).
  6. Rồi nó biến thành plaê jirko (quả, một loại quả mọng nhỏ mọc thành chùm) cho đến khi quả này bị người ăn hay thối rữa đi. Hình dạng-quả chấm dứt.
  7. Cuối cùng, nó hiện lên dưới dạng sonom bolà (cây có củ và lá rộng, thuộc loài các cây độc dược). Ðấy là hình thức cuối cùng của soan. Khi cây này chết, không ai biết số phận của soan ra sao nữa. Có thể, nó cũng đã biến mất.
    Cuộc hóa thân gồm bảy thì đó là chung cho soan của mọi người. Ðối với những sinh linh đặc biệt - được biết đến trong bài ca thiêng của Truyền thuyết - nó có thể mang những hình dạng khác, dưới những hình ảnh khác nhau. Sau đây là những ví dụ điển hình: hồn ở trong một quả xoài (truyền thuyết Choduon, trong đó một người con gái chết, một cây xoài mọc trên mộ cô; hồn cô gái mang hình một trong những quả xoài đó. Một người đàn bà ăn quả xoài ấy, sinh ra một đứa con gái là hóa thân của linh hồn trú ngụ trong quả xoài); hồn ở trong một quả chuối (truyền thuyết bà tiên Prit-Pha, lúc thì hiện lên thành quả chuối rừng lúc thì là một người đàn bà-thần); hồn trong một quả dưa chuột (truyền thuyết Sorich-Sorach và cha của họ mà linh hồn hiện lên dưới hình thức một quả dưa chuột; đập phá quả dưa này khiến ông ta chết).
Hình ảnh thú vật:
Như truyền thuyết về con trâu sau đây:
"Một người chết. Hồn ông ta thoát ra và đầu thai vào một con trâu đực sau đó bị xẻ thịt trong một lễ hội của làng. Con trâu bị giết, hồn thoát ra và đậu trên cây cột lễ; nó thích thú nhìn mọi người ăn và uống. Rồi hồn lên trời.
"Bấy giờ xảy ra trận Hồng thủy; nước lên đến tận trời. Hồn đã lên đó trước, trở xuống cùng với nước. Nó còn chưa lấy lại được hình dáng ổn định, nhưng hiện ra như là một hình ảnh con người đối với những con người mới sau trận lụt. Nó nói chuyện với họ và nói với họ về cái thú được tồn tại dưới dạng một con trâu; rồi nó hóa thân thành một trong những con người mới đó".
Những truyện kể về các linh hồn tái đầu thai như vậy, người miền núi có thể kể suốt nghìn lẻ một đêm. Cơ thể con người, sâu bọ, cá, quả, cây... hồn hiện ra dưới nhiều hình ảnh đa dạng nhất. Lại còn chuyện chỉ con mắt người của chúng ta nhìn thấy các hình thức của hồn như vậy; các Thần lại cảm nhận cách khác. Các Chà nhìn thấy chúng dưới những rup, không phải người, mà là trâu, khiến bọn ấy rất thích ăn thịt chúng (nguyên nhân cái chết của con người), vì bọn ấy rất đói và rất thích ăn trâu.
Chính các Thần cũng mang nhiều hình thức khác nhau - cũng ngẫu nhiên như các hình thức của soan chúng ta. Các Chà có thể hóa thân thành hổ, ngựa, hoẵng, vẹt xanh, v.v. Lại cũng có những con rắn-Chà (thật thú vị khi thấy sự hóa thân này rất gần với câu chuyện trong Sáng thế (Kinh Thánh), biểu hiện cái ác dưới dạng một con rắn).
Những người-Chà bị một con ma ác ám; hồn họ có thể mang những hình dạng thú vật: như người đàn ông nọ mà hồn thoát ra đường hậu môn dưới dạng một con hoẵng, hay một người khác, một đêm nọ, hiện lên dưới dạng một con lợn; con vật ấy bị đánh một phát vào hông và, ngày hôm sau, người đàn ông ấy (mà hồn đã rời dạng lợn trở lại dạng người) phải đi lom khom.
Hai trường hợp khác lạ khiến trò chơi hình ảnh này càng phức tạp hơn:
Những somri, người-hổ, có thể mang hình người hay hổ tùy thích. Một soan có hai rup có thể chuyển đổi cho nhau, có thể chuyển từ dạng người sang dạng hổ nhờ một sự giả trang (chụp thúng lên đầu, cắn dao vào giữa hai hàm răng, kẹp một cây gậy vào đít: bằng cách đó đầu, vuốt, đuôi xác định con hổ). Việc soan có thể thay đổi rup theo ý muốn là rất đặc biệt.
Các pang-baê, người-minh, ban ngày là người, ban đêm là con minh. Một soan cũng có hai rup: một cái là rup người, cái kia là rup minh. Rup khác nhau tuỳ theo ngày hay đêm. Sự chuyển đổi đặc biệt từ một hình dạng này sang hình dạng khác, đến đêm thì đổi khác, là thường gặp hơn cả.
Các hình ảnh của soan trong cuộc sống trên trần thế, trong các giấc mơ, trong các cuộc sống trước đây, tất cả đều chỉ là những hình ảnh khác nhau và chẳng có gì đáng kể. Cuộc sống khi thức tỉnh chẳng hơn gì một giấc mộng, một giai đoạn, một hình ảnh trong trăm nghìn hình ảnh khác. Giấc mơ và thực tại, một mặt không phải là cái mà ta cảm nhận được trong giấc mơ, mặt khác cũng chẳng phải là cái ta nhìn thấy khi thức tỉnh: đấy là thế giới bề ngoài của các hình ảnh và hữu thể của soan.
Hình ảnh và ký hiệu
Mọi thứ đều là hình ảnh, mọi thứ đều là ký hiệu. Tất cả những gì chúng ta nhìn thấy đều là hình ảnh của của một thực tại vô hình, thuộc về tinh thần; nhìn thấy một con người, đấy là cảm nhận một hình ảnh của hồn anh ta - nhìn thấy một cái cây, đấy là hình ảnh của một linh hồn đang lang thang, hay hình ảnh một chốn cư trú của Thần...
Việc ta cảm nhận một hình ảnh nào đó trong hoàn cảnh nào đó được coi như là một ký hiệu, có thể có giá trị báo hiệu. Như một con vẹt xanh bay có thể là biểu hiện một Chà đang đi qua (vẹt xanh là thứ cưỡi truyền thống của Chà); nếu lũ vẹt xanh quần trên một mái nhà, đấy là bọn Chà đang để ý đến ngôi nhà ấy và có thể định bắt một linh hồn trong nhà đó. Do đó, khi thấy chim bay như vậy, người miền núi sợ sẽ có người chết.
Các hình ảnh trong những giấc mơ của chúng ta, do hồn cảm nhận được khi lang thang, là những ký hiệu - những chỉ dẫn, cảnh báo - của những thực tại trên bình diện con người của chúng ta. Hồn, trong giấc mơ, thấy bị một con ngựa cắn? Ðấy là trong khi thoát ra, nó đã gặp một con Chà. Hình ảnh: con ngựa; thực tại đằng sau hình ảnh: con Chà; ký hiệu: hình ảnh trong giấc mơ (con ngựa cắn); đối tượng được biểu đạt: một con Chà đang hoạt động trong vùng.
Lúc này, rup hoạt động như là một cái giá đỡ, như là hình ảnh của một thực tại thuộc cấp cao hơn (một con ma, trong trường hợp này, giống như là một ký hiệu về một sự cố trong cuộc sống của ta hay của một người thân). Chính lối tư duy này khiến người Mọi lập cả một hệ mã thật sự các biểu tượng: mã các ký hiệu trong giấc mơ, mã các ký hiệu lúc tỉnh. Chẳng hạn Chà mang một dạng rup nào đó để biểu đạt một thực tại liên quan đến ta - hình ảnh một con vẹt xanh, một con ngựa, v.v., mỗi con vật đó vừa là hình ảnh của Chà vừa là ký hiệu biểu tượng của một sự cố.
Có những giấc mơ trong đó hồn, bằng một sự lựa chọn, làm những ký hiệu quyết định cuộc sống của nó. Một phong tục vận dụng hoạt động về đêm này của hồn khi cơ thể đang ngủ. Việc đó diễn ra như sau:
Bên cạnh đứa bé đang ngủ, người ta đặt một cái xà gạc, một mẩu gỗ, một cây gậy của Người Già. Một thứ độc dược-bùa làm cho hồn đứa bé hoạt động: vẫn trong trạng thái ngủ, chỉ có soan của nó hành động một cách có ý thức, đứa bé cầm lấy một trong số các vật đó, và như vậy là báo hiệu cuộc sống của nó sẽ ra sao. Nếu nó cầm lấy cái xà gạc, nó sẽ là một người làm nông giỏi, nó sẽ làm rẫy tốt. Nếu nó chạm vào mẩu gỗ, nó sẽ có tính hay lang thang, thích phiêu lưu, trong ngành quân đội. Nếu nó vớ được cái gậy, nó sẽ là một thủ lĩnh.
Cũng giống như trong trạng thái ngủ, trong trạnh thái tỉnh cũng có những "hình ảnh-ký hiệu" quyết định một cuộc sống, những hình ảnh có thể có trong trạng thái này cũng như trong trạng thái kia, những ký hiệu tạo ra ngay những hệ quả mà chúng biểu đạt. Ðấy là những ký hiệu có thể gọi là đầy hiệu lực. Sau đây là hai ví dụ rất kỳ lạ về cái chết từ xa:
  • Một người đi trên một con đường mòn, các dấu chân anh ta in lên đó. Một con rắn bò theo sau và khạc lên các dấu chân ấy. Ðấy là một ký hiệu về cái chết, trong thực tế gây ra cái chết của người ấy, cứ như là con rắn đã cắn anh ta. Như vậy cơ thể anh ta và dấu chân của anh ta là hai rup của hồn anh ta hay, đúng hơn, dấu chân là rup của cơ thể và cơ thể là rup của hồn. Hình ảnh "con rắn cắn dấu chân" là một ký hiệu; thông qua trò chơi các hình ảnh, ký hiệu ấy có tính quyết định đối với chính soan.
  • Nhiều người đi trong rừng, nơi có hai con chó sói. Nếu, bị bắt gặp, những người ấy không nhìn thấy chó sói trước, cũng không sủa để xua đi vận xấu, mà chó sói lại sủa trước, thì chó sủa bao nhiêu lần, một năm sau trong số người đi rừng này sẽ có bấy nhiêu người chết. Tiếng sủa của chó sói là một hình ảnh, một ký hiệu của Thần chết đuổi theo những người đã nhận được hình ảnh ấy.
Còn rất nhiều "hình ảnh-ký hiệu" khác thuộc loại này. Cuộc sống trong các giấc mơ, cuộc sống lúc thức tỉnh, thế giới cảm nhận được đối với người Tây Nguyên chỉ là những ký hiệu - và rất nhiều khi, là những ký hiệu đáng sợ. Bây giờ thì ta hiểu dưới con mắt người miền núi, những người không bỏ bất cứ dịp nào để cầu khấn sự che chở của các Yang, các Thần bảo trợ, cuộc sống chỉ toàn là lo sợ và, nếu ta cố đặt mình vào địa vị họ, có thể so sánh với trạng thái ác mộng.
Trò chơi hình ảnh
Mọi thứ đều là hình ảnh và mọi hình ảnh đều liên quan với nhau. Các bình diện khác nhau của cuộc sống - thức, mơ, cõi bên kia - mỗi cái như vậy đều giống như một hệ thống những hình ảnh, những phóng chiếu, tất cả đều gắn với nhau, những thực tại tinh thần, của cuộc sống của các soan. Trong cuộc sống của mỗi con người, các bình diện khác nhau có thể biết được đều là những phóng chiếu hoạt động của một soan duy nhất nó tạo nên mối liên hệ giữa các loại hình ảnh khác nhau.
Chẳng hạn, ở bình diện thức và bình diện ngủ, những gì các giác quan (bên trong và bên ngoài) cảm nhận được là hình ảnh của tồn tại và hoạt động của soan. Soan, dưới dạng người hay nhện, tồn tại và hoạt động. Cái đó được biết thông qua các hình ảnh, khác nhau tùy theo rup này hay rup khác, của soan phóng chiếu trên cái nền méo mó của các giác quan cảm nhận, tạo nên một hình ảnh có thể cảm nhận được. Các hình ảnh ở bình diện "giấc mơ" thì mang tính biểu tượng và khớp với các hình ảnh ở bình diện "thức" vốn chính xác và có thể giải thích theo các mã khóa truyền thống mà chúng tôi vừa nói đến.
Như vậy, bình diện các hình ảnh của cuộc sống trên trần thế và ở cuộc sống trong thế giới bên kia có tương quan đối xứng với nhau, có thể nói là đảo ngược nhau. Tất cả những gì diễn ra trong thế giới các nhà mồ đều ngược với trên trần thế (cầm giáo thì mũi chĩa xuống đất, thì giờ đảo ngược... cho đến các ống điếu cũng hút ngược!). Nhưng đấy chỉ là những khác nhau về sự phóng chiếu hình ảnh, bởi vì soan không bao giờ biến đổi.
Các Thần-Yang được người Tây Nguyên quan niệm là những hình ảnh cao cả của các soan của họ. Thế giới "thượng-thiên" (hodang trù), nơi sống của các Yang lớn nhất: Trù, Ngai, BÛng, Dong-Rong, là dựa theo hình ảnh thế giới vật chất của chúng ta, nhưng ở bên trên và hoàn hảo hơn.
Tóm lại, các thế giới khác nhau là những hình ảnh phản chiếu của nhau và tất cả những hình ảnh ấy, tự chúng, đều chỉ là người phóng chiếu của những thực tại tinh thần trên cái nền mờ tối của nhận thức giới hạn của chúng ta. Trong trạng thái thức, những người khác nhìn thấy hình dạng-người (rup chau) của soan chúng ta: họ nhận được một hình ảnh của nó. Phần ta cũng vậy, ta nhận được một hình ảnh giống như thế của soan của những người khác. Trong trạng thái ngủ, ta cảm nhận hoạt động của soan của ta dưới hình thức giấc mơ - một cái nhìn khác về thế giới bởi vì soan có một hình thức khác và cảm nhận thông qua hình thức đó. Ở thế giới bên kia, khi các hình ảnh của cõi trần này đã biến mất, soan vẫn tồn tại, nhưng dưới những rup mới kéo theo một cách nhìn mới về thế giới. Thực tại của thế giới tinh thần của soan vẫn giống nguyên; các rup khác nhau tùy theo các lĩnh vực, các chu kỳ và các thời.
Các hình thức của một soan tương ứng với với bình diện mà nó đang trải qua (đời sống trần thế, thế giới bên kia), với vị trí của mặt trời (ngày hay đêm) và, đôi khi tùy thuộc ý chí của những sinh linh đầy quyền năng bắt lấy rup theo ý muốn của chúng, tách đôi hình ảnh soan của chúng.
Như "Quả xoài" (truyền thuyết cổ về Choduon) bị ném xuống nước, thoát chết nhờ tách đôi được rup của soan của mình; nàng làm ra một rup goê (một hình ảnh chẳng là gì cả) của soan của mình; cái rup ấy chìm xuống đáy biển, trong khi cơ thể nàng, rup ngan (hình ảnh thường ngày, thật) của soan nàng thoát được.
Cũng như BÛmong, lãnh chúa Chàm, trong một trận đánh lớn giữa người miền núi với những người Da vàng, thoát khỏi tù bằng một cuộc tách đôi giống như vậy, một rup goê vẫn ở trong tay những người Da vàng, trong khi rup mang hồn ông trở về với đồng bào đang chiến đấu của mình.
Ðiều đáng chú ý trong các trường hợp này, lấy ra từ trong Truyền thuyết, không chỉ là quyền năng của những sinh linh huyền diệu ấy đối với các hình thức của soan của mình, mà còn ở chỗ sa chau (cơ thể con người) trước khi tách đôi và hình ảnh nhân đôi được coi là duy nhất và đều cùng là hai rup - đơn giản là hai hình ảnh - của một soan chung, như vậy rõ ràng sinh thể toàn vẹn của con người là ở trong soan, còn tất cả những cái khác đều chỉ là rup.
Như vậy, tất cả chỉ là hiện tượng bề ngoài chăng? Không chỉ có các truyền thuyết mới khiến người Tây Nguyên tin như vậy; tôi đã nói về các somri - người hay là hổ mà người bản địa cho là có khả năng thay đổi rup theo ý muốn. Ðối với họ - và chỉ có điều ấy khiến ta quan tâm - con người chỉ biết được những hiện tượng bề ngoài, đôi khi rất kỳ lạ, chúng đánh lừa ta, chúng biến đổi và không hề cho biết tí gì về cái bí mật nằm trong tận sâu của các sinh linh. Ðối với người Nguyên thủy, cuộc sống chỉ là một điều bí ẩn.
Ám ảnh của bóng đêm.
Chúng ta đã nói đến những điều phong phú mà soan cho thấy qua các giấc mơ, nhưng ban đêm và trong trạng thái thức, người Tây Nguyên lại là một đối tượng nghiên cứu mới và hấp dẫn.
Ðêm, vương quốc của bóng tối vốn dễ khiến cho trí tưởng tượng càng thêm dồi dào, lại vừa giữ nó trong một không khí sợ hãi. Trong trạng thái thức thì những mảng bóng tối cũng giống như những giấc mơ trong trạng thái ngủ: đấy là những hình, những ký hiệu, những điểm tiếp xúc với cái vô hình. Ðấy là những giờ khắc khi các Thần khoát những rup khác với ban ngày, hàm nghĩa trạng thái mới của họ.
Con người và bóng của mình chỉ là một: đấy là hai hình của soan anh ta. Ban đêm, dưới ánh trăng, người bản địa sợ những gì có thể xảy đến cho cái bóng của họ, ở đấy có thể có một con hổ ăn thịt người đang nấp; bọn Chà cũng có thể làm chết người bằng cách ăn cái bóng của họ. Con người tỏa nỗi sợ của mình ra bốn bên. Cơ thể của họ và cái bóng của họ chỉ là hai hình ảnh - gắn chặt với nhau - của hồn họ; chạm đến cái này là với đến cái kia và gây tổn hại cho soan.
Charles Baudoin so sánh các quan niệm của Phương Ðông và Phương Tây về ban đêm. Người Phương Tây, chỉ đi tìm ánh sáng chói lọi ban ngày, chỉ có nửa phần cuộc sống, nửa kia là đêm. Nghiên cứu tâm lý người Tây Nguyên càng cho phép chúng ta nhận ra rằng cái nửa kia đó phong phú hơn, do hoạt động của soan.
Ðêm đến; thế giới, dưới ánh sáng mặt trời nhường chỗ cho một thế giới khác, do mặt trăng chi phối. Mọi sự vật đều thay đổi dáng vẻ; các hình ảnh biến đổi. Ngay cả thiên nhiên "vô sinh" cũng biến đổi: núi trở nên mênh mông và đen sì thảm thê, các bụi rậm thì bí ẩn. Trong im lìm có muôn vàn tiếng động, muôn vàn nỗi sợ. Ngọn lửa thức dậy, làm cho tất cả những gì nó soi đến đều sống dậy và các hình bóng nhảy múa.
Cái thế giới khác ấy bắt đầu về đêm. Không còn là lúc phải lao động nữa: những gì người ta sẽ gieo ở Ðịa ngục, những gì người ta sẽ trồng sẽ mất. Cuộc sống của người bản địa không kết thúc vào giờ khắc ấy. Ðêm, cũng là ngày, nhưng khác. Trâu trở về, đối với chúng mọi việc đã xong. Con người, lao động trên đồng ruộng, cùng về với trâu. Cuộc sống lao động đã kết thúc; một cuộc sống khác, sâu xa hơn, bắt đầu: bếp lửa, gia đình, đêm thức, các giấc mơ, thần linh... Sau một ngày nắng nôi nặng nhọc, người miền núi có thể thức thâu đêm để bàn luận, uống rượu cần, nghe hát những bài ca về Truyền thuyết; điều đó không hề ngăn họ, rạng sáng hôm sau lại trở ra đồng, tươi tỉnh và sảng khoái.
Về đêm, chúng ta nhìn con người và sự vật một cách khác. Nét chủ quan đó là phổ biến. Các khuôn mặt trở nên khác đi, các rup bị biến đổi. Những con vật mới xuất hiện: ếch nhái, ve sầu, nhện... Soan, hồn thoát khỏi mọi bận rộn thấp hèn ban ngày, được giải phóng. Chốc nữa đây, khi giấc ngủ đến, một giấc mơ sẽ cho ta biết hoạt động kỳ diệu của nó.

°

Mong bạn đọc thứ lỗi cho tôi về sự khô khan của những trang này. Một sự nghiên cứu trung thực về con người, tất yếu phải phức tạp. Nguyên thủy không phải bao giờ cũng có nghĩa là đơn giản. Dẫu nó là thế nào đi nữa, con người vẫn là sinh linh phong phú nhất của thế giới. Công trình cứu này, không muốn chỉ đơn giản là một bằng chứng phục vụ cho một triết lý về những người Nguyên thủy, đã trở thành một cái gì hơn thế: một lời kêu gọi lưu tâm đến những sự giàu có của một tinh thần, dẫu là nguyên thủy, cần phải được đào tạo và học hỏi để về sau có thể tự mình biểu đạt không cần có người phiên dịch và một ngày nào đó viết ra - ôi thật là một nghịch lý gây sốc cho niềm kiêu hãnh trí tuệ của chúng ta - một bản tuyên ngôn ngợi ca sự thông tuệ!... bởi một nghiên cứu như vậy cuối cùng ắt phải đưa đến điều ấy.
Toàn bộ thế giới cảm nhận được, mà chúng ta ngỡ đã biết, chỉ là hiện tượng bề ngoài, là hình ảnh của một thực tại sâu xa. Các trạng thái thức và ngủ, thế giới cảm nhận trực tiếp và thế giới trong mơ chỉ là những phương diện của một thực tại duy nhất, ở bên kia, soan.
"Hui mat", các giác quan đánh lừa chúng ta, chúng ta không biết được tận cùng các sự vật. Người Tây Nguyên có ý thức về sự dốt nát của mình - và đấy đã là một khoa học lớn mà chúng ta, những người Phương Tây, có thể chúng ta đã đánh mất. Ðầu óc họ mang thiên hướng biểu tượng một cách tự nhiên; một hòn đá không phải chỉ là đá, nó có một ý nghĩa riêng; họ đọc ra cái mà Thiên nhiên biểu hiện: tảng đá này là của Yang-Jong, cái cây kia là của một Yang khác trồng, v.v. Quan niệm của họ về rup rất đáng chú ý: "Ðấy là cái ta nhìn thấy về các sự vật", chứ không phải cái thật là chúng. Như, cơ thể con người là một rup của soan, nhưng nó không phải là soan. Từ đó mà có một sự chủ quan của việc cảm nhận dẫn đến chủ nghĩa tương đối toàn cục: hồn hiện ra thế này hay thế khác, tương ứng với hình hài, với hình ảnh mà hạng sinh linh này hay hạng khác cảm nhận, tùy theo bản chất của mình, tương ứng với đối tượng cảm nhận. Người, vật, cây cỏ, đá, là những rup soan, những rup biến đổi tùy theo nơi chốn (trên mặt đất, dưới mặt đất), thời gian (đêm, ngày), đối tượng cảm nhận (người, yang, chà).
Còn con người sâu xa? Không thể nắm bắt được. Không ai có thể nắm bắt được soan, mà chỉ nắm bắt các rup khác nhau. Bao giờ soan cũng mang một hình thức có thể cảm nhận được, nó cần cái đó làm giá đỡ. Ðôi khi, như ta đã thấy, có sự thiếu vắng rup, trong lúc chuyển từ một hình thức này sang hình thức khác; nhưng tình trạng đó là giao thời, mãnh liệt. Tất cả các Yang cũng có - hoặc đã từng có - một rup làm giá đỡ; duy nhất có Ndu, ở bên dưới các Yang, là ngoại lệ; quả là ngài đã xuất hiện dưới hình thức người hay chim, nhưng trạng thái bình thường của ngài là một soan không có rup: một tinh thần bản chất là thuần túy. Ðây là sinh linh duy nhất tồn tại in se, tách ra ra khỏi tất cả, không gắn với bất cứ cái gì. Cho nên người Tây Nguyên có một khái niệm rất mập mờ về ngài, đối với họ ngài không thể được biểu hiện.
Tất cả những cái "nhìn thấy" đều là rup của cái vô hình, của cái tâm linh. Toàn bộ tự nhiên, toàn bộ cuộc sống đều là như vậy. Chủ nghĩa chủ quan gắn liền (một cách tất yếu?) với một chủ nghĩa duy linh. Người miền núi, không hề phàm tục như người ta vẫn tưởng, có thể là những người duy linh chủ nghĩa một cách tự nhiên hơn những người "văn minh" thực chứng chủ nghĩa, tin ở khoa học - và chỉ tin ở khoa học mà thôi - chỉ tin ở những cái "nhìn thấy", chỉ coi là triết học những đối tượng của các giác quan, chỉ những gì cảm nhận được mà họ gọi là "cái thật". Có nhiều thứ chủ nghĩa hiện thực. Chủ nghĩa hiện thực của các đối tượng sẽ giết chết chủ nghĩa hiện thực của con người tâm linh. Thật đáng buồn khi nhận thấy rằng con người miền núi phát triển lên theo phương hướng biến họ thành một nạn nhân của hình thức bên ngoài của văn minh. Họ đánh mất lối tư duy của mình khi tiếp xúc với những người văn minh duy vật chủ nghĩa hiện đại, da trắng hay da vàng. Họ cũng đánh mất Truyền thống của mình. Anh chàng trai trẻ mơ ước súng và rượu cồn; anh ta bị lôi kéo bởi cái hào nhoáng vốn chỉ là một cái rup khốn khổ, đối với anh ta là mới.
Họ được lợi gì từ hình thức văn minh của chúng ta? - mà, vả chăng, họ không hề đòi hỏi. Hẳn không phải là sự chính xác trong nghệ thuật chém giết, cũng chẳng phải là việc chạy theo đồng tiền; chẳng chút gì ở những điều không phải là tiêu biểu cho một giá trị tinh thần chân chính. Trong khi đó, noi theo Truyền thống của họ mà không hạn chế mình ở đó, tiếp tục con người đường đã được Tập quán vạch ra, con đường sẽ khiến họ gặp những con người cũng có niềm tin ở sự vĩ đại siêu nghiệm của tinh thần, họ chỉ có thể được giàu thêm lên tất cả những gì nâng cao tâm hồn họ, đưa họ lên cao hơn, xa hơn trong đường hướng tư duy, và họ sẽ được nghe tiếng nói, từ phương Ðông cho đến phương Tây dạy chúng ta rằng: Thế giới thực hơn cả là cái chúng ta không nhìn thấy, đang chi phối cái chỉ là một hình ảnh của những thực tại tương lai.

°

Chúng tôi kết thúc bằng một truyền thuyết đặc biệt minh họa một số điểm trong phụ lục này:
Truyền thuyết về Gliu-Glah.
Gliu và Glah chăn dê. Hai cô nhìn thấy một con quạ cắp nơi mỏ một đôi giày. Chính hoàng tử Chàm đã giao đôi giày đó cho quạ, để quạ mang món quà này đi tìm cho chàng một người vợ. Quạ bay đến xứ sở của Gliu và Glah; người chủ làng tập họp tất cả phụ nữ lại. Ðôi giày chỉ đi vừa chân Gliu. Ngày hôm sau, hoàng tử đến; chàng lấy Gliu làm vợ và cùng nàng đi về. Glah có hơi ghen, đi theo cô em gái.
Sau đó, hoàng tử phải đi phục vụ một vị quan trên, để vợ ở nhà, cùng với Glah. Glah muốn làm vợ hoàng tử, giết chết Gliu và chôn ở gần nhà. Hoàng tử trở về; chàng rất buồn vì cái chết của Gliu; Glah xin thay Gliu; hoàng tử không muốn lấy Glah làm vợ. Một lùm tre đẹp mọc lên ở nơi chôn Gliu. Hoàng tử nằm mơ biết rằng chính là hồn vợ mình hiện lên trong những cây tre ấy; nên chàng cho rào lùm tre lại không để cho ai quấy phá nơi yên nghĩ của linh hồn ấy, không ai được đến chặt tre. Rồi hoàng tử lại ra đi xử kiện.
Trong khi chàng đi vắng, Glah chặt lùm tre đi; hồn Gliu thoát ra và trở thành một con chim. Khi hoàng tử trở về, con chim thả rơi xuống từ mỏ của nó một cái hộp nhỏ mà hoàng tử nhận ra là cái hộp trầu của Gliu; như vậy chàng biết hồn của vợ chàng ở trong con chim đó. Chàng bắt con chim để nuôi. Mấy ngày sau, lợi dụng lúc hoàng tử đi vắng, Glah giết chết con chim; hoàng tử trở về chỉ còn thấy lông; chàng đem chôn. Ở chỗ đó mọc lên một cây đu đủ lớn lên rất cao và ra quả; hồn Gliu ở trong các quả ấy.
Một bà già đi qua. Từ trên cây đu đủ, hồn Gliu gọi bà và nhờ bà trao lại cho hoàng tử cái hộp xưa mà nàng thả rơi xuống gốc cây. Những người thủ lĩnh già thấy hoàng tử nói chuyện với bà già; họ tưởng bà đến vì một vụ án và mừng trước vì sẽ được lãi. Họ hỏi bà già, bà không trả lời; họ rất muốn có một vụ án để mà xử! Hoàng tử nghe bà già, bà hẹn sẽ gặp chàng ngay mai. Ðến ngày hẹn, bà già dặn hoàng tử trốn trong bụi, rồi bà biến mất. Một lúc sau, bà từ trong cây đu đủ đi ra; đến lượt hồn Gliu từ trong thân thể bà già đi ra và nói chuyện với bà. Bà già bảo cô: "Ở đây chẳng có ai cả, đừng sợ gì hết". Hồn Gliu bèn trở về trong thân thể nàng đã được chôn; Gliu sống lại như trước. Hoàng tử từ trong chỗ trốn bước ra và nắm lấy Gliu; họ cùng nhau trở về.
Hoàng tử ra lệnh cho người của mình giết chết Glah, chặt ra từng khúc và giữ trong một cái ché với muối. Chàng gửi cái ché ấy về cho bố mẹ Glah, họ tưởng đó là xác của Gliu, mà người con gái lanh lợi của họ là Glah đã giết chết. Họ ăn thịt trong ché. Ở chỗ hoàng tử, tiến hành lễ hội; người ta làm lễ phục tôn lớn cho Gliu. Lúc đó bố mẹ Glah đến, họ muốn gặp thăm con gái. Hoàng tử không cho họ vào, bảo nói cho họ biết trong ché đựng cái gì và cho người đuổi họ đi.

Nxb Hội nhà văn, Hà Nội, 2003

- Hết -


Xem Tiếp: ----