Lối tám giờ tối, trời mưa rĩ rả, gió thổi lao xao; hột mưa rớt rên mái nhà, tiếng trước nối tiếng sau, như than như khóc, hơi gió lòn qua cửa sổ, chao ngọn đèn xao xuyến lúc tỏ lúc mờ. Bà Lê Thái Bình nằm chèo queo một mình trên bộ ván gõ, gác tay qua trán, mắt ngó ngọn đèn, tai lóng nghe hột mưa lâm râm, trí bắt nhớ việc nhà lòng càng ảo não. Cậu Hai Thái Hòa ở trong buồng đi ra, cậu bước lại đứng dựa cây đèn leo heo vấn thuốc mà hút. Bà Lê Thái Bình ngồi dậy hỏi con rằng: - Thằng Càng nó bớt nóng hôn con? - Thưa, từ hồi tối tới giờ coi bộ nó bớt nóng rồi. - Hồi chiều con biểu đứa nào xuống thầy ba Nhiên mà lấy thuốc cho em nó? - Thưa, có ai đi đâu. Tùng giả mắc đem trát gấp, còn đằng nhà việc thì thường xuyên nó nóng lạnh nên đi không được. - Bất nhơn dữ hôn! Nếu vậy thì đêm nay có thuốc đâu cho em nó uống? - Thưa, nó bớt nóng rồi. Để sáng mai rồi con sẽ mượn người ta đi lấy thuốc cũng được. - Hồi có chuyện thì vậy đó, không có một người mà sai. Cậu Hai kéo ghế mà ngồi. Bà Lê Thái Bình vừa têm trầu ăn vừa nói rằng: - Thầy con đi sao mà tới chừng nầy chưa thấy về. Trời mưa gió dữ quá. - Thầy đi hầu mà. Hôm qua có trát đòi hầu nên thầy mới đi đó. - Mới hầu lệ hôm thứ hai đây, còn hầu việc gì đây nữa không biết. - Trát dạy lên hầu lập tức, mà không nói hầu về việc gì. Hồi sớm mơi thầy có nói để lên Vĩnh Long thầy ghé thăm bác và cậy bác tính dùm việc nhà của mình thử coi được hay không. Có lẽ bác cầm thầy ở lại ăn cơm tối, nên thầy về trễ đây chớ gì. - Hổm nay thầy con tính như vậy đó, mà ý má không muốn chút nào hết. Thà là người dưng dễ hơn. Mình cần dùng tiền mình hỏi người ta; nếu người ta có, người ta cho mình vay, thì người ta ăn lời, người ta không khinh khi mình được. Chớ sui gia mà mình tới cậy người ta giúp tiền bạc, đã biết mình cũng phải trả tiền lời vậy, mà mình còn mang ơn chác nghĩa (26), khó lòng quá. Lại nếu người ta vị tình, người ta cho mình vay thì không nói gì, chớ nếu người ta không cho thì mình mất thể diện nữa. - Người ta nói bác Thiện tiền bạc thiếu gì, bác cho thiên hạ vay cùng hết. Bác cho người khác vay cũng vậy, thà là bác cho thầy vay còn chắc hơn. Theo cái án của chà chetty (27) nó truyền rao hôm trước đó, thì vốn lời có bốn chục ngàn, nếu mình không trả thì nó thi hành phát mãi ba trăm mẫu ruộng của mình. Bây giờ bác ra bốn chục ngàn cho thầy trả cho chà và rồi thầy treo ba trăm mẫu ruộng đó lại cho bác, thì chắc quá. Nếu thầy trả không nỗi thì bác lấy ruộng. Có bốn chục ngàn mà lấy ba trăm mẫu ruộng, tính ra không tới một trăm năm chục đồng bạc một mẫu, rẻ quá, có lỗ lã gì mà sợ. - Đã biết như vậy đó chớ, ngặt vì mình khó mở miệng lắm chớ. Thà là hỏi người dưng dễ hơn. - Dễ là sao má? Hôm chà và mới vào đơn kiện tới nay thầy đi hỏi bạc cùng hết, mà hỏi không được. Giá lúa nầy ai cũng rên, còn người có tiền dư thì họ dấu kín, họ có dám cho ra nữa đâu. Cùng đường rồi, nên thầy mới tính hỏi bác Thiện đó. Nếu bác không giúp, thì mình phải khoanh tay mà để cho chà và thi hành phát mãi, chớ không biết làm sao. Bà Lê Thái Bình ngồi lặng thinh một lát rồi bà thở dài mà nói rằng: - Thiệt thầy con làm lếu lắm! Chớ chi hồi trước nghe lời má thì đâu có mắc nợ mắc nần như vầy. Bày tranh chức Cai tổng tốn hết mấy chục ngàn. Làm Tổng, làm chi không biết, mà phải mang nghèo như vầy. Nếu đừng làm giống gì hết, cứ ở không đi chơi, thì bây giờ sung sướng biết chừng nào. - Tại cái mạng của thầy, nên trời mới khiến như vậy. Thôi, má phiền trách thầy làm chi, má. - Nói chuyện cho con nghe vậy thôi, chớ má có phiền trách chi đâu. - Việc dĩ lỡ rồi thì thôi. Má nhắc lại, thầy thêm buồn, chớ không ích gì. Mấy tháng nay thầy lo quá, nên coi thầy ốm nhiều. - Má biết thầy con lo lung lắm, nên má có dám nói gì đâu. Tiền bạc là của chung, trời cho thì hưởng, trời lấy lại thì thôi, nghĩ cho cùng thì không nên buồn, không nên tiếc chi hết. - Bây giờ tuy thầy nghèo, song thầy cũng còn danh giá với người ta. Còn có nhiều người khác họ cũng sạt nghiệp, mà họ không được chút danh dự gì hết đó sao. Con dám chắc, thuở nay thầy má lấy nhơn đức mà đãi thiên hạ, dầu thế nào đi nữa, trời phật cũng không để cho thầy má cực khổ đâu mà sợ. Nói cùng mà nghe, dầu nhà mình có nghèo đi nữa, thì vợ chồng con làm ruộng mà nuôi thầy má được mà. - Phận con thì má không lo. Má có lo là lo cho con Ba, chồng của nó má coi không được chút nào hết. Cái mạng của con đó, má sợ ngày sau phải cực. - Má nói phải lắm. Thằng Ba là con nhà giàu, mà nó lấc khấc lỗ mãng quá. Con coi ý con Ba nó không vui. - Lần nào nó về nó cũng không than thở chi hết, song má coi ý nó rầu lắm. Hồi đó thiệt là má không muốn gả; tại thầy con vị tình hứa lỡ với anh bá hộ Thiện, nên má phải xuôi theo. Ý má muốn lựa con nhà nghèo mà học giỏi, biết điều, má gả rồi mình nuôi nó, làm như vậy con nhỏ nó có phước hơn. Ham gả chỗ đương môn đối hộ (28) làm chi mà mấy năm nay tốn hao bạc muôn, khổ quá. - Việc tốn hao không nói gì. Ngặt thằng Ba nó coi con không ra gì hết, con buồn là tại cái đó. Mẹ con nói chuyện tới đó thì nghe tiếng xe hơi chạy vô sân, đèn chói sáng lòa, thấy hột mưa còn lác đác. Bà Lê Thái Bình nói rằng: "Thầy con về. Biểu bày trẻ chế một bình trà nóng cho ổng uống; đi bị mưa chắc lạnh lắm". Thái Hòa bước ra cửa mừng cha. Ông Bình mở cửa xe chạy vô nhà, miệng cười ngỏn ngoẻn và nói rằng: "Mắc một đám mưa dai quá". Ông vừa nói vừa lột khăn đen, cởi áo mưa đưa cho Thái Hòa. Bà hỏi ông rằng: - Thầy nó ghé đâu hay sao mà về khuya dữ vậy? Ăn cơm rồi hay chưa? - Tôi ghé cùng hết, ghé tới ba bốn nhà. Tôi chưa ăn cơm, mà không đói. Biểu bày trẻ chế nước nóng cho tôi uống một chút cho ấm bụng, không gấp gì dọn cơm. - Tôi có biểu nó chế nước rồi. Thầy nó thay đồ đi, rồi uống nước. Ông Bình vô buồng thay đồ. Thái Hòa bưng bình nước ra rồi lau bộ chén trà mà rót bốn chén. Bà biểu bầy trẻ ở nhóm lửa nấu một nồi cơm sốt và hâm đồ ăn lại cho nóng rồi sẽ dọn. Ông Bình ngồi uống nước. Bà kéo ghế ngồi ngang đó mà hỏi rằng: "Bữa nay thầy nó đi hầu việc gì vậy?“ Ông Bình cười. Ông uống hết bốn chén nước rồi mới đáp rằng: - Quan Chánh kêu tôi lên mà quở tôi. - Có chuyện gì mà quở? - Ngài nói theo tờ của quan Chủ quận thì mấy tháng nay tôi cứ lo việc nhà, không lo thuế vụ nên trễ nải. - Quan chủ quận chạy tờ (29) hay sao? Có lẽ nào ngài làm như vậy! - Có thiệt chớ, chạy tờ kín. - Ngài mới lên ăn cơm với mình hôm chúa nhựt đây mà. - Ăn cơm thì ăn, còn chạy tờ thì chạy, hai việc đó khác nhau. - Quan Chủ quận chạy tờ như vậy, rồi quan lớn Chánh nói sao? - Quan Chánh nói ngài biết tôi có nợ nần nhiều, nên tự nhiên tôi mắc lo nợ mà phải bê trễ công việc. Vì vậy nên ngài không trách gì; song nếu tôi mắc bận việc nhà, không kham chức Cai tổng nữa, vậy thì tôi nên từ chức Cai tổng đi, đặng rảnh rang mà lo việc nhà. - Ngài nói như vậy, nghĩa là ngài muốn xô đuổi mình chớ gì. Không biết ý thầy nó thế nào, chớ theo tôi thì cũng nên thôi phứt cho rồi, đặng khỏi tiếng nặng nề dằn thúc (30). - Bà nó hiệp ý với tôi lắm. Quan lớn Chánh khuyên tôi như vậy thì tôi trả lời tôi cảm ơn ngài, rồi tôi ra bàn bếp hầu tôi viết một lá đơn xin từ chức mà đưa cho ngài liền. - Ngài chấp đơn hay không? - Chấp chớ. Coi bộ ngài vui lắm. Ngài hứa ngài sẽ gởi liền lên quan trên đặng trong năm bảy bữa có nghị định xuống cho mau. Ngài ân cần khuyên tôi phải ráng lo việc nợ nần cho xong, chớ tôi là người có danh dự mà để cho chà và thi hành phát mãi thì khó coi lắm. - Quan lớn khuyên như vậy thì phải lắm, ngặt vì lo trả nợ có phải là một việc dễ đâu... - Thuốc đắng phải bao mật đặng nuốt cho dễ vậy mà. - Thầy nó xin thôi, anh sui hay rồi chưa? - Tôi ở lại nán buổi chiều, tôi có ghé nhà nói cho ảnh hay. - Ý ảnh thế nào? - Không có ý gì; ảnh nghe rồi thôi, chớ không nói chi hết. - Hôm trước thầy nó tính cậy ảnh ra bạc trả cho chà và rồi mình treo ruộng đất hết thảy lại cho ảnh. Bữa nay thầy nó có nói chuyện ấy hay không? - Tôi có nói. Ảnh trả lời rằng ảnh không thể giúp được, bởi vì tôi không nói trước, nên bạc ảnh cho ra hết rồi. - Hôm trước thầy nó tính như vậy, tôi đã cản. Tôi biết hỏi không được đâu, mà hỏi sui gia coi kỳ quá. - Tôi biết ảnh có bạc sẵn, nên tôi mới hỏi chớ. Hội Đồng Hòa dưới Trà Vinh mới bán ruộng trả cho ảnh năm chục ngàn chừng nửa tháng nay. Tại ảnh không muốn giúp, nên ảnh kiếm cớ nói như vậy, chớ ai đâu mà vay lẹ quá vậy. - Ảnh không giúp cho mình được cũng phải lắm. Ảnh cho mình vay, ảnh ăn lời coi cũng kỳ. Lại nếu giá lúa rẻ, mình trả không nỗi, ảnh kiện mà lấy ruộng đất của mình thì lại càng khó coi nữa. Thà với thiên hạ ảnh làm gắt, chớ với sui gia mà làm gắt thì mang tiếng, tại vậy nên ảnh không thể giúp được chớ gì. - Cuộc đời nghĩ thiệt ngán quá. - Cuộc đời thì vậy, có gì đâu mà ngán. Việc tới đâu hay đó thầy nó buồn làm chi. Xưa rày tôi nói hoài, tôi xin thầy nó đừng thèm lo gì hết, bỏ xui cho chủ nợ thi hành phát mãi, làm gì đó nó làm. Mình bỏ phứt cho khỏe trí, rồi tạo cái cảnh khác mà dưỡng già. - Tôi nghĩ lại thiệt tôi háo danh bậy lắm. Chớ chi hồi trước tôi nghe lời bà nó thì đâu có cực lòng cực trí như vầy. Có như vậy rồi mới biết khôn! - Thôi, chuyện đã lỡ rồi, thầy nó than thở làm chi. - Hồi mình phát đạt, thiên hạ áp theo vừa giúp vừa bợ đỡ, mình muốn cái gì cũng được, mình làm bậy họ cũng khen... - Họ bợ, họ giúp, họ khen là tại đồng tiền chớ. - Đến chừng mình suy, họ làm lơ, mà có người lại còn muốn đạp mình té cho mau... - Tại không có tiền nữa chớ. - Thuở nay ai tử tế với tôi cho bằng Kế hiền Hạt với Cả Huynh. Hồi chiều tôi vay anh sui không được, tôi tính trở về ghé Kế hiền Hạt với Cả Huynh mà cậy hai ổng hiệp sức lại đặng giúp dùm tôi, té ra hai ổng nói chuyện xạc lơ (31), làm ghé ướt mình hết mà không ích gì. - Té ra thầy nó có nói với hai người đó nữa sao? - Chớ sao. Tại ghé đó nên mới về khuya như vầy chớ. - Nói làm gì uổng công. Mình giúp cho thiên hạ thì được, chớ trông gì họ giúp mình. - Tôi xin thầy nó bỏ xui đi, đừng có lo quá rồi sanh bịnh đa. Thái Hòa coi dọn cơm rồi mời cha đi ăn. Ông Bình đứng dậy, thì bà nói rằng: - Thầy nó có từ chức, có lẽ phải cho quan Chủ quận hay chớ? - Phải vậy chớ. Dầu mình bước ra ngoài vòng mình cũng phải giữ cho tròn lễ nghĩa. Để sáng mai tôi xuống bẩm lại với quan Chủ quận. Chắc ngài trách móc, ngài nói sao xin thôi mà không cho ngài hay trước, rồi ngài tỏ dấu trìu mến thương tiếc cho mà coi. - Phải làm vậy coi mới được chớ. Ông Bình thở dài và cuời mà đáp rằng: "Mùi đời phải nếm cho đủ rồi mới tịnh trí an lòng được“. Cách hai tháng sau. Một buổi trưa, ông Bình dùng cơm rồi, tay ông cầm một cái kéo, ông xẩn bẩn đi vòng theo mấy hàng kiểng ngoài trước sân mà cắt lá uốn nhánh. Trời ui ui (32) chớ không nắng, lại nhờ gió tây thổi hiu hiu, nên mát mẻ. Ông sửa chậu nầy rồi ông sang qua chậu kia, ông hớt lá cắt nhánh rồi ông đứng mà ngắm, bộ coi thung dung nhàn lạc lắm. Bà Bình đứng tại thềm, bà ngó mông ra ngoài lộ mà nói rằng: "Thằng Hai nó đi lên trên tòa, nó nói dầu mua được hay không cũng vậy, hễ bán xong rồi thì nó về liền, mà sao tới bây giờ nó cũng chưa về vậy hổng biết“. Ông Bình cứ lui cui sửa kiểng, ông không ngó bà, song ông đáp rằng: - Chín giờ mới khởi đấu giá bán. Vì ruộng đất manh múng nhiều miếng, nên đấu tới mười một giờ chưa biết rồi hay không. Bây giờ chưa tới mười một giờ, nó về sao cho kịp. - Nó quyết mua lại cho được sở ruộng Bưng Sen đặng vợ chồng nó làm kiếm cơm ăn. Không biết nó dành có lại người ta hay không. - Nó làm rộn, bỏ luôn cho rồi. dành giựt mà mua mắc thì có ích gì. Mình còn mấy chục mẫu ruộng hương hỏa đó, sợ không sức mà làm chớ. - Thây kệ nó. Tiền riêng của vợ chồng nó; nó làm sao được nó làm, mình cản làm chi. Bà nói tới đó kế thấy một cái xe đò ngừng ngay cửa ngõ. Bà nói: "Chắc thằng Hai nó về“. Bà chăm chỉ mà ngó một hồi bà lại nói: "Ủa, không phải thằng Hai. Con Ba mà! Chà! Về chuyến nầy lại có rương nữa chớ“. Ông Bình day ra, thì thấy thiệt quả cô Túy Nga, cô đương đứng trên lề đường, gần đó lại có một cái rương lớn với một cái va li, là vật năm trước bà Bình sắm cho cô về nhà chồng. Bà kêu đứa ở mà biểu ra vác đồ. Cô Túy Nga thủng thẳng đi vô sân, cô mặc áo đen quần đen, vóc coi ốm, da coi mét, mặt coi buồn, chớ không phải tươi tắn phương phi như hồi truớc. Cô vô tới thềm bèn chấp tay xá cha mẹ. Ông Bình châu mày ngó con rồi hỏi rằng: - Con ở trên Sài Gòn hay là ở trên Vĩnh Long mà về đây? - Thưa, ở trên Sài Gòn con đi thẳng về đây. Bà tiếp hỏi: - Con có được thơ của chị Hai con hay không? - Thưa, có. - Má dặn chị Hai con biểu con lúc nầy đừng có về làm chi. Sao con lại về? - Thưa, lâu quá con nhớ, nên con về thăm thầy má. Bà với cô Túy Nga đi vô nhà. Ông Bình bỏ cái kéo dưới gốc cây kim quít, ông phủi tay cho sạch rồi ông cũng đi vô, vừa đi và hỏi con rằng: - Con đau hay sao? - Thưa, không. Con có đau chi đâu. - Chớ sao mà ốm dữ vậy? -... tại ốm... Ông châu mày, ủ mặt, lộ vẻ ưu sầu. Cô Túy Nga đi thẳng vô buồng. Ông ngồi rót nước trà mà uống. Ông thấy người nhà vác cái rương thì ông ngó bà mà hỏi rằng: - Làm giống gì chuyến nầy về có va li mà lại có rương nữa? - Hổng biết. Thế nó muốn về ở chơi lâu. - Có chồng mà ở chơi lâu nỗi gì? Tôi nghi có chuyện gì đó sao, nên coi bộ nó buồn. Đâu bà kêu hỏi nó coi. Bà bèn kêu Tuý Nga ra bà hỏi rằng: - Con về rồi ở trển ai coi cơm nước cho thẳng nó ăn? - Thưa, có người ở nấu ăn. - Tại sao má dặn đừng có về, mà con lại về, đâu con nói thiệt cho má nghe thử coi? -... - Còn con về mà con đem rương theo làm gì? Cô Túy Nga đứng lặng thinh một hồi rồi cô vùng nói xẳng xớm rằng: "Thưa thầy má, chồng của con nó đánh đuổi con, không cho con ở nữa, nên con phải về“. Vợ chồng ông Bình nhìn nhau chưng hửng. Bà lắc đầu nói rằng: - Con dại quá! Vợ chồng con nít sao cho khỏi rầy rà với nhau. Nó giận nó có nói bậy bạ đi nữa, sao con không chịu nhịn, mà lại bỏ chở đồ đi về, liều quá. - Thưa má con nhịn lung lắm nên mới ở với nhau tới ngày nay, nếu không nhịn thì trong ba ngày đầu phải rời rã rồi. Chồng của con nó không thương con nữa, thiệt nó cố tâm đuổi con về, chớ không phải rầy rà sơ sài đâu. - Có lẽ nào mà kỳ cục vậy! - Thưa, hơn một tháng nay đuổi con luôn mấy lần. Con làm mặt lì, con không đi. Hồi hôm nầy nó đánh chưởi con, trước mặt má chồng con, nó mắng con là đồ ăn mày, cứ lết đầu, ở ăn chực cơm, đuổi hoài không chịu đi. Con than thở với má chồng con và xin má phân xử giùm. Má chồng con lại binh chồng con, tiếp mắng con là đồ hư rồi cũng đuổi con ra khỏi nhà. - Thẳng có chơi bời, có mèo chó gì hôn? - Thưa, cái đó sao khỏi; song làm giống gì hay là đi đâu tự ý, con có nói chi đâu. Ông Bình chận mà hỏi rằng: - Bữa nay toà thi hành phát mãi ruộng đất của thầy. Chồng con nó hay sự ấy hay không? - Thưa, hay chớ. Má chồng con lên hôm tháng trước đã có nói, mà cách một tuần sau cũng có thấy truyền rao trong nhựt trình nữa. - Có rao trong nhựt trình hay sao? - Thưa có. - Nó hay thầy từ chức Cai tổng hôn? - Thưa, cũng hay nữa. Má chồng con lên nói. - Chắc là nó thấy thầy suy sụp thôi làm Cai tổng, tiêu hết sự ngiệp, nên nó đuổi con chớ gì? - Có lẽ như vậy đó. Vợ chồng ông Bình ngồi buồn hiu. Cô Túy Nga thấy vậy bèn nói rằng: "Thưa thầy với má, phận con là gái, con trọn thảo với cha mẹ, thầy má gả con lấy chồng, con không dám cãi. Đến khi về nhà chồng, con cũng trọn đạo làm dâu, làm vợ, con cung kính cha mẹ chồng, con vưng lời chiều ý chồng. Những việc chồng con làm cho con khổ tâm cực trí trong hai năm nay, nếu kể ra cho thầy má nghe thì làm buồn cho thầy má chớ không ích gì, bởi vậy bấy lâu nay con ôm lòng mà chịu, con không dám hở môi. Bây giờ vợ chồng phải xa nhau rồi, nếu nói ra cho hết đã vô ích, mà lại còn thêm khiếm nhã. Tuy vậy mà con tưởng cũng nên nói sơ cho thầy má hiểu tại sao mà chồng con nó đuổi con. Khi con mới về nhà chồng cho tới gần một năm, chồng con nó làm cho con cực lòng, bất quá là tại cái thói thất giáo của nó, chớ chẳng phải nó có ý bỉ bạc con, vì vậy nên con vì chữ "trăm năm một chồng“ phải ráng mà chịu. Kể từ ngày nó biểu con về xin năm trăm đồng bạc mà má cho có năm chục đồng, thì nó bắt đầu khổ khắc, rồi từ đó về sau mỗi lần thầy má cho tiền thì cho có một hai chục, chớ không cho một hai trăm như trước nữa, chồng con nó đánh chưởi riết con. Nói thiệt mà nghe, chồng con cũng vậy, mà má chồng con cũng vậy, thấy nhà mình suy sụp nên bỉ bạc (33) con, đuổi con về, chớ không có chi lạ“. Vợ chồng ông Bình nghe con tỏ hết đầu đuôi, thì cảm trong lòng quá mà nói ra không được. Túy Nga nói tiếp rằng: "Con xin thầy má đừng buồn chi hết. Tại nhà mình thiếu phước, nên trời khiến sự nghiệp tan rả, phận con long đong. Vả tài sản là của tạm, có rồi không, không rồi có, bởi vậy dầu có cũng không đáng mừng, mà dầu không cũng không đáng buồn. Còn phận con long đong ấy là tại căn số của con, chớ không phải tại ai hết, bởi vậy con không dám trách cha mẹ không lựa chỗ cho đúng mà gả con, mà con cũng không dám trách chồng con khổ khắc bỉ bạc con. Nay thầy má nghèo rồi, mà con lại được chồng đuổi xô, thì con có thể về nhà ở giúp đỡ cho thầy má. Ấy vậy chồng con làm khó mà thành làm ơn cho con, một là giúp cho con được trả thảo cho cha mẹ trong lúc cha mẹ suy sụp, hai là giúp cho con thoát khỏi cái cảnh địa ngục mà con đã bị sa vào trong hai năm nay. Vậy con xin thầy má đừng buồn rầu việc nhà, đừng phiền trách ai hết, để trí thanh tịnh mà hưởng chút vui vẻ của lúc tuổi cao, bởi vì hạnh phúc mà có, là nhờ mình không hổ với bụng mình, không thẹn với thiên hạ, nhờ gia đình hòa thuận, nhờ tánh khí cao thượng, chớ không phải tại của nhiều chức lớn mà được hạnh phúc đâu“. Ông Bình gật đầu đáp rằng: "Mấy lời con nói đó giá đáng ngàn vàng. Thầy không dè con còn nhỏ tuổi mà con có cái lòng đạo đức, con thông thạo các đường đời như thế ấy. Tại cái kiếp tu của thầy còn kém lắm, nên thầy say mê danh dự đến nỗi hạnh phúc trước mặt mà thầy không thấy mà hưởng, Để bôn ba đi tìm, rồi làm cho vợ buồn rầu, con cay đắng. Thầy nói bao nhiêu đó, thì đủ cho con hiểu ý thầy đã ăn năn đến chừng nào. Đạo làm cha mẹ vợ, thì phải biết ẩn nhẫn, nên ép con, chớ không nên binh con. Nhưng mà bây giờ người ta vì thấy thầy nghèo mà người ta xô đuổi con, thế thì thầy khó mà ép con cho được. Vậy thì con ở đó, trong vài bữa thầy sẽ lên Vĩnh Long nói chuyện với anh sui. Nếu thiệt anh sui chị sui cũng đều không thương con, thì thầy lãnh về thầy nuôi, thà ở nhà thầy nghèo con ăn muối mà con được vui, hơn là ở nhà người giàu có ăn vàng mà con phải khóc“. Bà ngồi nghe chồng với con nói qua nói lại như vậy, thì bà không còn bụng nào mà nỡ trách chồng hay là khuyên con, bởi vậy bà chỉ ứa nước mắt lặng thinh mà chịu. Xe đò ngừng ngoài lộ nữa. Chuyến nầy thiệt Thái Hòa với biện Yến về. Hai người vừa bước vô nhà thì bà hỏi Thái Hòa rằng: - Sao? Rồi hay chưa? Con có mua lại được miếng nào hay không? - Thưa, con mua được một miếng Bưng Sen. Họ dành giựt dữ quá. Có mười hai mẫu mà con phải theo tới giá ba ngàn mốt con mua mới được. - Họ đến đấu giá đông lắm hay sao? - Đông lắm. Con thấy có bác Thiện nữa, sở nào bác cũng dành trả giá. Bác mua được hai ba sở gì đó... Con Ba về ở bao giờ đó em? Túy Nga gật đầu chào anh và đáp rằng: "Em mới về chuyến xe trước“. Biện Yến chen vô hỏi ông Bình rằng: - Bẩm ông, ông Thiện trên châu thành đấu giá mua đất đó là mua dùm cho ông chớ? - Không. Tôi có cậy ảnh đâu. Ảnh mua cho ảnh chớ. - Tôi có biên đủ hết. Ông mua được năm miếng. Ông cả Huynh dành mua được bốn miếng, ông Kế hiền Hạt bốn miếng. - Cả Huynh và Kế hiền Hạt cũng có đấu giá dành mua nữa sao? - Bẩm, có đủ mặt hết, bởi vì đất của ông miếng nào cũng tốt, nên họ ham lắm mà. - Vậy mà tôi cậy anh sui tôi giúp cho tôi, ảnh than không có tiền sẵn. Cả Huynh với Kế hiền Hạt cũng vậy. Nhơn tình giả dối quá! - Bẩm, ai khác thì tôi không rõ, chớ Cả Huynh với Kế hiền Hạt thiếu gì tiền. Tại họ xấu, họ không chịu giúp đỡ chớ. Hồi sớm mơi cậu Hai đấu sở Bưng Sen, hai thằng cha đó ban đầu cũng theo dành. Tôi nói phải để cho cậu Hai một sở đặng cậu làm chớ, tôi lén nói nhỏ, mà tôi nói nặng lời, nên họ mới chịu thôi đó. - Lúc nguy mới biết lòng dạ thiên hạ! - Thiệt như vậy. Ông Lê Thái Bình ngồi suy nghĩ một hồi rồi ông thở dài mà nói rằng: "Thôi, tôi phạm tội háo danh, mà lại háo thứ "hư giả chi danh“, thì trời đất phạt tôi đã xong rồi. Tôi không buồn không tiếc chi hết. Tôi chỉ ăn năn có một điều nầy, là sự nghiệp làm ra phần nhiều nhờ công của bà nó giúp sức tôi trong hai mươi mấy năm nay. Tại tôi háo danh mà làm tiêu sự nghiệp ấy, nên tôi buồn chỗ đó. Vậy tôi xin chịu lỗi với bà nó...“ Bà lật đật chận mà đáp rằng: "Ông không có lỗi chi hết. Ấy là ý trời muốn như vậy, chớ không phải ông lầm lỗi đâu“. Ông cười và nói tiếp rằng: "Còn sẵn bữa nay đủ mặt hai con, thầy cũng phải nói ít lời cho hai con rõ. Thầy làm đổ mồ hôi xót con mắt mà gây dựng chút đỉnh điền sản, thiệt ý thầy cũng qu;'>
- Có lạ gì đâu. Thằng chồng của cô Ba nó là con nhà giàu có sang trọng, mà nó lất khất lỗ mãng quá. Nó cưới cô về nó hành hạ thân cô không biết chừng nào, nó cứ xúi cô về nhà xin tiền cho nó xài. Chừng vợ chồng ông Tổng nghèo rồi không có tiền bạc mà cho nữa, lại nó nghe ruộng đất bị chủ nợ thi hành phát mãi hết, thì nó đánh chưởi xô đuổi cô, rồi nó vô đơn tại toà xin phá hôn thú, chớ có gì đâu. Hải Đường nghe rõ đầu đuôi thì chàng châu mày thở ra, mặt coi buồn thiu. Đến chiều, ăn cơm rồi Hải Đường mới đi thăm ông Tổng Bình. Khi chàng bước vô cửa ngõ thì chàng thấy cái sân khác hẳn với hồi trước. Khi xưa sân cũng có trồng bông, cũng có để kiểng, nhưng mà bông trồng không thứ tự, cây trồng không ngay hàng, lại bông không ai chăm sóc, cây không ai uốn sửa, nên bông coi không tốt tươi, cây coi không thanh nhã. Bây giờ cái sân lại thành một cảnh hoa viên đẹp đẽ. Chánh giữa sân cũng còn cây huỳnh mai nhánh lá sum sê, mà trước cây ấy có xây một hồ nước, trong hồ có đấp một hòn non. Cái đường xe ngoài ngõ chạy vô bây giờ đổ cát sạch sẽ, mà vô gần tới hòn non thì tẽ ra làm hai đường, mỗi đường đi một bên rồi giáp lại với nhau tại trước thềm. Miếng đất trống từ phía sau cây huỳnh mai vô tới thềm thì lót gạch bằng thẳng, chánh giữa để trống đặng ban đêm ngồi hứng mát, còn chung quanh sấp đôn (35) để chậu kiểng là những sơn tùng kim quít, bùm sụm, càng thăng, cặp thì sửa xuy phong, cặp thì uốn chiếu thủy. Hai bên đường vô thì trồng bông hết thảy, song mỗi thứ trồng riêng một liếp vuông, liếp thì trồng hường, liếp thì trồng huệ, liếp thì trồng vạn thọ, cúc, liếp thì trồng cẩm nhung rằn, liếp thì trồng móng tay (36), liếp thì trồng thược dược, cùng nhiều thứ bông khác mua giống bên Pháp nên không biết tên mà kể cho hết. Hải Đường đứng ngó vườn hoa thì trong lòng thơ thới, chẳng khác nào như lạc bước vào lối động tiên. Chàng đương bàng hoàng nhìn hoa ngắm cảnh, thình lình ở phía sau hòn non có hai cô mỹ nữ, một cô mặc áo đen, một cô mặc áo trắng, bước ra cúi đầu chào chàng, và cô mặc áo đen nói rằng: „Em nghe anh về từ hồi trưa đến giờ, nhưng vì nhà có khách nên em không lên mà mừng anh được. Mời anh vô nhà, thầy em mới nói chuyện anh với hai ông khách hồi nãy. Anh học thành danh, làm vẻ vang cho xứ sở, thiệt em nghe em mừng hết sức“. Cô nói đó là cô Túy Nga, còn cô mặc áo trắng là bạn cầm thi của cô tên Lý Thị Trường Thoại, con của ông giáo Lý Trường Lạc hưu trí ở dưới chợ Vũng Liêm. Hải Đường đáp lễ rồi trả lời rằng: - Cám ơn cô Ba có lòng chiếu cố. Không biết có ông bà và cậu Hai ở nhà hay không? - Có ở nhà đủ hết. Mời anh vô. Hai cô đi trước, Hải Đường theo sau. Chàng coi cô Túy Nga chẳng khác gì hồi trước, duy vóc ốm hơn và mặt có vẻ nghiêm nghị hơn. Hải Đường vừa bước lên thềm, thì ông Bình với cậu Thái Hòa dòm thấy nên chạy ra chào mừng. Ông Bình nắm tay và nói rằng: "Bác nghe cháu học trường Chư Nghệ Đại học mà cháu thi đậu được, thì bác mừng không biết chừng nào. Như cháu đó mới đáng gọi là trai Nam Việt. Cháu bước vô nhà...“. Hải Đường ú ớ cảm ơn, day qua bắt tay chào mừng Thái Hòa, rồi theo ông Bình mà bước vô cửa. Chàng chấp tay xá bà Bình, chúc bà mạnh giỏi, thấy có hai ông khách ngồi tại bộ ghế giữa bèn cúi đầu thi lễ. Ông Bình nói với hai người khách rằng: "Ông Bác vật (37) mà tôi khoe với hai ông hồi nãy đó là ông nầy đây“. Ông day lại nói với Hải Đường rằng: "Hai ông đây là bạn thiết của bác; ông nầy là ông Lý Trường Lạc, hồi trước làm giáo sư ở dưới Trà Vinh, hưu trí rồi nên mua nhà về ở tại chợ Vũng Liêm. Còn ông nầy là ông Trần Hạo Nhiên, làm thầy thuốc, nhà ở dưới Giồng Kê. Bây giờ bác chán đời, không còn muốn việc gì nữa hết, chỉ vui thú sửa kiểng, trồng cây, lâu lâu hiệp với vài ông bạn già ngâm thi, hoặc luận thế sự chơi vậy thôi. Cháu ngồi ghế đây, nói chuyện chơi“. Vợ và con của Thái Hòa cũng ra chào mừng Hải Đường, rồi hiệp cùng cô Túy Nga và cô Trương Thoại ngồi trên bộ ván chỗ bà Bình ngồi ăn trầu. Ông Bình với hai ông khách khen Hải Đường con nhà nghèo mà có chí, tiếc biện Yến không còn mà chung hưởng phú quí với con, hỏi thăm việc bên Pháp, nói chuyện cho tới tối, trong nhà đốt đèn, rồi ông mới hỏi Hải Đường rằng: - Để bác biểu bày trẻ dọn cơm cho cháu ăn, rồi ở nói chuyện chơi nhé? - Thưa ông, cháu ăn cơm trên nhà cháu rồi. - Thiệt hôn? - Thưa, thiệt chớ. Cháu ăn cơm rồi cháu mới xuống thăm ông bà đây. - Chẳng dấu chi cháu, bữa nay nhà bác có kỵ cơm, nên hồi chiều cúng rồi dọn ăn sớm. Bác hay cháu về hồi trưa, song bác nghĩ phải để cho cháu vui chơi với thím biện, nên bác không dám mời. Mà mấy năm nay đám giỗ, bác cũng không có mời khách khứa đông như hồi trước nữa, nên mời có hai ông bạn đồng chí đây mà thôi. Cháu ăn cơm rồi, thôi để lát nữa rồi sẽ dọn bánh ăn chơi. Bác thấy nhựt trình nói cháu thi đậu rồi lại được cấp bằng làm Bác vật sở tạo tác (38). Cháu về đây rồi quan trên bổ cháu làm tại đâu? - Thưa, cháu đã lãnh giấy rồi, cháu sẽ tùng sự tại sở Tạo tác Sài Gòn. - Cháu ăn lương một tháng chừng bao nhiêu? - Thưa, trên ba trăm. - Cháu sẽ đem thím Biện lên Sài Gòn ở với cháu, hay là để ở dưới nầy? - Thưa, cháu muốn rước má cháu lên trển ở với cháu. - Ô, có hai mẹ con, ở chung với nhau cho tiện. - Cháu tính cưới vợ hay chưa? - Thưa, việc ấy cháu chưa nghĩ tới. - Theo ý cháu, thì chừng cưới vợ, nên cưới con gái tân học hay là nên cưới con gái cựu hóa. - Thưa, việc vợ chồng cháu chưa để ý đến. Nhưng mà theo ý cháu, nếu cưới vợ tự nhiên phải kể tình với nghĩa trước hết. Còn giàu hay nghèo, mới hay cũ, mấy điều ấy không quan hệ gì lắm. Mặt trăng mọc lên khỏi ngọn cây, yến (39) dọi vô cửa sáng lòa. Ông Bình kêu Túy Nga biểu dọn bánh nước trà một bàn ở giữa sân đặng khách ra đó ngồi ăn uống chơi cho mát. Thái Hòa lo dọn bàn ghế, còn Túy Nga với Trường Thoại thì lo sắp đặt bánh nước. Ông mời khách ra cái sân gạch dựa cây huỳnh mai mà ngồi. Gió thổi hiu hiu, trăng soi vặc vặc, hoa đơm chờn chở, lá giũ lào xào. Trăng chào hoa trăm đóa hữu duyên, hoa mừng trăng một vừng tỏ rạng. Khách ngồi uống nước, nhìn hoa ngắm nguyệt, rồi ai cũng cảm hứng động tình. Ông bèn biểu Túy Nga với Trương Thoại đem đờn ra hòa chơi mà thưởng hoa thưởng nguyệt. Cô Trường Thoại đờn cây tranh, cô Túy Nga đờn cây kìm, hai người hòa với nhau, tiếng to như mưa tuôn như nước đổ, tiếng nhỏ như dế gáy như ve ngâm, khi hùng hào như oán như hờn, khi rỉ rả như than như khóc. Hải Đường ngồi ngó cảnh nghe đờn, mờ mệt tâm thần, nửa mê nửa tỉnh. Hai cô vừa dứt đờn, thì ông giáo Lạc nói với Túy Nga rằng: "Cô Ba, tôi nghe con nhỏ tôi nó nói cô có làm một bài thi "tự thán“ văn tao, tứ rộng. Đâu cô ngâm nghe thử coi“. Túy Nga chúm chím cười và đáp rằng, "Bẩm thầy đêm rằm tháng trước, trăng trong gió mát cũng như bữa nay, cháu bước ra vườn hoa, một mình thơ thẩn, bỗng cháu thấy trong mặt đám hoa đương đua nở tốt tươi, lại có lộn một đóa hoa đã tàn nên khô héo; cháu nhìn đóa hoa tàn ấy rồi cháu động lòng, nên ngụ ý làm thử một bài thi. Bẩm, cháu mới tập làm, nên thi cháu non nớt lắm, có đâu cháu dám ngâm cho thầy nghe“. Ông giáo Lạc nói "Thi hay dở là tại tứ, chớ không phải tại luyện. Có người làm đến già mà cũng không tao. Cô làm thế nào đâu, cô ngâm nghe thử coi, như có câu nào không được thì bác sẽ sửa cho“. Túy Nga ôm cây đờn kim lên dây mà rao, rồi vừa đờn vừa ngâm một bài thi như vầy: Hoa tàn một đóa giữa đêm đông, Đêm vắng hoa khô dạ não nồng; Hởi trước hẫng hờ trong lộn đục. Nên giờ tỏ rõ sắc là không; Cầm thi vui tạm qua ngày tháng, Son phấn nghĩ càng thẹn núi sông; Nầy bạn tri âm ai có biết, Treo gương bạc mạng chốn lầu hồng. Túy Nga ngâm dứt bài thi rồi, cô để cây đờn trên ghế, liếc mắt thấy Hải Đường ngó cô trân trân. Ông giáo Lạc gục gặc đầu mà nói rằng, "Cháu mới tập làm thi mà cháu làm được như vậy thì khá lắm. Cháu tập riết chắc thi của cháu sẽ tao. Trong bài thi nầy cháu than phận của cháu thì phải; nhưng mà lấy tứ mà bình luận thì cháu đa sầu đa não, còn tức còn phiền, cháu chưa giải thoát nợ đời được. Cháu phải ráng tập luyện cho tâm an trí tịnh, đặng vui đạo vị, hưởng phong lưu. Cháu nghĩ lại mà coi, phú quí, căn duyên là nghĩa gì? Ấy là những mùi của Tạo hóa bày ra để mà thử lòng người, ấy là những bẫy để mà bắt những kẻ mê muội đặng quăng vào biển khổ. Cháu đừng thèm kể những đồ ấy, cháu phải thành tâm vui với cảnh hoa thơm trăng tỏ, vui với thú thi tối cầm trưa, cháu tập được như vậy rồi, tự nhiên trí cháu tiêu diêu, lòng cháu thơ thới, cháu làm thi văn mới thanh tao, tứ mới cao thượng“. Ông Trần Hạo Nhiên cãi rằng: "Bài học của ông giáo đó là bài để dạy những người lớn tuổi như mình, chớ cô Ba mới hai mươi ngoài tuổi, cô còn đa tình đa cảm, cô mới uất về tóc tơ, chớ cô chưa nếm đủ mùi đời, có thế nào cô làm theo lời ông dạy đó được“. Hải Đường tiếp mà nói rằng: "Lời của ông thầy thuốc nói phải lắm. Cô Ba còn trẻ tuổi nên cháu tưởng khó mà làm theo lời của ông giáo dạy. Đã vậy mà theo ý cháu, con người ở đời thiệt chẳng nên vọng cầu phú quí ấy không có giá trị chút nào hết. Còn như mình không cầu, song nhờ cái chí, nhờ cái tài, nhờ công phu của mình mà mình được phú quí thì cái phú quí ấy đáng cho mình hưởng lắm chớ. Xin lỗi ông giáo; để cho cháu tỏ hết ý của cháu. Đã biết phú quí thường là miếng mồi để câu mình vào biển khổ, song có khi nó cũng là cái vật để cho loài người cạnh tranh mà tấn hóa. Nếu loài người ai cũng lo hưởng thụ gió trăng, không thèm kể phú quí, thì hại cho đường tấn hóa lắm“. Ông Bình gật đầu vừa cười vừa nói rằng: "Cái luận thuyết ấy là luận thuyết của bực thanh niên tân học bây giờ. Nghe hữu lý lắm, song ý trung, trọng vật chất hơn tinh thần. Cháu luận phú quí như vậy đó, còn theo ý cháu căn duyên thì sao?“ Hải Đường ngó Túy Nga rồi đáp rằng: "Thuở nay cháu chưa có vợ, nên luận về căn duyên chắc là cháu còn non nớt lắm. Căn duyên là gì? Ấy là cuộc tơ tóc trăm năm, cuộc vợ chồng. Theo Việt Nam, vợ chồng là đạo trọng, để vun trồng gia tộc, còn theo Pháp vợ chồng là cuộc để gây ra gia đình hạnh phúc. Mà dầu Việt Nam dầu Pháp cũng vậy, hai chữ vợ chồng có ẩn cái nghĩa ái tình luôn luôn. Nếu cặp vợ chồng nào mà không có ái tình, thì cái gia đình ấy là địa ngục. Ấy vậy ái tình là món rất quí báu, nếu mình biết nâng cao nó lên, thì nó có thể làm cho mình thơ thới mà bước trong đường đời, làm cho mình được phấn chấn mà lo tấn hóa. Cháu tưởng mình nên nuôi, chớ không nên bỏ nó. Nếu trong cái thú thanh nhàn hoa thơm trăng tỏ, thi dối cầm trưa, mà có lộn ái tình chan chứa nữa, thì cái thú thanh nhàn ấy càng thêm nồng nàn, chớ không hại chi hết“. Ông giáo Lạc cười mà nói rằng: "Đa tình nên chưa thoát tục! Nợ đời còn nhiều!“ Ông Bình với ông thầy thuốc đồng cho mấy lời phê bình của ông giáo là đúng. Trăng đã đứng đầu. Bà Bình với Thái Hòa đi nghỉ đã lâu rồi. Ông giáo Lạc với ông thầy thuốc Nhiên thấy canh đã khuya nên kêu người đánh xe biểu bắt kế ngựa mà về. Cô Trường Thoại cũng theo xe mà về với cha. Hải Đường với Túy Nga đưa khách ra tới đường lộ, chừng xe chạy rồi, hai người ngó nhau, cả hai đều lộ sắc buồn. Hải Đường tính trở vô sân đặng từ giã ông Bình mà về nghỉ, chẳng dè vô tới đó thì không có ông, chỉ còn bàn ghế, đèn, nước mà thôi. Túy Nga nói rằng: "Chắc thầy em đi nghỉ rồi. Bữa nay có khách thầy em bỏ giấc ngủ trưa, nên coi bộ mệt“.