Trang 2

6.- Dân Lịch-thành ái-mộ Mai-Công (câu 143 - câu 194)
          Còn đương trò-chuyện trước sau,
          Xôn-xao nghe bỗng tiếng đâu gần gần.
          Gót giày ông mới động chân,
          Trông ra đã chật một sân những người.
          Bẩm rằng: " Dân sự chúng tôi,
          "Tấm lòng xin ngỏ, chút lời xin thưa.
          "Từ ngày trọng lỵ đến giờ,
          150.- "Một đường sao phúc, muôn nhà phật sinh.
          "Bao nhiêu lại tệ dân tình,
          "Đuốc soi chẳng chút đỉnh-đinh dám lòa.
          "Tấc lòng xem bẵng mẹ cha,
          "Đọc ca mạch-tuệ ngâm thơ cam-đường.
          "Bấm tay mười mấy năm trường,
          "Mưa xuân tưới khắp một phương Lịch-thành.
          "Rày vâng thăng điệu lai Kinh,
          "Thỏa lòng hồ-thỉ phỉ tình đai cân.
          "Thênh-thênh nhẹ bước thanh vân,
          160.- "Cành cây dám tưởng bận chân loan hoàng.
          "Nghĩ cho chút phận tầm thường,
          "Đạo con cái được tựa-nương bấy chầy.
          "Chỉn e tiếp lỵ sau này,
          "Lòng thương cân được như rày mấy phân?
          "Bấy giờ lễ cách quan dân,
          "Tưởng công-đức trước, lại năn nỉ nhiều.
          "Lòng thành nay quyết xin theo,
          "Làm đơn ái-mộ dâng liều một chương.
          "Hoạ là vua nặng lòng thương,
          170.- "Thấy tình Trường-xã, lưu chàng Khấu quân."
          Ông rằng: "Vẫn biết lòng dân,
          "Lời trung-hậu ấy, tình thân-ái này.
          "Ta làm Huyện-tể bấy nay,
          "Có chi công-đức đáng rày truy-tư?
          "Phương chi thế-sự bây giờ,
          "Dễ dò bụng hiểm, khôn lừa mưu gian.
          "Họ Lư cưu dạ tham tàn,
          "Rình như miếng mộc, những toan hại người.
          "Phỏng mà nghe đặng như lời,
          180.-Hẳn là mua chuộc lòng người tại ta.
          "Miệng sàm dệt gấm thêu hoa,
          "Công nào chưa thấy tội đà đến ngay.
          "Lại càng mang tiếng chẳng hay,
          "Yêu đây để xấu cho đây ích gì?"
          Dân nghe biết ý quyết đi,
          Lui ra, còn dám nằn-nì nữa đâu?
          Một đoàn kẻ trước, người sau,
          Khen cho rằng khéo bảo nhau một bề.
          Lễ đâu đưa đến tức thì,
          190.- Vạn dân-tản, vạn dân-y sãn sàng.
          Thưa rằng: "Gọi chút lễ thường,
          "Mà lòng tạc dạ ghi xương còn dài"
          Ông xem thấy ý vật nài,
          Kíp truyền thu lễ, trao lời giã ơn.
7.- Kẻ ở người đi (câu 195 - câu 254)
          Phu-nhân công-tử xuống thoàn,
          Mai-công ở lại đợi còn bàn giao.
          Ngại-ngùng thay, lúc phân-bào!
          Kẻ về tụ-lý người vào ngọc-kinh.
          Cho hay là kẻ trung-trinh,
          200.- Nặng lòng vương-sự, nhẹ tình gia-mang.
          Mặc ai châu lệ hai hàng,
          Gác tình nhi nữ xem thường như không.
          Vài ngày huyện-vụ giao xong,
          Ra thành lên kiệu thẳng giong nhật trình.
          Huyện dân chực sẵn tiễn-hành.
          Hương-đăng bày án, tràng đình dọn nơi.
          Đón đưa khắp mặt thiếu ai,
          Mấy tòa quan tỉnh mấy người hương thân.
          Người dường ra ý ân-cần.
          210.- Ông thì thủng-thẳng có phần xem khinh.
8.- Phong-cảnh dọc đường, từ Lịch-thành đến Kinh-sư (câu 57 - câu 108)
          Giã nhau mười dặm tràng-đình.
          Trông theo đã khuất mây xanh mấy trùng.
          Nước non đưa đón người trung,
          Suối tuôn giòng chảy, núi chồng lớp cao.
          Nhởn-nhơ cỏ đón hoa chào,
          Hang men móc vượn, cây xào-xạc chim.
          Tấc gang kinh-quốc chờ xem,
          Đường ngày giục kiệu, điếm đêm đổ cờ.
          Kià chài sớm, nọ cày trưa,
          Gió gần giọng địch (mục), mây xa tiếng tiều
          .
          Quê người phong cảnh đìu hiu.
          Trăng thanh gió mát dường chiều chuông ai!
          Những màng giong-ruổi dặm dài,
          Trông ra bỗng thấy bốn người xa xa.
          Hỏi ra mới biết rằng là:
          Trong kinh, Lại-bộ sai nha đón mình.
          Hoàng hôn gác bóng chênh-chênh,
          Truyền tìm quán khách bộ-hành nghỉ-ngơi.
          Bốn ngư!!!2157_4.htm!!! Đã xem 95369 lần.


Nguồn: VansonNguyen
Được bạn: Mọt Sách đưa lên
vào ngày: 14 tháng 2 năm 2004

Truyện Nhị Độ Mai Giới thiệu Trang 1 Trang 2 Trang 3 Trang 4 Trang 5 Trang 6 Trang 7 Trang 8 Trang 9 Trang 10 Trang 11 Trang 12 i.
đai cân
: bởi chữ cân đới, trỏ về phái quan chức mũ cao áo dài.
thanh vân
: mây xanh, bước thanh-vân nói về công-danh bay nhảy.
loan hoàng
: câu này đại ý như câu chữ nho: "Chỉ cức phi loan phượng sở thê" nghĩa là khóm cây gai không phải chỗ đậu của loài chim loan-phụng, Nguyên Cừu Hương đời Hán, mới bổ chức Đình trưởng, có người đàn bà góa đến kiện đứa con ngỗ-nghịch là Trần Nguyên, Hương khuyên-bảo trở về, rồi thân đến nhà, đem nghĩa lý hiểu bảo, Trần Nguyên cảm-đông nghe theo, trở nên người con chí hiếu. Quan Huyện-lệnh là Vương Hoán khen ngợi cất lên làm Chủ-bạ và hỏi: " Nhà ngươi không trị tội Trần Nguyên, lại chịu khó đến khuyên bảo, chả cũng kém mất sự lập oai như giống chim cắt với đàn chim nhỏ hay sao? Hương thưa: "Giữ kỳ làm chim cắt, sao bằng làm chim loan-phụng!" Vương Hán cười nói: "Vậy thì khóm cây gai (trỏ vào chức chủ bạ) không phải chỗ đậu của chim loan-phụng!" Bèn đem tiền lương tháng giúp cho Hương vào nhà Thái học, sau trở nên bậc đại tài.

[Back to the top]

tiếp lỵ: người thay chân, kế tiếp nhận chức.
lễ cách quan dân
: bởi câu tục ngữ: quan dân lễ cách.
ái mộ
: yêu-mến
Khấu quân
: Câu này do tích Khấu Tuân đời Đông Hán làm quan Thái-thú quận Dĩnh-xuyên, dựng nhà học-hiệu, đem văn-hóa dạy dân, sau Dĩnh-xuyên có giặc, khấu Tuân đi tòng-chinh, lúc khải hoàn, Trăm họ đón đường kêu xin để Khấu lưu nhậm một năm nữa. Vua Quang Vũ thấy dân tình Trường xã, Dĩnh-xuyên như thế cũng ưng cho Khấu ở lại.
Huyện-tể
: Chức chủ-tể trong một huyện, tức là Tri-huyện.
Miệng sàm dệt gấm thêu hoa
: Câu này bởi câu trong Kinh Thi:
Thê hề phỉ hề,
thành thị bối cẩm,
bỉ trấm nhân giả,
diệc dĩ thái thậm"
nghĩa là những thứ rau cỏ tạp nhạp có thể họp thành gấm vóc, những kẻ hay gièm-pha cũng đã quá lắm.
vạn dân tản, vạn dân y
: Tản và áo của muôn dân- cũng như câu nói " bách gia chi sản", nghĩa là của chung mọi nhà- Đây là một lễ chung của dân huyện Lịch-thành đem tiễn Mai-công.
tạc dạ ghi xương
: bởi chữ "minh tâm khắc cốt"
phân bào
: chia vạt áo, nói về khi giã nhau mỗi người mỗi nơi.
tử-lý
: tử: cây tử (cây lộc vừng), lý: làng. Kinh Thi có câu "duy tang giữ tử, tất cung kính chỉ,": ví cây dâu với cây tử tự cha mẹ trồng, nên phải cung kính. Người ta nhân đó mới mượn chữ tang tử để trỏ về quê-hương.

[Back to the top]

ngọc kinh: Kinh-đô nhà vua.
vương-sự
: việc nhà vua, việc công.
gia mang
: việc riêng bận rộn của tư gia, việc tư.
tràng đình
: Mỗi cung đường có một trạm nghỉ chân gọi là đình, nghĩa là dừng chân. Cung ngắn (5 dặm) gọi là đoản-đình, cung dài (10 dặm) gọi là trường-đình.
hương thân
: Người văn học trong làng, bậc văn thân địa-phương.
kinh quốc
: tức kinh-đô, kinh-sư nhà vua.
kià chài sớm nọ cày trưa, gió gần giọng địch, mây xa tiếng tiều.
: câu này tả đủ bốn cảnh: Ngư (chài), canh (cày), mục ( giọng địch), tiều (tiếng tiều)
hoàng hôn
: Hoàng là vàng, hôn là tối, lúc chiều hôm gần tối, mặt trời lặn còn sót một ánh vàng vàng, nên gọi là hoàng-hôn.
Lư, Hoàng
: tức Lư-Kỷ, Hoàng Tung: hai tên gian-thần đối đầu với Mai-công.
đại-gia
: nghĩa đen là cha, tiếng gọi tôn những bậc quan-trưởng cũng như chữ tướng công hay đại nhân.

[Back to the top]

thiết-tha ban tối, khoe-khoang giữa ngày: Câu này đại ý cũng như câu chữ nho: " Hôn dạ khất ái nhi, kiêu nhân bạch nhật"
trong bình
: là tên bức bình phong, nơi ngăn phòng ngoài với phòng ngủ.
Di, Tề
: Bá Di, Thúc Tề là hai nghĩa-sĩ đời nhà Thương, Chu Vũ-Vương đánh vua Trụ - Vua nhà Thương- hai ông can không được, sau khi nhà Chu đã được nước, hai ông liền lên ẩn cư trên đỉnh núi Thú-dương, hái rau vi ăn thay cơm, dù đói chết cũng không ăn thóc của nhà Chu.
mấy câu
: Thơ đề tranh Di, Tề nguyên văn chữ Hán:
"Côn trọng đương niên ngã Thú-dương,
Chí Kim lưu đắc tính danh hương,
Nhược giao liệt-sĩ như kim tại,
khởi nhẫn quần gian lập miếu đường,"
Ý nói bấy giờ hai anh em ông chết đói trên núi Thú-dương, mà vẫn còn để họ tên thơm tho đến bây giờ. Nếu ngày nay còn có liệt-sĩ như thế, há chịu để cho lũ gian thần đứng ở triều-đình.
Có người đã dịch:
Thủa xưa ở núi Thái hái rau Vi,
Muôn kiếp danh thơm, miệng ấy bi,
Ví khiến đời nay còn kẻ ấy,
Miếu-đường chi để lũ gian-phi.
thanh ứng khí cầu
: nghĩa là cùng tiếng thì hưởng-ứng với nhau, cùng chí khí thì tìm nhau.
phủ trời
: do chữ thiên-phủ, ý nói vững vàng như kho nhà trời.
hoàng-thành
: thành nhà vua.
kỳ-đài
: cột cờ
nước nhược
: bởi chữ nhược-thủy, nơi tiên ở.
nguồn đào
: bởi chữ đào-nguyên: cõi tiên
n "tuế nguyệt như thoa".

[Back to the top]

nội thần: quan trong, tức nội giám, hoạn quan.
kết thái trương đăng
: kết hoa trưng đèn.
Thiên-bảo
: Một chương trong Kinh Thi (Nhã phong), có 9 chữ như chúc tụng nhà vua:
Như sơn như phụ,
như cương như lăng,
như xuyên như phương chí dĩ mặc bất tăng,
như nguyệt chi hằng,
như nhật chi thăng,
như nam sơn chi thọ, bất khiên bất băng,
như tùng bách chi mậu, vô bất nhĩ hoặc thừng.
Người ta gọi "Thiên bảo cửu như" là thế.
Nghiêu-hoa
: Vua Nghiêu đi tuần thú đến đất Hoa, có Phong-nhân (người coi ấp) chúc vua giàu có, sống lâu và nhiều con trai, nên có câu: "Hoa-phong tam chúc". Nghĩa là 3 điều chúc của Phong-nhân ấp Hoa.
bách hí
: Trăm trò chơi.
bát âm
: tám thứ âm-nhạc.
triều quan
: Quan trong triều.
hoàng thân
: Họ nhà vua.
Gia-hào
: đồ nhắm ngon.
trân-la
: rau thơm, rau quí.

[Back to the top]

lạp-hoàng: tức hoàng lạp, sáp vàng.
thiều nhạc
: bản nhạc đời vua Thuấn bên Tàu. Đây chỉ nói về âm-nhạc.
ân-gia
: nghĩa là cha nuôi, Lư Kỷ là bố nuôi của Hoàng Tung.
Lễ đơn
: tờ kê lễ-vật.
nghĩa-phụ
: cha nuôi.
ân-nhi
: con nuôi.
vượng-khí tướng-môn
: bởi chữ: tướng môn vượng khí, khí thịnh vượng trước cửa nhà quan Tướng.
nghi-môn
: cửa chính ở các dinh-thự hay lâu đài nào, nhà lớn.
bạn đảng
: đảng làm phản, bọn phản đối.
long-nhan
: mặt rồng, mặt vua.

[Back to the top]

biên-quan: quan coi ngoài biên-giới.
giặc Thát
: tức rợ Thát-đát nguyên là biệt bộ nước di dịch về hạng Hung nô, Đột-quyết, về sau là Mông-cổ, một dân tộc thượng võ đã có phen làn rung-động hoàn cầu.
đoản biểu
: tờ biểu ngắn.
chính-pháp thị-tào
: xử theo phép chính, nghĩa là đem chém. Thị tào: nơi chém người, cũng như nói "pháp trường".
Đường-hoàng
: vua nhà Đường
tham tán, người quyền Đổng binh
: Tham-tán, Đổng-binh: hai chức coi việc hành quân đánh giặc.
lòng kiến
: do chữ nghĩ khốn.
chẩn-mễ, tiểu-di
: chẩn-mễ: gạo phát chẩn, Tiểu-di: quân mọi-rợ nhỏ.
chẩn-thải
: phát chẩ và cho vay.
qua-giáp
: qua: ngọn giáo; giáp: áo giáp che tên đạn. Qua-giáp là nói về quan võ.

[Back to the top]

văn-chương: nói về quan văn.
hoãn binh
: làm chậm việc binh lại, có ý để chờ dịp gì đáng ngờ.
đao-phủ
: đao búa, thứ khí-giới để hành-hình kẻ bị phạm tội chết.
cửu-nguyên
: cũng như cửu tuyền: chín suối, đường âm.
cách quyền hồi dân
: bị cách chức về làm thường dân
Mai Bạch
: người gia-đinh theo hầu Mai công.
Tướng-quốc
: nghĩa đen là giúp nước, cũng như hộ quốc, tên một ngôi chùa ở kinh-đô bấy giờ.
Họa chí vô đơn
: bởi câu họa vô đơn chí, tai vạ bao giờ cũng bị dồn-dập chứ không khi nào chỉ đến lẻ-loi có một việc mà thôi.
lệnh-tiễn hỏa-bài
: lệnh-tiễn: lá cờ nhỏ của các quan tướng dùng làm hiệu lệnh để ban phát. Trong lá cờ có đề chữ "lệnh", ngọn cờ hình nhọn như mũi tên.
hỏa-bài: Phiến gỗ có viết chữ, cầm làm hiệu-lệnh của các nha-môn, việc gì khẩn cấp thì phê chữ "hỏa" nghĩa là nóng như lửa, hỏa tốc.
đồng-bào
: cùng bọc sinh ra, anh chị em ruột, câu này nói người làm quan đó là em ruột của Mai phu-nhân.

[Back to the top]

Hỉ Đồng: thư-đồng của Mai-sinh.
Nghi-trưng
: Một huyện thuộc đạo Duy-dương tỉnh Giang-tô bên Tàu đời bấy giờ.
Nhạc-thân
: Bố vợ Mai-sinh.
sinh môn
: cửa sống, lối sống, con đường sống.
Phủ-binh
: lính phủ, tức lính ở phủ Thường-châu, sở tại, quê Mai-công.
thủy-đạo
: đường thuỷ.
phạn-điếm
: hàng cơm.
viêm-lương
: viêm: nóng ; lương: mát.Thói đời viêm-lương: ý nói thói đời cứ tùy theo kẻ suy người thịnh mà coi trọng coi khinh, cũng như tiết trời lúc nóng lúc lạnh thay đổi thất thường.
chu-tuyền
: làm cho trọn vẹn.
tì-sương
: vị thuốc độc.

[Back to the top]

môn lại: người coi cửa.
bán-tử
: nửa con, tức là con rể.
Tội-nhân

© 2006 - 2024 eTruyen.com