Đoàn tù kéo ra bãi tha ma. Tên lính gác bảo: Tụi bây tự do! Làm gì làm. Chỉ xin một việc. Ðừng trả thù tao. Tao hành hạ tụi bây là do lệnh trên chớ không phải do tự lòng ham muốn của tao. Ðánh một con vật còn thấy xấu hổ huống chi xử tệ đồng loại. Thôi đi làm gì thì làm không cần phải hỏi! Thưa cán bộ, chỉ một hôm nay thôi hay còn ngày mai ngày mốt nữa? Mãi mãi! Chúng bay sẽ được tự do. Ðoàn tù chạy túa ra, tung dao, ném cuốc tưng bừng, la hét tở mở. Người tù già nhất cũng là tên tù thâm niên nhất bảo: Vậy phải kêu chúng nó dậy cho chúng nó hay. Vâng vâng phải đấy! Ðại ca phán có lý. Rồi họ bắt đầu. Bãi tranh phẳng lì không có bia núm đất hầu nhu mặt ruộng ai biết tên gì mà gọi. Ðúng ra khi chôn, người đồng tù có cắm một cái cây, một phiến đá làm dấu. Còn tên tuổi thì nhớ trong bụng chớ không được khắc. Thằng Duẩn thằng Ðồng nhân đạo thế đó. Nhưng dần dà rồi cũng quên đi, quên hết, quên cả thân mình thì làm sao còn nhớ tên bạn. Bộ óc bị giũa mòn không còn nếp nhớ nữa. Lớp thì chuyển trại xáo trộn hết, có ai đâu ở lại một nơi mà nhớ chuyện xưa tích cũ của vùng đất vô danh? Này, dậy dậy! mày tên gì? Mặt đất bỗng run run nứt ra một mảng rồi một cái đầu tóc lụp xụp ngoi lên, lè nhè: Ai gọi? Ðây không phải quán hàng! Ừ thì chính không phải quán hàng nên tao mới gọi mày. Làm gì? Tôi nằm yên đây đã lâu rồi. Không ai quấy rầy, không bị ai mắng mỏ, không bị phạt kiên giam, kiền gì, không cơm lạt, cơm mặn. Tôi mong được yên muôn đời muôn kiếp. Sao mày ra nằm đây một mình xa lánh anh em? Trốn roi đòn hình phạt à? Hèn thế! Không, tui không hèn. 15 năm quân vụ, 8 vết thương - 1 cái ở sọ đầu chưa gắp miểng ra, ai dám bảo là hèn? Thế thì sao ra đây? Mà lại nằm, không đứng? Tử hình mà còn đứng được à? Tội gì? Tội à? Kể sao cho hết mà hỏi. Mấy thằng viết văn chỉ viết ba cái râu ria. Tội 15 năm chống cộng bằng máu. Tội đi ỉa gọi là đi lăng bác. À, tao nhớ ra rồi. Mày là thằng bị tử hình đầu tiên sau 75. Nó bắt tội thế nào mà ra Bắc? Nó bảo vô lễ với lãnh tụ tủ lạnh gì đó. Không có gì hơn. Mà sao chỗ tôn nghiêm của người ta mà mày lại gọi là cầu xí? Tôn nghiêm của chúng nó là cầu xí của tao! Thôi dậy đi! Dậy gì được. Tay vỗ vỗ cái đầu nghe còn viên đạn trong này. 2 viên xuyên ngực cũng còn nằm trỏng. Cố dấy chớ. Thời cơ đến rồi, nằm đó mãi có tội. Cái mả bật tung. Một thân người ưót sũng dầm dề máu me, trồi, nhô vọt lên khỏi mặt đất. Còn anh này! Dậy đi thôi! Ai gọi thế? Tổ quốc, non sông, đồng bào, đồng đội! Ghê thế ư? Dậy thì dậy, nhưng nắp hòm ràng bằng mây rừng chắc quá, tông không đứt. Vươn vai mạnh lên. Không có gì ngăn được lòng yêu nước. Pực! Nấm đất đổ qua. Một anh chàng đầu đội ca lô, áo rằn thủy quân lục chiến, ngơ ngác nhìn quanh: Ai gọi ta thế? Có ai cứu nước không? Nước mất rồi, còn đâu mà cứu? Tầm bậy! Chúng tao còn đây, nước nào mất được? Nước còn thì tôi nguyện hi sinh. Vết thương nặng mấy cũng lành. Sao ra nằm đây? Vượt ngục. À, nhớ rồi. Kỳ đó 15 thằng, bị bắt lại 6 xử bắn cả 6, còn 9 thằng trốn thoát, về sau lại bị bắt 3. Còn 3 biệt tin. Chúng nó về đồng bằng. Xuống U Minh. Tổ chức quân đoàn phục quốc. Chỉ có 3 thằng. Nhưng sức mạnh bằng 1 quân đoàn. Chúng nó bắn mày ở đâu? Bắn nát cả người. 9 viên AK, 12 viên K54. Nó bảo tôi đầu đảng nên bắn cho thật chết. Ông tù già nhìn bãi tha ma lổm chổm cỏ cây, nhấp nhô những nấm đất, ngẫm nghĩ: có hàng vạn, làm sao gọi hết? Bèn kêu tù đốn cây làm một cái đàn rồi ông ta leo lên nói như truyền hịch xuất trận: Hỡi anh em đồng đội. Nay đất nước đã hết kỳ đau đớn, anh em hãy chổi dậy về lại đơn vị. Tướng tá còn đủ, đang chờ tay súng của anh em. Ông tù, vừa dứt lời thì... Một tiếng sấm nổ vang khói bốc mù tịt. Chập lâu khói tan thấy cũng hàng đàn người lúc nhúc đứng ngồi, đi chạy, ôm nhảy la hét. Nào thằng trung úy trỏ c. vào mặt quản giáo. Nào thằng thượng sĩ chất vấn huấn luyện viên. Nào thằng nhà báo viết bài chế diễu Hồ chủ tịch. Nào anh cán bộ tuyên tin làm biểu ngữ cố ý kẻ chữ "bách" ra chữ "bất" thắng. Tất cả đều nằm ở đây vùi chôn xương thịt vô danh, không ngờ có ngày vùng dậy. Ông tù hô như sấm: Tất cả nghe lệnh tôi. Có mặt. Xết thành hàng 18, súng cầm tay thẳng bước! Tiến! Bỗng có tiếng kêu rên cuối bãi. Ông tù vội chạy đến. Tiếng rên ri rỉ từ dưới đất. Ai? Tôi. Huyệt sâu quá tôi không đội lên được! Dạ Văn khoa. Bây giờ chúng nó ôm vàng chạy hết! Các trường ta đã mở lại như cũ rồi. Ông có muốn đi học tiếp không? Tôi nghĩ là tôi đã học xong đại học rồi ạ! - Người "Mán" nói với một nụ cười gượng trên môi - Tôi lại qua luôn mấy cái đại học nữa là khác. Hai mươi năm lăm năm là một thời gian quá dài cho một học sinh hoàn thành nhiều môn học ở đại học. Những vị thầy của ông trước kia là ai? Có ai còn sống không? Tôi là học trò mà đã thế này rồi. - Người "Mán" lôi bộ râu trên vai nâng ra trước mặt - thì những bậc thầy của tôi chắc không vị nào còn trên đời. Viên cảnh sát cười: Theo như tôi tính thì ông mới có 42 tuổi thôi. Vậy thì các vị thầy của ông cũng chỉ đến 70 là tối thượng. Bảy mươi tuổi đối với người Việt Nam đâu phải là khó tìm. Người "Mán" nói: Ðã đành rằng 70 tuổi không phải là cao lắm đối với người Việt Nam, nhưng 25 năm mất nước dài bằng...từ ngày lập quốc tới nay. Nếu ai còn sống sót ắt phải trở thành á thánh. Viên cảnh sát phá lên cười làm mọi người cũng cười theo. Viên cảnh sát nói: Tất cả chúng ta đều là thánh chớ không phải là Á Thánh. Bây giờ đám giặc nước đã chạy cả rồi, những ông thánh chúng ta đã trở lại xứ sở qua một cơn ác mộng dài. Ông trông kìa, trên trời đâu còn ráng dỏ. Hì hì...thôi, còn bao nhiêu rượu hãy uống nốt đi, ăn mừng ngày tái ngộ. Rôi lên xe, tôi đưa cho ông về nhà. Viên cảnh sát trỏ chiếc bầu đeo bên hông người "Mán". Ông này nâng lên mời đáp lễ. Viên cảnh sát tu xong thì ngó sang đám đông bên vườn hoa, chép miệng kêu: Cái gì nữa kia vậy bà con? Mọi người ngó về phía vườn hoa nơi lớp lớp sóng người đang đổ dồn về. Chỉ trong nháy mắt đã đen nghẹt cả khu bùng binh. Viên cảnh sát không phải ra lệnh cho mọi người giải tán, nhưng vòng người vây quanh ông "Mán" tự nhiên rã ra và rùn rùn chuyển sang đó! Một chiếc xe truck chậm chậm chạy tới và đỗ bên lề vườn hoa gần đầu cầu vồng bắc qua đường. Trên thùng xe sừng sững một quả núi con phủ vải vàng sọc đỏ. Có người đoán bên trong là một bức tượng vì hình thể lộ ra bên ngoài. Viên cảnh sát vội vàng bước lên xe và mở máy chạy sang. Thì đúng thật. Hôm nay cử hành lễ dựng tượng CHIẾN SĨ CỘNG HOÀ. Trời chiều bảng lảng. Ánh thái dương vẫn còn rực rỡ trên chót nóc chợ lấp lánh trên mặt đồng hồ. Người đến vườn hoa càng lúc càng đông. Bức tượng cũ đã bị lật nang nằm chổng chơ ngoài đường. Lão già cầm quyển kinh, gãy một tay và lọi cổ. Chiếc đầu lâu nối liền với thân mình bằng những cọng sắt, văng ra xa lắc. Mấy đứa con nít nghịch ngợm buộc dây lôi trên đường nghe lọc cọc như một quả bóng xi măng. Chúng kéo băng qua đường đến bên lão già người "Mán" đang còn đừng ngơ ngẩn ngó qua phía đông người. Một cậu bé trỏ chiếc đầu lâu và hỏi: Ông biết cái thủ cấp của ai đây không ông "Mán"? Ðầu của ai mà bằng xi măng cốt sắt vậy, trông lạ quá, tôi không biết đâu! Nghe ông "Mán" nói, một cậu bé giải thích: Không biết lão ấy làm gì mà cứ ngồi lỳ ở đó, tay cầm cuốn sách. Sách gì? Ðầu óc, mắt mũi của lão đều bằng xi măng, cuốn sách cũng bằng xi măng mà đọc cái gì? Nói xong chúng lại lôi cái thủ cấp lăn lông lốc trên đường. Người "Mán" đứng nhìn theo. Ông ta biết chớ nào không, lão già và cuốn sách ấy! Chính lão ta đã phá gia đình ông tan nát. Bố ông đi cải tạo, mẹ ông đi kinh tế mới, hai chị ông đi tìm tự do chết trên biển, còn ông thì ra thấn thể như ngày nay....Thằng Nam đã đến nhiều trại cải tạo bằng cặp chân của mình. Nó lê lết khắp các vùng thượng du trung du Bắc kỳ, đã đi lao động khổ sai lẫn với tù và đi lạc vào một khu rừng núi không tìm đường ra được. Nó phải ở trong hang núi và sống bằng trái cây, đôi khi bằng thịt rừng. Bỗng một hôm...nó nằm chiêm bao thấy hai chị nó mình mẩy ướt dầm, báo cho nó biết rằng mình đã bị đắm thuyền chết trên biển. Nó kể chuyện bị lạc cho chị nghe. Sáng hôm sau có đôi chim xanh đến đậu ở miệng hang, nó đuổi mãi không đi. Nó nghĩ rằng đây là linh hồn hai chị đến mách đường cho nó. Thật vậy, nó đi theo đôi chim và đã ra khỏi rừng. Nó được nhìn thấy đường cái, người đi đường, trâu bò, nhà cửa và xe cộ. Có điều làm nó ngạc nhiên là một đám học trò trông thấy nó bèn đứng nép qua lề đường ngã mũ chào. Một đứa nói: Cụ ạ! Cụ có cần gì chúng cháu giúp cho! Ở đây là đâu? - Nó hỏi lại. Dạ ở đây là đất khởi nghĩa của vua Lê Thái Tổ. Tức là thuộc tỉnh Thanh Hoá? Vâng ạ! Ðây là miền Tây Thanh Hoá giáp ranh với Lào. Một đứa nghe Nam nói giọng miền Nam bèn gặn hỏi thêm: Cự ở đâu trông lạ thế? Tôi ở thành phố Bác! (may sao Nam còn nhớ vai trò "kịch sĩ" của mình) Thành phố bác nào ạ? Thành phố Bác ấy mà, các em không phải là cháu yêu của Bác Hồ hay sao? Bác nào cơ? - Cả bọn ngạc nhiên vây quanh ông lão "từ cung trăng mới rớt xuống". Một đứa nói: Cháu học địa lý không thấy thành phố nào hiện nay gọi là thành phố Bác cả! Chúng cháu không biết bác Hồ nào hết! - Một đứa khác tiếp theo. Nghĩa là thế nào? Các em không nghe nói thành phố Hồ Chí Minh sao? Chúng cháu nghe trước đây cơ! Nhưng năm nay không còn gọi thế nữa. Bỗng một bác nông dân đi qua. Một đứa bé thuật đầu đuôi câu chuyện. Nghe xong bác nông dân noí: Ðó là chuyện năm qua. Bây giờ không còn thành phố Hồ Chí Minh mà chỉ còn thành phố Sài Gòn, không còn lăng Bác, mà chỉ còn Chùa Một Cột giữa Ba Ðình thôi cụ ạ! Trong lúc đám học trò tản dần thì bác nông dân lại bắt chuyện. Thấy bộ râu dài quá cỡ của người khách lạ thì hỏi phăng tới: Xin lỗi, cụ ở đâu mà không biết nước ta đã thoát ách nô lệ của cộng sản? Dạ, tôi ở trong Nam. Xin đừng gọi tôi thế! Tội chết! Tôi đâu đáng gọi "cụ"! Bác ở trong Nam? Ở trong Nam sao bác không biết cả nước ta đã giải phóng? Tôi ở trong rừng năm năm, mười năm, hai mươi năm hay lâu hơn nữa đó mà! Dù thế nào, bác cũng phải biết nước ta giải phóng chứ! Cả thế giới đều biết thì sao bác lại không? Tôi ở trong rừng, không biết gì hết, không biết cả đường ra! Hai mươi năm? - Bác nông dân kêu lên, kinh ngạc cực độ - bác lạc trong rừng những hai mươi năm? Hay hơn thế nữa. Bác trông tôi đây, khi tôi khởi sự đi tìm bố tôi thì tôi chỉ lớn hơn mấy em học sinh kia một chút, mà bây giờ...- Nam lặng lẽ nâng bộ râu dài phóa trước. ...bác đã bạc hết tóc! Bây giờ bác định đi đâu, để tôi chỉ đường cho! Tôi tiếp tục đi tìm bố tôi trong các trại cải tạo. Các trại ôn dịch đó đâu còn nữa! Chắc bố bác bây giờ đang ở nhà và lại đi tìm bác! Thế thì để tôi đi nhanh về nhà gặp bố tôi, kẻo ổng lại đi tìm tôi như trò chơi rồng rắn ấy! Bác nông dân trỏ tay: Ðây là quốc lộ số 1, cứ đi thẳng miết là tới Sài Gòn! Rồi hai người chia tay. Bác nông dân đi vào xóm. Còn Nam thì bâng khuâng đứng giữa hoàng hôn bảng lảng ánh trời chiều, đưa mắt ngó đông ngó tây, ngó nam, ngó bắc, ngó khắp trời đất. Chợt thấy một trũng nước giữa đường Nam bước tránh qua. Nhưng Nam bỗng dừng lại vì trông thấy bóng mình dưới đó, in trên nền mây đở bầm, có vẻ kỳ quái. Nam đứng khom xuống nhìn trân trối, tưởng ai không phải mình. Một mái tóc bạc phơ, một cái cổ dài ngoẵng như cổ con vịt đói. Nam vui vui tự nhủ: Những ngày Từ Thức lạc Thiên Thai qua nhanh thế ư? Một cái chớp mắt trên đó bằng mấy chục năm ở trần gian. Nam đã bị cuốn vào một "giấc mơ dài". Lúc ra đi tóc hãy còn xanh, khi trở về râu dài chấm đát, nếu nối lại sẽ dài bằng hành trình của trái đất vận chuyển quanh mặt trời mấy chục lần. Chả trách gì ai cũng gọi ta bằng "cụ"."Từ thanh xuân chí ư bạch phát"! Tóc ta đã bạc thì cũng chính là lúc phụ tử trùng phùng. Ồ Sài Gòn đã sạch bóng quân thù. Những vệt đỏ loét không còn làm bẩn màu trời xanh nữa. Tiếng hát quốc ca bên vườn hoa vang động làm đứt ngang dòng hồi ức của "lão già Mán" nay đã ra khỏi đêm núi rừng. "...Làm sao cho núi sông...Từ nay luôn vững bền...Dù cho thây phơi trên gươm dáo..." Bất giác Nam băng qua đường sang vườn hoa. Những vệt nắng rực rỡ trên mặt đất như dát vàng. Nam chen qua đám đông và tự xếp vào cuối hàng của đơn vị võ trang danh dự. Lễ chào cờ xong, một vị đứng trên bục đọc diễn văn khai mạc buổi lễ. "Ðể tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ đã bỏ mình vì nước trong cuộc xâm lăng của cộng sản Bắc Việt năm 1975 và chiến thắng của chúng ta, hôm nay chúng tôi, Ủy ban đô thành quyết định dựng bức tượng BẤT KHUẤT giữa vườn hoa chợ Bến Thành lịch sử đau thương và oanh liệt. Kể từ nay, thành phố thân yêu này đã trút bỏ cái tên ma quái của một xác chết để khoác lại cái áo ngày xưa "HÒN NGỌC VIỄN ÐÔNG" từng được cả loài người yêu mến..." Vị diễn giả vừa dứt lời, tấm vải trùm trên bức tượng được những cánh tay xinh xắn từ từ giở ra, để lộ một chiến sĩ QLVNCH bằng đồng đen cao vòi vọi. Rừng người bỗng rợp hoa vàng. Những đoá hoa vun vút nở rộ gây nên một luồng gió rung chuyển cả không gian. Tiếp theo, pháo nổ và loạt súng chào mừng, tôn vinh. Tiếng súng vang dội nghe nát lòng không gian như lời tạ tội của đám hậu sinh đối với tiền nhân và Tổ quốc. "Việt Nam Cộng Hoà muôn năm! -Muôn năm." Nam cũng vung tay hô theo đến khan cả cổ. Khi diễn giả dứt lời thì một tốp thiếu nữ mặc đồng phục trắng như tuyết bước lên đặt những bó hoa hồng chung quanh chân người chiến sĩ. Một trận mưa hoa rơi bất tận. Ngưòi chiến sĩ cộng hoà tay bồng súng, tia mắt như gươm chọc thủng trời chiều. Vầng trán đượm nắng vàng với những nếp nhăn rực rỡ, người chiến sĩ đứng im như hoài niệm một thời xưa oanh liệt, như tưởng nhớ tới những đồng đội đã vừa nằm yên trong lòng quê hương yêu dấu, như tận hưởng hương sắc của trận mưa hoa. Khách dự lễ dần tan nhưng người từ bốn phía vẫn đổ tới, trong niềm vui của ngày hội lớn. Mọi người đều trầm trồ khen bức tượng không biết ai đã khéo tạc mà "giống" đến thế! Người thì bảo đó là lính Thủy quân lục chiến, kẻ cho rằng đó là Biệt động quân, người lại quả quyết rằng Lính sư đoàn 9. Trong lúc một ông già, có lẽ là dân đồng bằng sông Cửu Long lại đoan chắc là chiến sĩ sư đoàn 7. Một cụ khác không tranh cãi, chỉ nói bằng giọng tự hào: Con cháu tôi đều là lính của các đơn vị đó. Thôi thì lính đơn vị nào cũng được, miễn không phải cái thứ lính đội nón cối là được rồi. Trời tối, khác dự lễ thưa dần. Nhưng người đến lại càng lúc càng đông. Những liếp hoa trồng bị những bó hoa của khách mang đến lấn dần và chiếm hẳn ưu thế để cuối cùng trở thành một vườn hoa tân tạo. Nam chú ý từng gương mặt. May ra trong số phụ lão có ba mình. Năm nay ba đã ngoài 60. Nam không dám nghĩ tới cái chết của ba. Một ngày còn sống, một ngày còn hi vọng. Nam đi tìm chỗ nghỉ lưng. Nam rút nút bầu rượu kê vào miệng ngửa cổ ực mấy ngụm. Nam loáng thoáng nhớ lại những ngày lặn lội trong rừng, nhớ những gương mặt tù trong những trại mà Nam đã tìm đến, lòng nghe như rũ sạch bụi đường. ...Chung quanh Nam không còn ai. Người chiến sĩ vẫn ôm súng đứng canh dưới ánh đèn, gương mặt tràn đầy hạnh phúc giữa tấm thảm hoa rực rỡ. Nam chỗi dậy định về nhà nhưng sực nhớ từ ngày đó nhà Nam người ta đã chiếm. Mẹ năm nay đã già lắm không biết sống với ai. Bất giác Nam gục đầu kêu lên the thé:"Ba! Ba ơi!" - rồi lầm lủi bước đi. Miệng vẫn còn lầm thầm: Ba ơi! Giờ này ba ở đâu? Ba có biết con đang đi tìm ba? Rồi Nam bước đi, lòng đau như cắt, nghiêng ngả, vật vờ cơ hồ không lê nổi đôi chân. Hai mươi lăm năm Nam đã đi khắp cùng trời cuối đất, vẫn không tìm được nét mặt thân yêu nghiêm nghị ấy. Nhưng bỗng phía sau lưng một làn gió thoảng có tiếng như gọi: Ba đây con! Nam quay lại nhưng chỉ thấy người chiến sĩ đứng trên bục hoa. Nam ngỡ mình nghe nhầm. Có lẽ một người khách nào gọi đứa con đi lạc. Nam lại tiếp tục bước. Nhưng lại nghe rõ hơn. Tiếng gọ giật lại: Ba đây con! Ba của con đây! - Giọng nói nghe quen thân quá, nhưng dường như cũng xa lạ quá, như có như không, như hư như thực. Giọng kia lập lại lần này to hơn. Nam quay phắc lại nhưng vẫn thấy bóng người chiến sĩ ngả dài trên những cụm hoa im lặng. Nam đang ngơ ngác ngó quanh tìm kiếm. Thì giọng kia lại cất lên nồng nàn, như có đượm tí nước mắt: Nam, ba đây con! Nam chạy tràn tới. Người chiến sĩ nâng súng lên, run lắc làm sắt thép khua vang đêm trường. Ðây, súng của ba, con hãy cầm lấy! Bất giác Nam ôm lấy khẩu súng. Thép súng chạm vào ngực Nam lạnh ngắt. Nam ngước lên nhìn. Vầng trán người chiến sĩ gợn lên những nếp nhăn như lá cờ vàng lượn bay trước gió nhẹ. Nam ngó trân trân. Ðây rồi, những nét quen thân nghiêm nghị ấy. Ba, ba đây à? - Nam nhìn hai giọt nước mắt chảy ròng ròng lấp lánh trên đôi má gồ ghề nhăn nheo. Hãy nhìn tận mặt ba đi con! Ba là trung sĩ, hạ sĩ, ba là những chiến sĩ hi sinh trên khắp núi rừng và đồng bằng miền Nam thân yêu. Tên ba là Lê Văn Hưng, Hồ Ngọc Cẩn, Lê Văn Phú...Ba đặt tên con là Nam vì thế! Nam! Con có nghe rõ không? Dạ, con...nghe rõ! - Nam lắp bắp và ngả vào lồng ngực rộng lớn và ấm hổi của người chiến sĩ.- Ba...còn sống ư? Hay con chiêm bao? Không! Con không chiêm bao. Ba còn sống. Ba không bao giờ chết. Không gì giết nổi ba. Nam! Hãy bảo vệ đất nước ba vừa lấy lại cho con và đừng bao giờ làm tên phản bội. Bất giác Nam gục đầu vào vùng ngực mênh mông của người chiến sĩ rồi từ từ quì sụp xuống ôm chân Người nghe hơi ấm truyền sang khắp châu thân. 29-04-1999Xuân Vũ HẾT