Cuối tháng 12 năm kia, tôi có một vị khách từ Mỹ sang chơi. Đang ngồi uống nước, chợt vị khách trợn mắt nhớn nhác: "Ối, có chuyện gì thế?". Tôi ngẩn mặt, hỏi lại: "Sao? Có chuyện gì ạ?". Khách tay run run chỉ ra cửa sổ: "Có tiếng nổ!". Hóa ra là tiếng pháo cuối năm! Theo quy định của Đức thì chỉ từ tối giao thừa, người ta mới được phép đốt pháo, kể cả pháo hoa, nhưng thực tế thì ngay từ trước lễ Giáng sinh, nhiều người- chủ yếu là thanh thiếu niên, đã đì đùng lẻ tẻ, và đâu đây, thỉnh thoảng trên bầu trời lại lấp lánh một nụ pháo hoa. Tội nghiệp cho vị khách Mỹ - ông vẫn chưa hoàn hồn sau vụ 11 tháng 9. Mà thực ra, tiếng pháo Tết đâu phải chỉ có ở những chốn thanh bình.
Tôi nhớ, hồi còn ở Hà nội, kể cả thời còn bom đạn chiến tranh, tiếng pháo vui vẫn rộn ràng hàng chục ngày dịp Tết. Một hai tuần trước giao thừa, cậu em tôi đã phóng xe vào nhà người quen trong làng Bình Đà mua về ba băng pháo dài thòng: một cho lúc giao thừa, hai còn lại cho sáng mồng một và sáng mồng hai. Sau khi bọc kín pháo trong túi nylon cất vào một nơi khô ráo, bao giờ cũng có vài chục quả pháo tép rời, anh em chia nhau đút trong túi quần, chờ dịp là mang ra đì đẹt. Đôi khi, sự đì đẹt bất ngờ ấy cũng làm thót tim mấy bà, mấy cô, vì ở Hà nội, "chiến trường" nổ pháo duy nhất của tụi trẻ chúng tôi chỉ là đường phố. Khi đó, kèm theo sau tiếng pháo là tiếng: " Ranh con!" của mấy bà già, và tiếng: " Ối giời!" của mấy cô thanh nữ. Tuy vậy, câu rủa "Ranh con" chẳng có nhiều giận dữ, mà kèm theo tiếng "Ối giời" là những chuỗi cười lảnh lót và những đôi má chợt mang sắc hoa đào. Ai cũng biết rằng, bây giờ là Tết, và Mùa Xuân đang tới. Cứ như thế, cả đất trời, cả thành phố cứ râm ran. Tiếng pháo trước Tết điểm như nhịp đồng hồ. Càng gần ngày 30, càng gần lúc giao thừa, tiếng pháo càng to, nhịp pháo càng gấp gáp.
Khoảng 28, 29 tháng Chạp, tôi được trao nhiệm vụ mua hoa. Nhà nhỏ, người không đông, nên lượng hoa năm nào cũng vậy: một cành đào càng nhiều nụ càng tốt để trồng vào chậu sứ góc nhà, và một bó hoa màu thật tươi để cắm lọ trên bàn phòng khách.
Hà nội mấy ngày giáp Tết dân bán hoa tứ xứ đổ đầy về mấy phố cổ: Chả Cá, Hàng Mã, Lãn Ông,... Người mua, người bán và kẻ ngắm hoa đứng đi đông nghẹt phố, nên ngay cả xe đạp cũng phải gửi từ mấy phố ngoài. Bao giờ tôi cũng đến khu phố chợ hoa này để kiếm một cành đào, và bao giờ cũng tan mình vào nơi không gian hầu như chẳng còn gì là "phàm tục" đó. Tuy vốn chữ chẳng có là bao, nhưng tôi cứ nghĩ rằng: phải chăng, vì có nơi đây nên người ta mới coi Hà nội là chốn "Phồn hoa, Đô hội"? Bao quanh ta là mọi sắc hương, có chỗ rực rỡ cúc, đào, có chỗ e ấp, kiêu sang layơn, violet,... Nhưng trùm lên tất cả là tiếng chào mời, tiếng bình hoa, và những nụ cười. Mọi âm thanh thô lỗ, tục tằn, thậm chí đanh ác, đã biến đi đâu hết cả. Nhìn những cô gái dáng vẻ như thôn nữ, tay cầm vài nhánh hoa hay một hai cành hoa đào, mắt chớp chớp, đứng lặng thầm mời gọi, tôi có cảm giác như người ta đến đây không phải để bán hay mua, mà là để trao nhận cho nhau những " báu vật của đời".
Còn Ngọc Hà- một làng trồng hoa ngay trong thành phố, là nơi tôi tìm mua hoa về cắm lọ. Trong làng, mấy đứa chúng tôi lững thững dạo bước trên những con đường gạch nhỏ quanh co, vài bước lại đứng ngẩn ngơ, đắm đuối trước một vườn hoa bao quanh một căn nhà nhỏ. Kia là một vùng thược dược tươi rực rỡ. Bọn tôi vào vườn, nhẩn nha bên từng luống hoa, ngắm nhìn mê mải, mà nhiều khi chỉ chọn lấy một vài bông. Gõ cửa căn nhà nhỏ, cô con gái ông chủ vườn hoa, bím tóc đuôi gà, tay cầm quyển sách, mở rộng cánh cửa con: "Các anh có chọn được bông nào không?". Cậu bạn tôi tủm tỉm: "Có chứ, đẹp lắm, nhưng còn kém xa bông hoa biết nói em vừa cất trong nhà". Một nụ cười cùng hai tia sáng long lanh được dấu vội đi về hướng khác. Cứ như thế, vườn này một bông thược dược, vườn bên cạnh hai ba bông cúc, vườn bên kia vài nhánh violet, với tôi, mua cho đủ một bình hoa Ngọc Hà, bao giờ cũng mất ít nhất nửa ngày. Lòng nhẹ tênh, những bông hoa lấp lánh bụi mưa xuân rung nhẹ trên tay, chợt nghe từ một đám con gái gần bên: "Mua hoa ở vườn nào mà đẹp thế?". "Thật không? Nếu thích thì bọn này dẫn đường cho". " Hay là đổi hoa nào". "Đổi hoa lấy người được không?". "Sao lại phải đổi, nếu đồng ý, bọn này tặng nhé?". Và những tiếng cười rúc rích. Ngọc Hà mấy ngày đó trở thành "đất thánh" để " trai thanh, gái lịch" dập dìu. "Đất thánh", hay đích thực là cảnh "Bồng lai"?
Tối 30, em trai tôi mang pháo ra kiểm tra. Có những năm trời quá nồm, pháo có vẻ bị ẩm, em tôi phải mang pháo vào bếp hong khô- một công việc bao giờ cũng ít nhiều đe dọa. Hong xong, pháo được gói vào giấy báo, nằm chờ. Sau bữa cỗ tất niên, cả nhà tôi ngồi quây quần nghe nhạc xuân, chơi tam cúc ăn tiền, đón chờ năm mới. Trời Hà nội thoảng mùi hương ngan ngát, và tiếng pháo vẫn lác đác cầm canh. Mười lăm phút trước giao thừa, em trai tôi mang một chiếc sào ngắn, ở đầu đã được buộc một băng pháo cỡ chừng hai mét, treo ra trước cửa. Mấy đứa em gái tôi miệng cười hớn hở mà sắc mặt đã có phần nhớn nhác, chuẩn bị lấy tay bịt tai.
Đúng lúc giao thừa, cùng với lúc anh em tôi châm lửa vào ngòi pháo, cả Hà nội như giật mình, như rung chuyển, như chao đảo trong một vũ điệu chiến trận thần tiên. Không gian đầy ắp tiếng pháo mà không hề hỗn loạn. Người ta vẫn có thể cảm nhận được tiếng nổ đanh, dài, giòn giã của những tràng pháo tép, được điểm xuyết, được giữ nhịp bằng những tiếng ỳ ùng đĩnh đạc của pháo cối, pháo đùng. Trong đất trời mù khói pháo, mùi thơm thuốc pháo đặc sệt đến mức khó thở, tôi thấy mình như đang nghe một bản giao hưởng hùng tráng mang tải đầy niềm vui. Có lẽ, hoảng hồn nhất về tiếng pháo Tết là mấy con chó nhà bên. Giật mình vì cơn trời đất chuyển lay, bọn chó này nháo nhác chạy quanh và ầm ỹ sủa. Dĩ nhiên, ít ai thèm để ý đến tiếng chó lúc giao thừa. Ngược lại, dù không mấy tin vào truyền thuyết Trung hoa, tôi vẫn cứ cho rằng, sau cơn long trời lở đất đó, những gì hắc ám, tai ương đã bị xé nát, bị đuổi xua, và cùng với làn khói pháo, đang biến dần vào nơi cùng trời cuối đất. Mà đúng thế, sáng mồng một, từ trong nhà ra đường phố, ở đâu tôi cũng chỉ thấy những gương mặt rạng rỡ, tươi cười. Mọi vất vả, đố kỵ, đăm chiêu như đã được gửi lại hết lúc giao thừa; người nhìn người như chỉ thấy người thân; và lòng người tràn đầy những hy vọng tốt đẹp. Mùa Xuân đã về!
Trong Thương Nhớ Mười Hai, Vũ Bằng viết:" Sách Thích Danh giải nghĩa Xuân tức là xuẩn, nghĩa là cựa động", và nói theo ý Từ Nguyên: Xuân có nghĩa là "trai gái vừa lòng nhau", xuân là cựa động, băng giá tan hết, muôn vật đến mùa xuân đều cựa động mà sống lại. Phải chăng, tiếng pháo Tết chính là âm, là hình của sự "cựa động" đó?
Ngày nay ở Việt nam, pháo Tết đã bị cấm. Nhiều người già mừng lắm: "Bỏ pháo là đúng, con ạ! Ngày Tết bây giờ thật là yên ả; chúng ta không còn phải thỉnh thoảng giật thót tim nữa. Mà lại tránh được tai nạn, hỏa hoạn. Ngày trước, có pháo Tết là có cháy nhà, có cụt chân cụt tay bởi nhiều người vô ý và mấy đứa ranh con mất dạy". Đêm giao thừa, pháo Tết lặng câm, "trai thanh gái lịch" Hà nội hoặc hớn hở nhìn ngắm 15 phút pháo hoa nhà nước, hoặc nhộn nhịp ầm ỹ trong những vũ trường đầy ắp tiếng nhạc Disco Mỹ,Tàu, để lại sự yên bình cho những cụ già. Âm thanh luân chuyển đất trời, đánh thức sự "bừng tỉnh", sự "động cựa" không còn. Ở lại là sự tịnh tiến bốn mùa, muôn thuở và rất an toàn. Mấy con chó giữ nhà bên cạnh chắc cũng không còn phải giật mình, hoảng loạn nhặng xì ngậu như xưa.
Người Việt ăn Tết ở Berlin
Ít nhất, ở Đức mà nói người Việt có Tết Ta, thì khá là oan uổng. Thực ra, gần ngày Tết Nguyên đán, tại các siêu thị Châu Á, người Việt mua bán tập nập hẳn lên. Các sạp hàng đều bày ngồn ngộn bánh chưng lạt đỏ, hoa đào nhựa, giò chả, mứt màu,...Và cả lá dong nữa- nhiều nhà vẫn cố giữ lại không khí Tết bằng cách tự gói, tự luộc bánh chưng. Tuy chẳng kiếm đâu ra cà cuống, nhưng nếu ai có chút ít "tay nghề" thì bánh tự làm bao giờ cũng hơn hẳn bánh bày bán sẵn, nhiều khi được "chế tạo" bởi những người khi trong nước mới chỉ biết qua vị bánh chưng.
Tính theo lịch ta, một số gia đình có điều kiện thời gian cũng gắng làm một bữa cỗ tất niên. Đa số những người kinh doanh đều đóng cửa hàng sớm vào chiều 30. Và người ta cũng mời mọc, tụ họp và thăm hỏi bạn bè. Trừ 2003 năm nay, còn nói chung, ngày Tết Ta bao giờ cũng là ngày thường theo lịch Tây, nên với cả người đi làm hãng xưởng và người tự lập, ngày mồng một Tết đã là lúc đi làm, lúc đi buôn bán - một ngày như mọi ngày. Ai đó còn tơ tưởng đến Tết trong đầu, thì cũng khó mà cưỡng lại được dòng sống vô tình và cuồn cuộn xứ người. Cũng có nhiều Hội, Đoàn người Việt hoặc tự làm, hoặc kết hợp với các cơ quan Đức tổ chức cho bà con đón Tết, chỗ thì ở hội trường nhỏ, chỗ thì ở hội trường to - thường là vào một cuối tuần nào đó trước hoặc sau Tết vài ngày. Người mình đến đó cũng "tay bắt, mặt mừng", ăn với nhau một miếng bánh chưng, vài cái nem rán nguội xung quanh một cành đào giả khá to. Trẻ con nhiều khi còn được nhận chút tiền mừng tuổi đựng trong phong giấy nhỏ có in một chữ gì đó tiếng Tàu. Sau đó, người ta có thể nhảy Disco hay mê mải nghe và hát Karaoke. Tôi không biết, ở Việt nam có nơi nào ăn Tết như thế hay không? Cũng là cố gắng, cũng là tâm niệm hướng về cội nguồn, mà thiếu đi cái mệt mỏi đầy hưng phấn đêm giao thừa, thiếu đi xác pháo hồng bồng bềnh lối bước, chẳng thấy đâu một chút bụi mưa xuân, mà gọi là ăn Tết Ta, liệu có là khiên cưỡng?
Để bù lại, người Việt ở Berlin có Lễ Giáng sinh và đêm giao thừa dương lịch. Tuy rất ít người theo đạo Công giáo, nhưng ở đất này, đến mùa Giáng sinh, hầu như nhà người Việt nào cũng có một cây thông Noel tuyệt đẹp, được trang hoàng lộng lẫy. Trẻ con Việt nam nào đến ngày mồng 6 tháng 12 cũng lau giày thật kỹ, và sáng hôm sau cũng chăm chăm dậy sớm để rồi hồi hộp hé xem món quà tặng bí mật của Nikolau. Đêm Giáng sinh hầu hết mọi thành viên trong gia đình đều có quà tặng cho nhau. Trùng với dịp các trường học đều đóng cửa nghỉ hai tuần, trong không gian nhộn nhịp hoa đăng, cùng với nhạc thánh ca huyền ảo mọi nơi, người Việt, nếu có không muốn, cũng bị hòa mình náo nức vào không khí Noel.
Nhưng, cao điểm nhất đối với bà con ta phải là đêm 31 tháng 12. Cách đây vài năm, hầu như nhà Việt nam nào cũng chuẩn bị cho đêm giao thừa dương lịch vài chục Đê Mác pháo thăng thiên và một ít pháo nổ. Vài năm gần đây, khi pháo băng Trung quốc tràn vào thị trường nước Đức, thì người mình như hổ được thả về rừng. Chi ra vài chục, thậm chí hàng trăm Euro, ngoài pháo hoa như thường lệ, bà con ta băng lớn băng bé pháo Tàu dành sẵn cho đêm giao thừa, thậm chí cho cả sáng ngày mồng một, gần như năm nào thời cũ, tại cố hương. Đêm giao thừa, nhiều nhà rủ nhau đi thành "hội", đổ về Cổng thành Brandenburg, Quảng trường Alexander, sân Gedchtsniskirche - mà người Việt hay gọi là Nhà thờ cụt đầu,.. là những nơi tụ tập hàng ngàn, hàng vạn người mê say trò đốt pháo.Vài gia đình vì có trẻ nhỏ, không đi đốt pháo chung, thì ở nhà, lặng lẽ treo lên cành cây trước cửa một băng pháo dài hàng mét- cũng là pháo tép, pháo nhỡ được xen kẽ bởi những anh chị pháo cối, pháo đùng.
Đúng giây khắc giao thừa- tòan Berlin rung chuyển, còn hơn cả Hà nội năm nào. Cả một vùng trời hàng chục cây số giòn giã, ì ùng tiếng pháo. Cả một chân trời lút tầm nhìn, ngập chìm khói pháo mà vẫn sáng lòa mọi sắc pháo hoa. Và mùi thuốc pháo vẫn lại đậm đặc như năm cũ quê nhà. Có lần, trên sân Nhà thờ cụt đầu, sau tiếng pháo cối đinh tai kết thúc băng pháo đầu tiên, lúc chúng tôi - như mọi người xung quanh, chia nhau chai Champagner mừng năm mới, một cậu bạn tôi mới từ trong nước sang công tác, chợt đăm chiêu: " Không ngờ mình lại được hưởng âm thanh và mùi pháo Tết. Cái không khí vui hết cỡ, vui đến phát cuồng này, ở trong nước, họ cấm mất rồi!". Thật trớ trêu, khi mà lúc giao thừa bên Tây, chúng tôi mới được nếm lại mùi vị giao thừa Ta - của một thuở đã qua!
Mấy ngày hôm sau, các hãng truyền thông Đức liên tiếp đưa ra những con số thiệt hại về người và của do việc đốt pháo trong dịp Tết. Cả nước Đức đã đốt, đã làm thăng thiên cỡ khoảng 300 triệu Euro. Ở Berlin đã xảy ra nhiều vụ cháy, hàng chục người bị thương, có người hỏng mắt, có người bị mất cả bàn tay. Vài ba vị dân biểu, và nhất là các hãng bảo hiểm, đã lên tiếng đòi cấm pháo. Rồi rốt cục, đó cũng chỉ là những tiếng nói lẻ tẻ, yếu ớt. Khi được hỏi về vấn đề pháo Tết, Bộ trưởng nội vụ tiểu bang Berlin tuyên bố:" Đốt pháo Tết là một sinh hoạt văn hóa có truyền thống lâu đời. Không thể có một đạo luật cấm pháo triệt để, mà chỉ nên đưa ra những biện pháp nhằm hạn chế tối đa thiệt hại có thể xảy ra, như quy định địa điểm đốt pháo, phạt vạ nặng những người đốt pháo gây ra tai nạn,...". Tuy là một dân tộc sính luật lệ, ưa an toàn, người Đức vẫn ý thức được rằng: dùng luật, dùng bạo lực để triệt tiêu đi, dù chỉ là một nét văn hóa, là một điều thô lậu. Có lẽ, họ cũng cho rằng: Để đỡ làm cho trẻ thơ thức giấc, để không làm cho các cụ bô lão giật mình, và để tránh cho lũ chó đêm bị bất an, mà vội vàng làm tắt đi một niềm vui nhiệt huyết thanh niên, là một hành vi chôn sống nhựa xuân. Để nhân quần thăng hoa, không thể chỉ thấy rủi ro mà đã tránh xa và để mất đi muôn vàn vận hội. Nơi đây, người ta sẵn sàng tiếp cận, đối mặt với hiểm nguy, thử thách, để rồi chế ngự, chinh phục nó mà thăng tiến. Phải chăng, đó cũng là ý nghĩa của ngày Tết, của Mùa Xuân: Sau mịt mùng đêm giao thừa, sau tiếng pháo chấn động, đánh thức cơn "động cựa", cả con người, cả đất trời sẽ có thể rũ bụi đứng lên!
Chuyện Tháp Rùa
Từ xưa tới nay, ảnh chụp về Hà nội nhiều nhất có lẽ là cảnh những cành hoa phượng đỏ chở che một Tháp Rùa nhỏ bé, đơn côi giữa sắc nước xanh của Hồ Gươm trung tâm thành phố. Vậy mà cuối năm 2002, báo Tiền Phong tại Hà nội lại có bài " Có nên đập bỏ Tháp Rùa?". Dưới đây, tôi xin trích dẫn một số đoạn trong bài đó. Do không trực tiếp có số báo này, nên tôi không đưa lại được tên tác giả, xin người viết và bạn đọc lượng thứ!
Mở đầu, tác giả viết:"Tháp Rùa ấy à? Nếu nói nghiêm túc thì nên đập béng nó đi". Một anh bạn họa sỹ trẻ và cũng là tay chơi đồ cổ bảo tôi thế. Cái ý nghĩ đập tháp rùa, kể đã có mấy chục năm, truyền mấy thế hệ. Lạ thật". Về nguồn gốc Tháp Rùa, có người tra tài liệu nói: "Nguyên ông Bá Kim chánh tổng Đông Thọ, huyện Thọ Xương, Hà nội, theo Thiên Chúa nên thuê người xây tháp kiểu nhà thờ, định đưa di hài bố ông ta ra chôn, vì cho rằng chỗ ấy vương phát. Việc bại lộ, không thành", và cho biết: "Theo cuốn Từ điển Địa danh Lịch sử Văn hóa Việt nam (Nhà Xuất bản Văn hóa Thông tin 1989) trang 1107, tháp Rùa không có giá trị gì về mặt kiến trúc và lịch sử".
Tiếp đến là đoạn tác giả nói chuyện với một nhà văn: "Tôi xin ý kiến của một người viết nhiều về Hà nội, nhà văn Băng Sơn. Ông nói: "Tháp Rùa ấy à?! Phá đi cũng không được, xây thêm cũng không xong đâu. Quen mắt rồi. Nhạc với thơ nhiều rồi. Thử tưởng tượng bây giờ Hồ Gươm không có Tháp Rùa thì thiên hạ sẽ thế nào? Nhưng mà, nói thật nhé, nhìn kỹ thì xấu lắm. Chả thế 40 năm trước nhà văn Chu Hà đã phát biểu nên đập nó đi". Nhà văn nói với tôi bằng tinh thần "nói thật nhá", tâm sự ấy mà, chứ đập với đánh gì nữa: "Đảo Ngọc ít nhất cũng nổi danh từ thời Trần, đến nhà Lê làm cung Thụy Khánh, bây giờ là đền Ngọc Sơn. Lịch sử như thế! Chứ chỗ Tháp Rùa ấy mà, ngày xưa chỉ là cái gò hoang. Cuối thế kỷ 19 Bá Kim mới dựng tháp lên chứ lâu la gì. Dựng lên để chôn bố, thế thôi. Lịch sử và ý nghĩa, có thấm tháp gì". Im lặng một lúc. Từ đầu dây bên kia truyền thêm một câu điện tín: "Nước mình nhiều cái cũng đau lòng ra phết".
Khi được ông Nguyễn Vinh Phúc - người được gọi là "nhà Hà nội học" cho biết Tháp Rùa là một "thử nghiệm thất bại" trong việc" kết hợp hai nền kiến trúc (Bản địa và Pháp) với nhau trong các công trình mới", tác giả nhận xét:"Văn hóa Đông - Tây rất cần được hợp lưu. Nhưng cuộc tao ngộ đã không diễn ra dưới hình thức một Festival. Những lắp ghép gượng gạo, đôi khi vô cùng kệch cỡm, tràn ngập khắp nơi, vẫn nhắc người ta rằng cuộc sống và tình yêu không thể sản sinh từ trấn áp, kèm theo những lời tự tán dương".
Còn khi ông Trần Quốc Vượng - giáo sư sử học nhận định: "Tháp Rùa giờ đã thành cái gì của con người mất rồi! Đi vào nhạc vào thơ mất rồi ông ạ!... Dù sao nó cũng đánh dấu một cái gì đó của lúc giao thời giữa văn hóa Việt nam và văn hóa Pháp. Tôi không đồng ý với việc đập tháp", thì tác giả cho rằng: "Thần thiêng nên bộ hạ cũng được thiêng theo. Cái u u minh minh, cái dở dở dang dang, nó cũng như sương sớm Hồ Gươm bàng bạc có lẽ còn che chở cho tháp Rùa nằm trong mùa thu, nằm trong sự tôn kính của người Việt nam" và chua chát vào lúc cuối: "Bây giờ, tháp Rùa đã trở thành cái gì đó trang nghiêm, bất khả xâm phạm ngay cả với người biết rõ chân tướng của nó".
Lời kết
Tôi không nghĩ rằng khi ghép "chuyện Tháp Rùa" vào bài viết này là đã cắm "râu ông nọ" vào "cằm bà kia". Tự cảm, khi xem tranh cũng như khi đọc văn, là quyền của mỗi con tim và khối óc. Cũng như cái tình riêng của tôi đối với Hà nội, không phải ai cũng xẻ chia. Ngày nay, làng Bình Đà không còn pháo nữa. Nhà nước đã quyết định cả làng phải chuyển sang làm nghề khác. Cả làng hoa Ngọc Hà ngày xưa ấy cũng không còn. Những "đầy tớ của dân" lắm tiền nhiều thế, những nhà giàu mới nổi đổ xô vào làng, bỏ ra vài ngàn đô la cho một mét vuông đất để xây lên những biệt thự tân kỳ. Người trồng hoa cũ bỗng chốc có hàng trăm ngàn, hàng triệu đô la, cũng bán vườn xây nhà hoặc bỏ đi sống nơi khác. "Đất thánh" năm nào của " trai thanh, gái lịch" đã trở thành thành trì của những phú ông. Giữa lòng Hồ Gươm, Tháp Rùa- cũng đã có lúc được một lớp vôi trắng che lên những lớp rêu phong, vẫn ủ rũ soi gương làn nước. Ở quê hương tôi, có những cái thiêng liêng, gắn bó, đã bị gạt bỏ; có những cái quái gở, đáng lẽ phải vĩnh viễn qua đi, vẫn đang ù lỳ ngự trị. Phải chăng, đó là vì tiếng pháo oai linh, phấn khích của những đêm giao thừa đang bị dập tắt phũ phàng?
 Berlin 1/1/ 2004

Xem Tiếp: ----