Đảo
Nhóc tì à, hơn một lần, anh chứng kiến em vừa sụt sùi trách móc, vừa nhem nhép nhai một cái gì đó, vừa lầm bầm về kết quả không như ý của một bài tính cho cái dự án em đang làm, vậy mà vài tiếng sau đó đã sáng tác đuợc một đoạn văn lâm li, bi đát, viết theo kiểu đánh du kích. Phục thật! Anh thì khác Nhóc tì ạ. Khi em sụt sùi, nhóp nhép, lầm bầm trách móc, anh khó lòng tập trung tư tưởng để viết bất cứ cái gì. Khi anh viết đuợc đoạn này là lúc cô nàng đang ngoan ngoãn đó. Anh xin bắt đầu đoạn hồi ký bằng những dòng về một hòn đảo nằm đâu đó trong vùng biển quê hương mình, tuy rằng nếu theo thứ tự thời gian, đảo này không phải là nơi đầu tiên đón anh trở về.
Villa Maria của anh Hải, một ngôi biệt thự hai tầng, với cái sân thuợng thay cho mái, trông nguy nga như một cái dinh, nổi bật lên giữa khu vuờn thênh thang rộng ba công đất. Ngôi biệt thự nằm trên triền dốc cao, huớng ra bãi biển ở duới xa kia, đúng như hai câu thơ cổ mà anh Hải gửi cho anh:
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.
Ngôi biệt thự có lối kiến trúc khác hẳn những nhà khác trong vùng bãi biển, mà chỉ mấy năm gần đây, mới đuợc mở mang. Anh Hải tự phác hoạ lấy, với sự trợ giúp của kiến trúc sư chuyên môn. Anh đã theo dõi công trình xây cất từ lúc khởi đầu, qua những email và hình ảnh anh Hải gửi cho anh. Bây giờ, ngôi biệt thự đuợc dân chúng địa phuơng gọi là cái nhà không mái vì cái sân thuợng của nó. Vùng đồi hoang sơ, lởm chởm đá, đuợc biến thành một khu vuờn xanh tuơi cây trái, cỏ hoa. Trong vuờn, anh Hải đã cho trồng những cây xoài, cây ổi, cây doi, mà tiếng miền Nam gọi là mận, cây na, mà tiếng miền Nam gọi là mãng cầu và nhiều nữa, chen cạnh những khóm hoa giấy, cúc, vạn thọ, hồng... đuợc săn sóc hàng ngày bởi cô làm vuờn, tên Huờng. Xuôi theo triền dốc là những nhà cửa khác mọc lên trong bốn, năm năm qua, và một khách sạn, mà nguời chủ cũng là nguời bán đất cho anh Hải. Khách sạn này là kết hợp của nhiều nhà chệt nối với nhau bằng những con đuờng lót gạch sạch sẽ, len lỏi duới bóng râm của những tàng dừa. Khách sạn chiếm một vùng rộng nhiều ngàn thuớc vuông, lan xuống tận bờ biển. Những kiến trúc tốn kém, nhưng không hẳn là mỹ thuật, đuợc nguời chủ khách sạn dựng lên trong khu vuờn mà khách sạn chiếm cứ. Các bức tuợng của vài anh hùng trong lịch sử, to cỡ nguời thật, đặt trên bệ cao, chen cạnh những tuợng kỳ quái của nguời cá, của những nhân vật hoạt hoạ quen thuộc của Tây phuơng, nằm rải rác ra đến tận bờ biển, bên cạnh những chòi lá có hình dáng cuả những cây nấm khổng lồ. Cả vùng đất, nửa khách sạn, nửa khu giải trí đó nằm phía triền đồi thấp hơn biệt thự của anh Hải và nằm phía bên kia con đuờng lộ chưa trải nhựa. Muốn ra bãi biển từ nhà anh Hải, nguời ta sẽ phải đi ngang qua đuờng, rồi ngang qua khu khách sạn, hoặc phải đi xa hơn dọc theo đuờng lộ để đến khu bãi biển còn nguyên chưa bị chiếm ngụ bởi tư nhân.
Nguời chủ khách sạn là một nguời giàu có trong vùng, đất đai truyền lại từ đời ông cha. Ông ta bán cho anh Hải, Việt kiều đầu tiên về định cư nơi này. Khi số nguời từ ngoại quốc về muốn mua đất càng ngày càng nhiều, giá đất dần dần tăng lên gấp ba, từ một trăm luợng một công (chừng một ngàn thuớc vuông) lên hai trăm rồi ba trăm luợng. Nguời chủ đất vừa bán đất vừa tư. động dựng hàng rào chiếm thêm đất để rồi Sau một thời gian, "lót đuờng" với giới chức địa phuơng hợp thức hoá quyền sở hữu, biến đất công thành tài sản riêng. Thực ra, vấn đề chiếm đất truớc, hợp thức hoá sau đã xuất hiện khắp nơi, nhất là trong những năm đầu của chế độ mới. Tệ nạn "dĩ công vi tư" này tồn tại cho đến những năm gần đây. Nhiều vùng bãi biển xưa kia quang đãng, nhiều vùng đồi xưa kia bao la, giờ đây đuợc lấp kín bởi những dãy nhà lụp xụp che lấp tầm nhìn.
Nguời ở đâu ra mà nhiều khủng khiếp! Có lẽ cũng là một thứ "baby boom" thời hậu chiến Việt Nam. Trong số bạn bè cũ của anh Hải từ khi còn ở Canada có bốn gia đình nghe lời anh rủ, nhờ anh đặt tiền mua hộ những lô đất xung quanh khu biệt thự của anh. Những nguời định tâm trở về sinh sống ở Việt Nam, cho đến lúc này chỉ có thể mua nhà đất một cách gián tiếp, qua anh em, họ hàng thân tín. Cái danh xưng "Việt kiều" quả đúng là phản ảnh của tính cách ngoại nhân dành cho họ, cũng như danh từ "Hoa kiều" vẫn đuợc dùng để chỉ nguời Hoa sinh sống lập nghiệp ở Việt Nam. Cái danh xưng "khách trú" nếu đuợc dùng để chỉ đám "Việt kiều" có lẽ cũng rất chỉnh.
Sang ngày thứ hai, hai bố con muợn chiếc xe Honda hai bánh của anh Hải chở nhau đi thám hiểm mấy địa điểm đuợc nhắc đến trong cuốn sách huớng dẫn du khách, nhưng anh Hải cảnh giác truớc để anh khỏi thất vọng khi đến thăm tận nơi, nhìn tận mắt những điểm gọi là "thắng cảnh". Vài đuờng phố chính của quận lỵ, với những nhà ở, những cửa hàng, những tiệm ăn cũ kỹ. Cái bến tàu, và cũng là cái chợ cá, cũng đuợc hai bố con thăm viếng, chụp hình. Đi dăm phút đã về chốn cũ, hai bố con lại chơ? nhau về trên con đuờng huơng lộ, nửa đất nửa sỏi, nhiều chỗ còn bùn đỏ từ trận mưa như trút nuớc đêm hôm truớc, trơn trợt. Thỉnh thoảng có những xe chở hàng phóng như muốn lấn đuờng, chèn các xe nhỏ. Ngay cả cái xứ khỉ ho cò gáy này, giao thông cũng không an toàn chút nào, chưa nói gì đến đại thành phố Saigon.
Thăm viếng như vậy đối với anh tạm đủ để cảm nhận đuợc cái mạch sống của vùng đất này, anh quyết định chỉ ở nhà nói chuyện với anh Hải trong hai ngày còn lại. Ngôi nhà của anh Hải bên trong kiến trúc theo kiểu "open concept" tây phuơng, nên có vẻ thênh thang khoáng đạt. Tầng duới với những phòng khách, phòng ăn, phòng bếp, phon`g giải trí thông nhau, không bị ngăn chia bởi những bức tuờng. Chỉ phòng làm việc của anh là có cửa ngăn riêng biệt. Đồ đạc là những tràng kỷ, ghế tay dựa, đôn bằng gỗ kiểu cổ nặng nề. Cầu thang lót đá bóng, dẫn lên tầng trên với bốn phòng ngủ rộng, cũng bài trí bằng những giuờng tủ gỗ đắt tiền. Ban đêm leo lên sân thuợng, nhìn ra biển sẽ thấy những dãy đèn lấp lánh từ những thuyền câu mực giăng ngang vùng biển tối, trông như có một thành phố về phía đó.
Anh Hải xưa nay vẫn có một cuộc sống đơn độc, không bận bịu gia đình, tận huởng những cuộc du lịch khắp thế giới từ Âu sang Á. Vào những năm mà Việt kiều chưa đuợc về nuớc, hàng năm anh Hải thuờng trở lại một vùng biển hẻo lánh ở Thái Lan, ở đó trọn mấy tháng Hè. Khi anh Hải quyết định về hưu non, sáu năm truớc, anh ấy chọn hòn đảo này làm nơi định cư cho đến lúc già. Qua những năm tháng quen nhau vì là đồng nghiệp công chức, giữa anh Hải và anh, một thứ tình bạn vong niên, trọng nể lẫn nhau dần dần thành hình. Do bản tính kín đáo của anh Hải, phải trải qua nhiều năm, anh mới biết đuợc những nét chính về đời tư của anh ấy. Sinh ra ở miền Bắc Việt, rồi vào Nam đã lâu lắm, giọng nói hoàn toàn là giọng Nam, anh Hải thỉnh thoảng phải hỏi anh những từ ngữ Bắc mà anh ấy không biết. Theo lời của vài nguời quen, anh Hải dời xa gia đình từ lúc còn rất trẻ duờng như dể học tập trong một chủng viện. Anh Hải chưa hề mặc áo dòng, nhưng sống một cuộc đời mẫu mực, ngăn nắp, thể hiện một cách rõ rệt, từ lối sắp đặt ngăn nắp trong nhà đến sự xén tỉa gọn gàng của khu vuờn của bất cứ ngôi nhà nào thuộc về anh ấy. Do một lý do nào đó, anh Hải giữ liên lạc với bạn bè nhiều hơn là giữ liên lạc với những nguời thân trong gia đình. Đêm đầu tiên anh ở đó, ngồi nói chuyện ngoài hiên, anh Hải tâm sự:
- Nhiều nguời ở đây thuờng tò mò về tôi, và hỏi dò những nguời giúp việc cho tôi. Họ thắc mắc tại sao tôi về đây có một mình, vợ con đâu. Tôi nói với họ là tôi goá vợ đã lâu và sống độc thân đã quen. Vậy mà có nguời còn tỏ ý muốn mai mối tôi vơi một cô mới hai muơi lăm tuổi anh ạ!
Sự hiện diện của hai bố con anh hẳn nhiên làm biến đổi một phần nào cuộc sống mực thuớc của anh Hải và hai nguời giúp việc. Anh Hải hỏi anh:
- Buổi sáng tôi thuờng ăn sáng lúc 8 giờ, buổi trưa ăn cơm lúc 11 giờ ruỡi, biểu chiều lúc năm giờ. Có anh và cháu ở đây, ăn cơm chiều như vậy chắc sớm quá phải không? Sáu giờ có đuợc không?
Dĩ nhiên là anh đồng ý. Thế là hàng ngày, những bữa ăn ngon lành, ít nhất là ba món, đuợc dọn ra đúng giờ giấc. Biết thằng nhóc không ăn thịt, anh Hải bảo Dung, cô giúp việc trong nhà, bữa nào cũng phải làm hai món đồ biển hoặc rau đậu cho nó. Dung năm nay hai muơi tuổi, lo việc nấu nuớng và những việc nhà khác. Những qui lệ anh Hải đặt ra cho hai cô giúp việc đuợc tuân theo chặt chẽ, khiến anh có một ý nghĩ ngộ nghĩnh là không biết anh Hải có định in ra thành một tập nội qui hay không. Mỗi khi cơm đã sẵn sàng, Dung mời mọi nguời và hai bố con sẽ theo chân anh Hải đi lại phía bàn ăn. Những món ăn đã đuợc bày ra. Dung xới từng bát cơm đưa bằng cả hai tay cho từng nguời:
- Mời hai chú xơi cơm, mời Thiên xơi cơm.
Anh trao đổi câu mời với Dung và anh Hải, nhớ lại hồi còn bé, trong nhà anh cũng vậy. Truớc khi cầm bát lên, mời ba, mơi me, mời anh, mời chị, rồi mới bắt đầu ăn. Sau này có con, anh không còn giữ truyền thống Bắc kỳ đó nữa. Anh dấu trong lòng sự ngạc nhiên của mình về những lễ nghi mà anh Hải còn giữ đuợc và áp dụng. Tự nhiên trong trí anh nảy ra một ý nghĩ về thành quả của chế độ đuơng thời. Kinh tế thị truờng đuợc áp dụng và đuợc hiểu là kinh tế chụp giựt, bốc hốt, ăn xổi ở thì. Thuơng mại đuỢc đặt căn bản trên sự lỪa đảo, bịp bợm. Xã hội thì đầy giẫy tham ô, tiền giấy lót đuờng, đi đâu cũng lọt, quyền lợi riêng tư đuợc đặt trên quyền lợi chung. Nói chung, cái hủ hoá mà nguời cộng sản gán cho nguời "quốc gia" truớc kia, bây giờ không những đuợc đem ra áp dụng triệt để mà còn đuợc làm cho tinh vi hơn gấp trăm lần. Tham ô bây giờ như một thứ ung thư bất trị, để rồi một ngày nào đó sẽ ăn mòn, xoi thủng đưa đến một sụp đổ toàn diện. Mặt khác, cái biên giới phân chia giai cấp mà nguời cộng sản muốn xoá bỏ lại trở nên rõ nét hơn bao giờ. Những quan hê. phân chia giai cấp nào phải là lề lối của lớp nguời cũ như anh Hải, mà chính giai cấp "truởng giả mới" đã củng cố sự cách biệt giai cấp một cách hết sức tự nhiên. Những cán bộ, chẳng cần phải là cao cấp, cũng đầy dẫy kẻ hầu nguời hạ. Chẳng cần phải có một khả năng quan sát bén nhậy mới nhận thấy sự hiện diện khắp nơi của giai cấp thống trị mới này. Cái giọng bắc kỳ với lối phát âm lạc giọng những chữ mang dấu sắc, những khuôn mặt, nam thì đẹp trai như Phạm Văn Đồng, nữ thì đẹp gái như Nguyễn thi. Minh Khai (dù anh không biết Nguyễn thi. Minh Khai đẹp gái như thế nào) xuất hiện khắp nơi, nắm những địa vị quan trọng, nắm những "jobs thơm".
Cuộc sống của anh Hải thấp thoáng hình ảnh của một nhân vật nào đó trong một cuốn tiểu thuyết Quỳnh Dao: căn biệt thự thênh thang, nếp sống mẫu mực đơn độc, những nguời giúp việc khuôn phép. Buổi tối ngồi truớc hiên nhà nói chuyện, anh Hải nói thêm về những nguời giúp việc của anh: - Tôi trả luơng cho họ rất hậu, không ai có thể trả bằng tôi, và còn giúp đỡ gia đình họ mỗi khi họ cần. Nhưng tôi ra điều kiện cho hai cô này là ngày nào còn làm việc cho tôi thì tôi không muốn các cô ấy có bạn trai. Tôi nói với các cô ấy: các con còn trẻ, lo gì không kiếm đuợc nguời bạn đời đàng hoàng. Khi nào không làm cho chú nữa, hãy nghĩ đến chuyện đó. Nếu các con không đồng ý thì cứ nói cho chú biết, nhưng đó là điều kiện của chú. Hai cô ấy than là làm việc cho tôi mà cứ như sống trong một tu viên anh ạ. Thực ra thì đâu đến nỗi thế. Anh nẩy ra một ý tuởng ngộ nghĩnh về cái điều "nội qui" khá khe khắt này của anh Hải. Nếu có bạn trai sẽ phải nghỉ việc, thì ra tình và tiền không đuợc đi đôi với nhau!
Một qui lệ nữa của anh Hải là các cô không được nhận tiền bạc các khách của anh Hải tặng. Vì vậy, ngay hôm đầu tiên, khi anh đưa cho Dung một tờ bạc, không nhiều nếu tính ra tiền ngoại quốc, nhưng tương đương với khoảng một phần năm số lương tháng của Dung, cô này nhất định từ chối. Khi anh nói với anh Hải thì anh Hải cho biết đó là qui lệ anh đặt ra.
Ngoại trừ cái dấu hỏi liệu hai cô giúp việc có làm lâu cho anh Hải được không, với những điều kiện anh Hải đặt ra, anh Hải dành cho họ mọi sự tin cậy, và giao cho họ toàn quyền trông coi nhà, mỗi khi anh có việc đi xa. Sống ở một nơi thôn dã xa lạ, dĩ nhiên việc giao tế, hoà đồng với lối sống địa phương là điều cần thiết. Anh Hải lần hồi tạo được thân tình với một số giới chức địa phương, nhưng đồng thời cũng nhận được những dấu hiệu đố kỵ. Anh Hải thố lộ:
- Có những người quí mến tôi, nhưng cũng có những người cho rằng tôi là một trong những kẻ ngồi nhà mát ăn bát vàng. "Xưa kia lúc còn tranh đấu, thì các anh không dự vào, đến bây giờ yên ổn, trở về ăn trên ngồi chốc". Anh biết không, họ để ý cả cái phone bill của tôi và nói qua hai cô giúp việc, không biết ông Hải làm gì mà dùng điện thoại nhiều thế, tháng nào cũng một cái danh sách dài. Thế là tôi lại phải bắn tin là tôi dùng Internet, một phương tiện truyền thông phổ biến khắp nơi mà nhà nước cũng đang khuyến khích. Bị dòm ngó như vậy đó, anh thấy có chán không? Còn nhiều việc khác mà tôi cứ nhắm mắt làm ngơ, xin hai chữ bình an.
Rồi cũng đến ngày từ giã. Hai bố con đến thăm anh Hải tổng cộng chỉ có bốn ngày, nhưng kiến thức thâu nhận được rất quí giá. Dường như để cho cảm tưởng về nơi này được sâu đậm hơn, hai bố con phải chứng kiến thêm một điều nữa trên xe taxi ra phi trường. Chiếc xe ngon trớn chạy, từ xa một con chó bắt đầu băng ngang con lộ, người tài xế thản nhiên như không nhìn thấy con vật, không giảm tốc độ, không đạp thắng. Anh ngồi cạnh nghiến răng:
- Con chó! Coi chừng con chó!
Vừa nói, chân anh vừa đạp xuống sàn xe như thể đạp lên bàn đạp thắng. Bóng con chó bị thân xe che khuất. Một tiếng "thịch" của da thịt con vật dội vào sắt thép. Anh ngoái cổ nhìn lại phía sau, trông đợi xác con vật nằm dẫy chết trên mặt lộ, nhưng chỉ thấy con vật khốn nạn tấp tểnh băng sang bên kia đường. Nhìn sang cái mặt thản nhiên mỉm cười của gã tài xế, anh chỉ muốn đấm cho hắn một quả. Cái đồ chó chết! Anh thầm nghĩ.
Hai bố con ra đi, trả lại sự phẳng lặng cố hữu cho biệt thự Maria. Ngồi trên máy bay nhìn xuống dải giang sơn xanh mướt như gấm vóc, trải dài dưới kia anh nghĩ đến một thời điểm nào đó, có lẽ là xa lắm trong tương lai, khi hòn đảo đã trở thành văn minh, phồn thịnh, người trong vùng, mỗi khi kể cho nhau nghe về sự phát triển của hòn đảo, sẽ nhắc đến ngôi biệt thự của anh Hải như một trong những cái mốc đầu tiên cắm xuống bởi những người từ xa quay về. Họ sẵn sàng chấp nhận mọi thử thách, âm thầm dệt lại cái miếng vải xã hội rách nát bằng những sơi tơ, sợi chỉ bền chắc, thấm nhuần trong môi trường tự do từ bao năm qua. Hiện tại thì dường như tấm vải thô còn chưa trong tầm với, đến bao giờ đất nước này mới trở thành gấm vóc mượt mà?
Nhatrang
Bây giờ anh kể cho Nhóc tì nghe tiếp về những chặng đuờng Việt Nam khác. Anh từ đảo kia trở lại Sài Gòn, ở vài hôm rồi đáp xe lửa đi Nha Trang.
Toa tàu là hạng giuờng "mềm", có máy lạnh, nghĩa là thuộc vào hạng "chất luợng cao", nói theo danh từ thông dụng ở Việt Nam bây giờ. Nào là quần áo chất lương cao, tiệm ăn chất lượng cao, khách sạn chất lượng cao... Toa tàu có bốn giường ngủ, nhưng hôm đó chỉ có hai bố con, nên sự không phải chung đụng với người khác cũng là một lý do khiến chuyến xe lửa, vốn là một phương tiện di chuyển an nhàn, lại càng thêm dễ chịu. À, Nhóc tì này, chỉ có một người anh muốn chia cái "privacy" lúc đó... Đứng ngoài hành lang nhìn qua khung cửa kính xe lửa, ừ, giá mà có Nhóc tì, hẳn là anh đang khoác vai Nhóc tì chỉ trỏ... Anh lấy mấy lon bia lạnh ra, dựa cửa kính uống và lại nghĩ: Ừ, nếu có em, anh sẽ cho em thử mấy hớp, chia nhau cái lâng lâng, choáng váng nhẹ nhàng. Con tàu lao đi trên con đuờng sắt, xuyên qua những khu dân cư đông đúc, san sát nhà cửa, như vô tình đối vơi sự an toàn của dân cư sinh sống sát cạnh đuờng sắt. Sự an toàn của họ lệ thuộc một cách rất mong manh vào những thân cây gỗ hạ xuống, tạm thời cắt ngang dòng xe cộ đông đảo, nhường chỗ cho con tàu. Anh tự hỏi không biết hàng ngày dọc theo con đuờng sắt, có bao nhiêu thảm kịch xảy ra. Cái mạng sống của con dân một nuớc nghèo khổ, cái khó bó cái khôn, luôn luôn rẻ mạt. Anh lan man nghĩ đến những cái khốn khó khác của đất nước này đã gò bó lấy những giải pháp liên quan đến y tế, ô nhiễm môi sinh, an ninh xã hội. Anh nhớ đến những đoạn tin về sự tái xuất hiện của bệnh "cúm gà", về những con buôn gian manh vội vàng làm thịt hàng loạt gà để tung ra thị trường với giá rẻ khi vừa khám phá ra một số gà mang triệu chứng "cúm", anh nghĩ đến nỗ lực đáng ngờ, những hành động tắc trách của nhà cầm quyền, không đủ để bảo vệ chính những nhân viên có nhiệm vụ diệt bệnh. Cái khó bó cái khôn và bó chặt lòng người, thắt chặt thêm lòng ích kỷ của con người, hay chính lòng ích kỷ, tham lam của con người đưa đến sự khốn cùng? Làm điều phạm pháp trắng trợn, nguy hiểm đến tính mạng của thiên hạ mà vẫn có thể trốn tránh sự trừng phạt, vì mọi thứ đều có thể mua đuợc bằng tiền. Tiền khiến nguời ta đặt cái lợi riêng của mình lên trên lợi công.
Một thanh niên từ toa bên cạnh cũng buớc ra hành lang, đứng tựa cửa kính nhìn ra ngoài. Anh bước lại gần, gợi chuyện:
- Anh có biết khi nào thì tới Phan Rang không?
Người thanh niên, có lẽ khoảng ngoài ba mươi, nhìn anh trả lời:
- Chắc chỉ chừng gần một tiếng nữa là tới.
Anh gợi chuyện tiếp:
- Anh đang trên đường đi đâu vậy?
- Tôi quay về lại Phan Rang. Nhà tôi ở đó.
- Anh đi Sài Gòn chơi trở về à?
- Không, tôi đi công tác có hai hôm. Họp xong, trở về.
- Chắc anh làm công chức?
- Vâng, tôi làm cho Kho Bạc Nhà Nước.
Anh và nguời thanh niên trao đổi với nhau những câu về ngành tài chánh của anh ta, liên quan đến việc cho vay để phát triển nông nghiệp, những chuyện lặt vặt chung quanh sự khó khăn trong việc đòi lại những khoản tiền nhà nước cho vay, rồi sang đến những vấn đề chung chung liên quan đến ngành tài chánh, việc học, mức lương trung bình, giá sinh hoạt. Luơng bổng thì như anh đã mường tượng, một tháng luơng của một nguời mới ra trường còn ít hơn một ngày lương của một người thư ký bên kia đại dương. Tiền thuê một căn nhà trọ cho một gia đình nhỏ ba người bằng tiền anh thuê taxi hai ngày đi chơi Sài Gòn. Anh cũng trao đổi với anh ta những điều về xã hội bên kia. Câu chuyện đưa đến một sự so sánh về đời sống ở hai nơi. Người thanh niên nhận xét:
- Đời sống ở Việt Nam so sánh với bên Mỹ ổn định hơn.
Câu nói làm anh cảm thấy buồn cuời, nhưng khi nhìn mặt nguời thanh niên và không tìm thấy nét khôi hài nào, anh hỏi:
- Tại sao anh nghĩ vậy?
Người thanh niên trả lời:
- Bên Mỹ nghe nói tội phạm lan tràn, cộng thêm vấn đề chống khủng bố, là mối lo hàng đầu của chính phủ Mỹ.
Anh nói:
- À thì ra vậy. Đối với một nuớc lớn 290 triệu người, nếu không có tội phạm, thì là thiên đường còn gì. Ở Mỹ những gì xảy ra đều được nhà báo phơi bày, không phải lựa chọn xem tin nào đuợc đăng, tin nào không. Cái ổn định của nuớc Mỹ hay bất cứ một nước dân chủ tây phương khác nằm ở ngay đây! - Vừa nói, anh vừa đưa ngón tay gõ vào trán mình - Cái tinh thần thượng tôn luật pháp của hầu hết mọi người, tinh thần tự giác của hầu hết mọi người mới chính là căn bản cho sự ổn định của một xã hội. Nếu anh đem những văn kiện luật pháp, những bộ luật hình sự của một nước văn minh tiến bộ ra so sánh với những luật lệ của một nước độc tài, lạc hậu, anh sẽ thấy những luật lệ đó y chang như nhau, không khác gì hết! Cũng hình phạt đó, cũng những đòi hỏi khắt khe đó, và có khi luật lệ của nuớc lạc hậu kia còn khắt khe hơn luật lệ của nước tiến bộ nữa là khác! Nhưng sự hữu hiệu của luật pháp không phải là cái đẹp trên giấy in, mà chính là do cái tinh thần tôn trọng luật pháp của dân chúng. Trong một nước dân chủ, văn minh, cái tinh thần đó nó ăn sâu vào đầu óc nguời dân, người ta nhìn rõ cái tương quan nhân quả của hành động phạm pháp và sự trừng phạt, chứ không phải là một sự hoang mang tự hỏi: liệu kẻ phạm pháp có tiền chạy tội không, tôn trọng luật pháp có lợi gì không, hay bị coi là đồ ngu. Cái thiếu ổn định của xứ Việt Nam này là như vậy đó. Tham nhũng, hối mại quyền thế đuợc coi là nền tảng của mọi sinh hoạt, thì thử hỏi cái bề ngoài "ổn định" có thể hiện sự thật không hay chỉ là sự che dấu những ung thối, mục rữa ngấm ngầm? Tôi xem những chương trình truyền hình mà có cảm tưởng, một là dân chúng có trình độ thấp kém, hai là những thông tin tuyên truyền chỉ nhắm ru ngủ một đại đa số yếu kém? Những bài học công dân giáo dục sơ đẳng, nêu cao những giá trị tinh thần cao quí như: lao động tốt, cố gắng hơn nữa để phục vụ dân, niềm hạnh phúc của nguời tiêu thụ là niềm hạnh phúc của nguời công nhân quèn, đuợc đưa ra lập đi lập lại để ru ngủ tầng lớp công nhân, nông dân, và trẻ em, biến họ thành những người dân ngoan ngoãn. Trong lúc mà tầng lớp ngờ nghệch này đuợc ban cho những thú tinh thần cao quí, thì ở tầng trên cao là những trò điên đảo, tham ô, hàng tỉ đô la, diễn ra như cơn lốc xoáy! Theo ý tôi, cái mà anh nghĩ là sự ổn định của Việt Nam này, có lẽ không phải là sai, nhưng đó chi là cái lớp sơn tạm bợ bên ngoài mà thôi.
Người thanh niên lắng nghe những lời nói ôn hoà của anh, gật gù, không nói gì thêm. Con tàu sẽ đến Phan Rang không bao lâu nữa. Nguời thanh niên bắt tay anh từ giã rồi trở vào toa tàu của anh ta sửa soạn hành lý.
Thiên ra đứng cạnh anh, lặng lẽ nhìn ra ngoài đồng lúa di động vùn vụt ngược chiều. Anh hỏi con:
- Cho đến lúc này, con nghĩ sao về Việt Nam?
Hướng về phía những người lom khom xa xa trên ruộng lúa, nó nói:
- Con đang nghĩ không biết những người nghèo kia họ có sung sướng hay không.
Trong trí còn vấn vương những ý nghĩ mới trao đổi với người thanh niên toa bên kia, anh cố trả lời câu hỏi không dễ trả lời của con:
- Ai cũng có lúc vui, lúc buồn, lúc sướng, lúc khổ, cho dù người đó nghèo hay giàu. Nhưng bố nghĩ cuộc đời người ta bị chi phối rất nhiều bởi yếu tố "may mắn". Chúng ta có cái may mắn là đã trở thành công dân của một nuớc tự do, ổn định. Cái an bình của đất nước mình sinh sống đóng một vai trò rất lớn trong cái an bình cá nhân. Nếu những nguời kia có cái quyền lựa chọn như chúng ta, bố nghĩ là họ sẽ chọn sự ổn định của đất nước mà chúng ta sẽ quay trở lại sau chuyến đi này đó con.
Thiên không nói gì. Anh biết nó có những tư tưởng rất sâu sắc, mà bình thường nó sẵn sàng bộc lộ. Hôm nay vì một lý do nào đó, nó chỉ yên lặng. Anh ngắm nhìn những cánh đồng mênh mông, những rặng núi, và những bờ cát uốn cong ven biển. Lần lượt, những địa danh: Muờng Mán, Tháp Chàm, Phan Rí, Phan Rang đã hiện ra, rồi lui lại đàng sau như một cuộn phim diễn ra trên màn ảnh. Cuối cùng, con tàu đã đến Nha Trang, từ từ chậm lại tiến vào sân ga. Ngày xưa còn bé, anh đã ở thành phố này, đã đi ngang sân ga này, nhưng đây là lần đầu tiên anh đến đây với tư cách một du khách. Sân ga cũ kỹ, với những toa tàu, những đường sắt như bao sân ga khác. Rời khỏi toa tàu, bước vào cái nóng hầm hập, anh không cảm thấy nỗi háo hức của ngày trở về thăm lại chốn xưa, mà ngược lại, sẵn sàng trông đợi những mất mát, thờ ơ của một thành phố lạ.
Xe taxi đi qua những đường phố cũ, với những cái tên mới, và bộ mặt sầm uất mới. Những khu nhà ở bây giờ trở thành những khu thương mại. Cũng như ở Sài Gòn, thành phố Nha Trang chen chúc, hỗn loạn những người và xe cộ, đa số là xe gắn máy. Con đường bờ biển, ba mươi năm trước hẹp và vắng, bây giờ rộng và tấp nập. Một bên đường là bãi biển với rất nhiều công trình xây cất, có chỗ làm tăng vẻ đẹp của bãi biển, có chỗ bưng bít hết bờ biển. Bên kia đường phía trong thành phố là nhiều dinh thự mới chen lẫn những biệt thự cũ kết hợp thành khu thương mại, với những cửa hàng, nhà hàng ăn, khách sạn, bên cạnh những công sở. Dọc theo lề đường là những quán nhỏ, mà tất cả vốn liếng nằm trong cái tủ hình chữ nhật, nửa gỗ, nửa kính, có bốn bánh xe nhỏ, có thể di động được. Những tấm bạt được căng ra cạnh đó làm mái cho cái cửa hàng của họ, hoặc nếu là quán ăn, những bàn ghế thấp được bày ra sẵn sàng đón khách. Cũng như Sài Gòn, thành phố Nha Trang là nơi tiếp nhận lớp sóng người tư miền Bắc, miền cực Trung, các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, đổ vào Nam, lập nghiệp hoặc đầu tư. Họ có mặt khắp nơi, giàu thì là chủ khách sạn, nhà hàng, buôn bán lớn, nghèo thì làm đủ nghề, lái taxi, chạy xe thồ, làm thuê làm mướn.
Anh định sẽ đưa con đi thăm những nơi quen thuộc đối với anh hồi nhỏ, nhà cũ, trường học cũ, hòn chồng, tháp bà. Bạn cũ chẳng còn ai, Hoàng đã chết, Bình cùng gia đình đi vùng kinh tế mới, hình như Long Khánh, biệt tăm từ lâu, chỉ còn vài cái tên người quen mà một người bạn đưa cho anh bên Canada. Anh sẽ tìm đến nhà cũ của Hoàng để thăm bà mẹ và người anh nếu họ còn ở đó, và sẽ hỏi họ về những người khác. Xe chạy ngang ngôi trường cũ mang tên Võ Tánh, ngang ngôi trường nữ trung học, có cái tên cũ là Huyền Trân, anh chợt nhận ra là mình không cảm thấy xúc động bồi hồi như anh tưởng, và nhận thức này làm anh bối rối tự hỏi ta vô tình với cảnh, hay cảnh vô tình với ta? Có phải vì người quen, bạn cũ không còn nên lòng ta dửng dưng? Anh loay hoay tìm câu trả lời, để rồi tư tưởng lại quay về với Nhóc tì.
Nếu có em ở đây, anh sẽ không dấu được sự náo nức, đưa em đi thăm những nơi ghi lại những kỷ niệm của anh ngày còn bé. Anh sẽ nhớ ra rất nhiều chỗ để khoe em, và biết rằng em cũng sẽ háo hức không kém muốn biết về cái quá khứ đã bảo bọc anh. Này nhé, anh sẽ đưa em đi tìm cái vết anh khắc trên thân cây sau ngôi trường cũ, anh sẽ đưa em băng ngang khu ruộng bắp đến tận bờ sông ngày xưa trốn học đi chèo thuyền với thằng Quốc, thằng Hạnh, thằng Xuân, anh sẽ đưa em tìm đến tận ngôi thánh đường đá xám trên dốc cao, tìm đến tận cái cửa sổ ghép bằng hàng ngàn miếng kính đủ màu, đủ hình dạng, sẽ chỉ cho em xem dấu vết của trò nghịch ngợm thiếu suy nghĩ tuổi nhỏ, những góc cửa sổ mà những mảnh kính màu bị cạy gỡ đi, để trơ ra cái khung kim loại mềm. Và quan trọng hơn cả, anh sẽ có em bên cạnh để làm chứng cho anh chuộc lại lỗi lầm thơ dại. Những miếng kính màu cửa sổ nhà thờ bị anh lấy đi ngày xưa sẽ được anh trang trọng thay thế bằng một thứ kính vạn hoa, một thứ kaleidoscope tâm hồn mà chỉ có em và anh có thể thấy được. Phải, nếu có Nhóc tì..."
Taxi đưa hai bố con, anh và Thiên, đến một khách sạn trên con đường bờ biển. Sáng hôm sau, hai bố con ghi tên đi chơi biển, thăm những hòn đảo trong vùng biển Nha Trang. Du khách tây và Việt khoảng 50 người, leo lên chiếc tàu dài khoảng 30 thước. Ghế ngồi là những băng gỗ ở giữa và dọc hai bên thành tàu. Cái tàu nhỏ nhưng thành phần gồm đủ thứ quốc tịch, Việt, "Việt kiều", Pháp, Đức, Nhật, Úc. Chuyến đi không có gì đặc biệt. Hai hướng dẫn viên, một Nam một Bắc, thay phiên nhau tìm cách làm vui hành khách bằng những câu giới thiệu hài hước bằng ba thứ tiếng Việt, Anh, Pháp. Anh không buồn cười vì những câu khôi hài nhạt nhẽo của họ, nhưng xúc động vì những cố gắng sinh nhai bằng một cái nghề phóng khoáng, gần gũi với sóng nước. Biết đâu hai con người đen xạm, khắc khổ kia, trao đi niềm vui để đổi lấy những đồng tiền người đồng hương đem về, chẳng là hai người lính cộng hoà năm nào.
Tàu đi qua bốn hòn đảo, nhưng chỉ ghé vào đảo có cái tên Bãi Trù. Du khách lên bờ thuê ghế bố ngồi dưới những lều tranh hoặc xuống nước bơi. Tàu ngưng lại gần một đảo khác có tên Bãi Miếu, bỏ neo gần bờ cho khách nhảy xuống biển bơi. Bữa trưa, nhân viên tàu gấp các ghế lại thành một cái sàn bằng phẳng, rồi dọn các món ăn ra cho khách ngồi bệt xuống xung quanh ăn. Họ dọn ra một "mâm" thứ hai ở trên mui tàu bằng phẳng và có lan can, che bạt cho khỏi nắng. Anh và Thiên Bảo leo lên nhập vào nhóm trên mui. Các món ăn một phần được làm trên tàu, một phần mang từ bờ. Anh vốn ăn uống rất dễ dãi, như anh thường nói với Nhóc tì, nhưng lúc đó, ăn uống gượng gạo, có lẽ vì trời quá nóng làm hết đói. Lúc đó anh chỉ cần một lon bia, và một cái ghế để ngả ra, thay vì phải ngồi khoanh chân bó gối một cách khó chịu xung quanh hàng chục món ăn cầu kỳ, chả giò, mực nhồi thịt, và gì gì nữa, bày giữa cái sàn ướt át. Thằng nhóc thì hoàn toàn không đụng đến món ăn nào dù anh cố thuyết phục.
- Từ trước đến giờ con không bao giờ bị say sóng, dù đi xe, đi máy bay, đi tàu, sao hồi nãy con nôn hết ra vậy?
- Con không say sóng mà khó chịu và buồn nôn từ lúc ăn món trứng chiên với bánh mì buổi sáng ở khách sạn. Không hiểu họ chiên bằng thứ dầu gì.
- Nếu vậy ăn trái cây đi. Mình đi cho đến chiều, nếu không ăn gì sẽ rất mệt.
- Không, con không muốn ăn gì hết. Cứ nghĩ đến đồ ăn là con buồn nôn rồi.
Ngồi khoanh chân cạnh anh là một cô gái "Việt kiều" Pháp, đi cùng với anh bồ tây. Anh quay qua gợi chuyện bằng một câu gì đó về món ăn hay về nước Pháp, nơi cô ta ở, thế là Ti Ti (tên gọi ở nhà của cô) vui vẻ quay qua nói chuyện không ngừng, quên cả ăn, bỏ mặc anh bồ tây ngồi ăn một mình. Hồi nãy ở dưới khoang, nét mặt nhìn nghiêng, cặp kính đen sậm trên sống mũi, không che dấu được cặp mắt đưa qua đưa lại quan sát, Ti Ti có vẻ như sắc xảo, tương phản với cái môi trên nhọn nhọn, cái miệng mở hé, trông như ngờ nghệch, bây giờ khi nói chuyện, cái phần sắc xảo lấn cái phần ngờ nghệch một cách không thể chối cãi.
Ti Ti sống ở Marseille, được nghỉ hè ba tuần, về Việt Nam lần này là lần thứ năm, có gia đình ở Huế. Câu chuyện xoay quanh về những kinh nghiệm du lịch Việt Nam của Ti Ti. Nào là nên đi máy bay, không nên đi xe đò, nào là những cái tours bao giờ cũng được quảng cáo thật màu mè, đầy hình ảnh hấp dẫn, nhưng sự thật chán phèo, nào là khách sạn gạt gẫm khách, nào là nên đi Hà Nội, chứ không nên đi Huế trừ năm có hội lớn, như năm nay. Bữa ăn kết thúc và người ta bắt đầu dọn dẹp, anh quay sang nói chuyện với Thiên, quay lại anh bồ tây của Ti Ti đã chen vào ngồi giữa anh và Ti Ti, xoay cái lưng về phía anh. Cười thầm trong lòng, anh chào Ti Ti rồi cùng Thiên xuống khoang tàu bên dưới để tàu chuẩn bị đi tiếp sang hòn đảo khác.
Tàu quay lại Nha Trang lúc xế chiều. Về đến khách sạn, Thiên không muốn ăn gì, chỉ leo lên giường ngủ. Anh đi ra phố ăn một mình, buồn buồn vì con không khoẻ. Những hoạt cảnh thường nhật diễn ra, xe gắn máy chạy như điên, ồn ào, nóng nực, những mời chào...
- anh ơi đi xe không?
- anh ơi đi chơi không, có con nhỏ này làm thợ may ngon lành lắm, có nhà riêng đàng hoàng.
- go ride? go ride?
Ăn xong, anh đi tìm cháo mua về cho thằng nhóc. Khuya đó nó lên cơn sốt, ăn gượng gạo chút cháo đồ biển, rồi ngủ tiếp. Nó trằn trọc lăn qua, lăn lại, đầu sờ khá nóng. Mong sao nó chỉ khó chịu tạm thời và không phải là triệu chứng của bệnh gì khác. Ở một nơi xa xôi như thế này, phương tiện y tế chậm chạp, đáng ngờ. Nếu cần phải điều trị, biết có an toàn không? Áng mây mờ lo âu năm nào kéo về trong trí anh, cái lần nó chín tuổi phải vô bệnh viện vì một triệu chứng về tim. Bố là người đưa con về đây, để cho con thấy nơi bố sinh ra và lớn lên như thế nào, nhưng nếu vì vậy mà con ngả bệnh trong tình trạng thiếu thốn về y tế, bố sẽ ân hận vô cùng.
Anh không ngủ được sau khi nói chuyện điện thoại với em, lấy sách ra đọc được mấy trang thì đèn tắt phụt. Thật là đáng ngại. Anh nhấc thử điện thoại thì thấy không dùng được vì không có điện. Anh tính toán trong đầu xem sẽ phải làm gì nếu điện bị cắt lâu. Đêm mùa Hè nhiệt độ khoảng 36, 37 độ C. Bước ra khỏi cửa luồng khí nóng dày và nặng bao bọc lấy thân người, làm sao cho cơn sốt của con bớt đi nếu máy lạnh không chạy một thời gian lâu? Có lẽ sẽ phải nằm xuống sàn gạch, và tắm nước lạnh. Anh cởi trần nằm xuống sàn đá mát lạnh và cảm thấy yên tâm phần nào vì đã tìm ra cách khẩn cấp làm bớt nhiệt độ trong người. Anh chạy cầu thang xuống tầng dưới lấy nến ở front desk. Cũng may, điện lại có sau khoảng chừng 45 phút.
Từ hôm đó cho đến hết mấy ngày còn lại ở Nha Trang, thằng nhóc bị nôn nao, đau bụng, không thiết ăn uống. Nghĩ đến đồ ăn làm nó buồn nôn nên chỉ ăn qua loa mấy gói mì ngâm nước sôi anh mua cho nó. Mấy hôm sau thì khỏi hẳn. Cái câu hỏi làm sao để khỏi bị nhiễm độc vì ăn uống là một nỗi ám ảnh liên tục trong trí của hai bố con. Trước khi đi, anh và nó đã chích ngừa, mua đem theo thuốc trụ sinh, thuốc đau bụng theo toa bác sĩ. Đến Việt Nam, rau sống, nước đá không dám đụng đến, tránh những quán lề đườmg, dù ăn trong tiệm cũng chưa chắc đã sạch sẽ hơn nhiều. Ai cấm họ "rửa" bằng cách nhúng bát đĩa vào một cái thùng nước cho hết vụn đồ ăn, rồi đem ra dùng cho khách đến sau? Nếu cơ thể con người không có sức đề kháng tự nhiên, có lẽ anh đã ngả bệnh từ lâu rồi.
Đứng trước cái cổng mang địa chỉ cũ của Hoàng nhìn vào, anh nhận ra ngôi nhà của ba mươi năm trước vẫn còn đó, nằm thụt vào bên trong, trên khu đất giáp hai mặt đường. Góc của lô đất, trước kia chỉ là hai mặt hàng rào, bây giờ là một nhà hai tầng, có cửa sắt xây theo lối cửa hàng. Anh nhấn chuông. Một người đàn bà từ trong nhà đi ra, băng ngang khoảng sân lát gạch, mở cổng.
- Chị làm ơn cho tôi hỏi thăm, đây có phải là nhà Hoàng không? Tôi biết Hoàng đã mất, nhưng không biết gia đình Hoàng có còn đây không?
Người đàn bà trẻ, thoáng tươi nét mặt, đưa tay chỉ sang ngôi nhà mới, cửa sắt theo lối tiệm buôn, ở góc đường, mà anh đã thấy, nói:
- Bây giờ nhà vợ anh Hoàng ở bên kia. Anh sang đó sẽ gặp chị ấy.
Anh cám ơn rồi đi về phía đó. Bước vào cửa tiệm, anh trông thấy người đàn bà anh đoán là vợ Hoàng, đứng sau tủ kính quầy hàng, nét mặt tươi tỉnh. Anh gật đầu chào, chị đáp lại, mắt đăm đăm nhìn. Anh hỏi:
- Chị có phải là chị Hoàng không? Tôi là bạn của Hoàng.
Người đàn bà mỉm cười:
- Anh có phải là anh Huy, Nguyễn Huy, không?
Anh cười ngạc nhiên:
- Vâng, đúng tôi đây. Chưa gặp chị lần nào mà sao chị biết cả tên lẫn họ tôi?
- Tôi vẫn còn tấm hình anh gửi cho anh Hoàng từ trước khi chúng tôi lấy nhau. Đã hai chục năm rồi mà trông anh không khác chút nào. Khi anh Hoàng còn sống, anh ấy nói về anh rất nhiều.
Anh chợt nhớ lại đã gởi cho Hoàng tấm hình của anh và Minh Hương chụp trong một công viên. Khi ấy cuộc đính hôn của Hoàng với một người con gái khác vừa phải bỏ dở. Sau đó Hoàng kết hôn với người vợ hiện thời lúc nào anh không biết. Anh cảm động nói:
- Vậy hả chị? Tôi thật ân hận là đã không liên lạc với Hoàng thường xuyên hơn. Về thăm được thì Hoàng không còn nữa. Từ bên Canada, năm ngoái tôi đã nghe một người quen nói là Hoàng mất.
Chị Hoàng mời anh ngồi rồi rót nước ra ly mời anh. Chị nói tiếp:
- Cuộc đời anh Hoàng lận đận về mọi phương diện, kể cả phương diện tình cảm anh ạ. Anh Hoàng cũng kể hết cho tôi về cô fiancée. Mười năm sau ngày giải phóng, anh Hoàng đính hôn, và cùng gia đình cô fiancée vượt biên. Không may cuộc vượt biên thất bại, cả anh Hoàng và cô ấy bị bắt giam. Gia đình cô ấy chạy cho cô ấy ra trước. Anh Hoàng trốn được ra sau, nhưng phải trốn tránh không dám về nhà. Cuộc hôn nhân coi như huỷ bỏ, rồi gia đình cô kia đi thoát. Anh Hoàng quay về, cố đi vượt biên cùng với gia đình anh Bình mấy lần nữa nhưng cũng không được. Anh Bình bỏ đi Long Khánh làm rẫy và từ đó đến nay không có tin tức gì nữa. Chúng tôi lấy nhau có được hai cháu, đứa lớn là con gái, đang học đại học ở Sài Gòn. Anh Hoàng bị ung thư gan, khi khám phá ra thì gan đã nát như tổ ong, đưa vô Sài Gòn mổ không ăn thua gì, rồi lại đưa về lại Nha Trang cho đến khi anh ấy mất. Năm ấy là năm 1990, đến năm sau thì má anh ấy mất, có lẽ vì đau buồn.
Nghe những lời kể của chị Hoàng, anh nao nao nhớ lại những ngày tháng rong chơi với bạn bè năm xưa, hai thằng bạn thân bây giờ không còn nữa. Những ván bi-da ồn ào như mới hôm nào, với hình ảnh hai thằng có lẽ không bao giờ anh quên được. Anh nhớ câu chửi thề theo kiểu bắc kỳ của thằng Hoàng, dù nó là người Trung, mỗi khi được một cái "giò gà" ngon lành, tạo bởi vị trí ba quả banh, mà một trong hai thằng kia vô tình tạo ra cho nó:
- Đị.. M..! Ông được cái giò gà, hế hế hế!
Anh nhớ điệu bộ thằng Bình "phệ" mỗi khi chọc được một cú đẹp, quả banh từ từ lăn, nó vẹo vẹo cái mông, làm như có thể lái quả banh chạy theo ý nó, trong lúc miệng dài ra kêu:
- Mướt, mướt, mướtttttttttttttt. Hé hé hé!
Em biết không, anh vẫn còn thiếu hai đứa một chầu bò viên vì thua ván bi-da chơi với chúng nó lần cuối cùng, trước ngày gia đình anh di tản vào Sài Gòn, vào cuối tháng Ba năm đó. Ước gì có một phép màu nào đó để anh được trả hai thằng bạn món nợ ba mươi năm trước. Bình "phệ" ơi, có bao giờ tao được gặp lại mày để cùng cười vui, ôn lại kỷ niệm xưa, và cùng âm thầm nuốt những giọt nước mắt nhỏ xuống cho thằng bạn đã mất đi trong khốn khó, đau buồn? Hay chính mày cũng không còn nữa trên đời này?
Chị Hoàng kể cho anh nghe về hai đứa con và tính tình mỗi đứa. Đứa con gái gần gũi với chị hơn, đứa con trai thì trầm lặng. Cả hai đứa đều chăm chỉ và học giỏi. Anh đem chuyện của mình ra chia xẻ với chị Hoàng và trấn an chị ấy về những lo âu về các đứa con tuổi mới lớn.
Anh hỏi chị Hoàng địa chỉ vài người quen nữa, rồi đứng lên chào ra về, sau khi để lại cái phong bì mà anh đã mang theo trong túi:
- Chị cho tôi gửi cái này cho các cháu.
Từ giã chị Hoàng, anh căn cứ vào địa chỉ chị Hoàng cho, tìm đến nhà anh Sơn, anh của Hảo, một thằng bạn cũ. Anh không thân với Hảo, nhưng anh vẫn tìm đến nhà người anh, hỏi thăm xem bây giờ nó ra sao.
Tiệm bán đồ kỷ niệm của hai vợ chồng anh Sơn nằm trên con đường mang tên Biệt Thự. Đường này vẫn giữ cái tên cũ, là một trong những đường đâm thẳng ra bờ biển. Con đường, trước kia luôn luôn yên tĩnh như cái tên của nó, bây giờ đã trở thành khu buôn bán đông người.
Dung mạo, hình dáng anh Sơn của ba mươi năm trước, anh chỉ nhớ mang máng, tóc dài chấm vai, gầy gò, cao lêu khêu, dáng điệu ăn chơi. Thời đó, làm luật sư mà giàu có, nhất là còn rất trẻ như anh Sơn, thì chắc chắn là phải làm những "áp-phe" không liên quan gì đến khả năng chuyên môn. Anh còn nhớ anh Sơn lái chiếc xe Toyota màu xanh mới tinh duy nhất, cả thành phố không ai có. Cả nhà bốn năm anh em trai ở với nhau, mẹ đã mất, bố không biết ở đâu. Anh Sơn lớn nhất, có lẽ chưa đến ba mươi tuổi, còn mấy đứa em trên dưới hai mươi, vậy mà không đứa nào "đi quân dịch vì thương nòi giống" như lời của một bài hát dạo đó. Có lẽ cái việc miễn dịch của mấy anh em nhà này có liên quan đến những đồng tiền vô như nước từ những "áp-phe" của anh Sơn. Thuở ấy, sự khôn ngoan của con người được uốn nắn theo một khuôn mẫu kỳ lạ của thời thế. Những khía cạnh xấu xa nhất của bản năng con người nổi bật lên thành một thứ khuôn mẫu sáng chói làm mù mắt biết bao người. Ở vào cái thời mà sinh mạng con người mong manh vì chiến tranh, cả một kỹ nghệ phồn thịnh nẩy sinh từ nỗi đe doạ đó. Để trốn tránh hiểm nguy của một cuộc chiến mà đa số người dân không cảm nhận được chính nghĩa của nó - cái chính nghĩa đã trở nên vô-chính-nghĩa, phục vụ thiểu số cầm quyền thối nát, người ta, mạnh ai nấy tìm đủ cách để khỏi chết ngoài mặt trận. Người ta sẵn sàng xoay sở vay mượn để mua được những tờ giấy miễn dịch làm bùa hộ mạng. Kỹ nghệ làm giàu trên nỗi lo sợ này có một lãnh vực rất rộng, bao trùm một phần lớn của guồng máy tư pháp, hành chánh. Ngoại trừ một thiểu số trong sạch, đa số tham ô hiện diện khắp nơi. Người ta hối lộ cảnh sát, nếu bị cảnh sát bắt vì không giấy tờ hợp lệ, hối lộ toà án, nếu bị đưa ra toà xét xử. Luật sư là kẻ trung gian, giữa bị can và toà án, "nặn" tiền thân chủ được càng nhiều càng tốt, để vừa giữ lại cho mình, vừa chia chác với toà. Để lương tâm được an ổn, những người sống vì những "áp-phe" này, những ông toà ăn hối lộ, những luật sư đem tiền đến cho toà, tự biện minh là họ chỉ giúp những kẻ có tiền trốn nghĩa vụ, chứ không làm thiệt hại cho ai. Có khi họ còn coi việc làm của họ là việc làm phúc đức, cho dù động cơ cho hành động của họ chỉ là lòng tham. "Trăm sự nhờ luật sư giúp cho", "Xin ông chánh án làm ơn làm phúc tha cho cháu", v.v... là những câu đưa đẩy cho những kẻ nhận tiền khỏi bị lương tâm cắn rứt. Một kỹ nghệ đem lại giàu sang, uy quyền một cách dễ dàng, nhanh chóng như vậy, tất nhiên hấp dẫn nhiều người, và việc mua quan, bán chức lại là một khía cạnh khác của tham ô.
Hồi ấy, anh Sơn thuộc về giới người "khôn ngoan" trong kỹ nghệ làm giàu này. Như những con thiêu thân khác, anh theo đuổi cái khuôn mẫu phong lưu chói loà giữa thời buổi chiến tranh lan tràn, chết chóc bên ngoài cái tầm nhìn của thành phố. Khi sự sụp đổ của miền Nam xảy ra, sự khôn ngoan của anh Sơn không đủ để anh thoát khỏi nhà tù cộng sản, là nơi cộng sản dựng lên với mục đính chính là trả thù những kẻ thù ý thức hệ. Anh đã được một người quen bên Canada kể lại việc anh Sơn đi tù, nhưng hôm nay ghé thăm, anh muốn được nghe những kinh nghiệm bể dâu từ chính người trong cuộc.
Bước vào cửa tiệm, anh trông thấy một người gày gò, ngồi trên cái ghế bố dùng ngoài bãi biển, khuôn mặt khắc khổ mà anh không tìm thấy một nét quen thuộc nào. Anh biết ngay là anh Sơn, dù mái tóc dài thượt năm xưa bây giờ đã được thay bằng mái tóc húi ngắn. Sau lời tự giới thiệu của anh, và vài câu nhắc nhở về Hoà, chút bỡ ngỡ ban đầu tan đi, nhường lại cho cuộc nói chuyện thân thiết. Vợ chồng anh Sơn lấy nhau sau ngày cộng sản chiếm và sau khi anh Sơn đi tù về. Lẽ ra, nhiều người làm nghề luật sư thời cộng hoà, khi Việt cộng vào, cũng không đến nỗi tù tội, nhưng vì anh Sơn là đảng viên đảng Dân Chủ, trong khi người thư ký văn phòng anh là cộng sản gộc nằm vùng, anh Sơn được liệt kê trong danh sách đi tù. Tù được ba năm, bỏ trốn, bị bắt lại, thế là anh bị tù thêm bốn năm nữa. Cái mỉa mai mà chính anh Sơn xác nhận là, sự đi tù của anh không phải vì cái tội dự vào những sinh hoạt tham ô trước kia mà lại vì cái tư cách đảng viên đảng Dân Chủ, mà anh anh mới vừa gia nhập cho... hợp thời trang, chỉ mấy tháng trước ngày giải phóng! Đau là ở chỗ đó! Hình ảnh con người ăn chơi của anh Sơn năm nào, mà anh còn mơ hồ mường tượng, bây giờ không còn nữa, thay vào đó là những vết hằn đăm chiêu trên trán, những nét khắc khổ, hao hao như khuôn mặt Trịnh Công Sơn. Câu chuyện đi tù, nội dung tương tự như bao chuyện đi tù khác, được anh Sơn kể lại với giọng chua chát. Nỗi đắng cay vất vả sau khi được thả về, với những buôn bán lặt vặt lề đường, theo đuổi anh Sơn thêm nhiều năm nữa, cho đến khoảng mười năm trở lại đây, cuộc sống mới bắt đầu sáng sủa hơn. Hoà, thằng em, đã lấy vợ nhưng không ở gần đó, hai người em khác đã sang được Mỹ và đã làm giấy tờ bảo lãnh gia đình anh. Vợ chồng anh Sơn còn lưỡng lự chưa sốt sắng ra đi lắm, vì ngại chưa biết sẽ sinh sống ra sao bên xứ người. "Sang đó chắc chỉ đi cắt cỏ, mà cũng chưa chắc đã đủ sức mà cắt." Anh Sơn nói. Để anh Sơn đỡ bi quan, anh nhắc đến những khía cạnh sáng sủa của cuộc sống bên kia, đó là tương lai của hai đứa con gái anh, vừa tuổi đôi mươi, chúng sẽ vượt qua những khó khăn ban đầu như bao người trẻ đi trước khác. Khi chia tay với vợ chồng anh sơn, anh nhận thấy bầu không khí có vẻ lạc quan hơn. Anh Sơn nói:
- Có lẽ chúng tôi sẽ sang Mỹ tháng Mười năm tới. Dù sao bên đó cũng có nhiều cơ hội hơn cho hai đứa con tôi.
Anh quyết định sẽ rời Nha Trang sớm hơn dự định vì thời tiết khó chịu quá, có ở lại thêm cũng không làm được gì trong lúc thằng nhóc không khoẻ. Buổi sáng cuối cùng ở Nha Trang, mới sáu giờ, trời còn chưa có nắng, anh thả bộ ra bờ biển phía bên kia đường. Sau bao nhiêu năm sống xa cái nóng, bây giờ quay lại anh mới nhận ra sự hiện diện của nó, không như xưa kia, mùa Hè là mùa đạp xe đi chơi Thành, một vùng quê cạnh Nha Trang với vô số vườn cây ăn trái, hay đi ra biển để bơi, để lặn xiên cá, trong lòng đầy háo hức mà không bao giờ bận tâm về thời tiết.
Trước kia những hoạt động thể dục, thể thao được làm trong nhà riêng, hay tại sân vận động, hay những câu lạc bộ thể thao. Những câu lạc bộ này dành cho những người dư giả, có tiền trả những chi phí hội viên tốn kém. Họ chơi tennis, họ đấu kiếm, họ bơi lội, nhưng những câu lạc bộ đó được lập ra dường như để làm trọn vẹn hình ảnh của một giới người, đó là nơi để cho người ta khoe thời trang thể thao, nơi để cho người ta gặp gỡ nới rộng vòng giao thiệp, hơn là vì sức khoẻ. Ngày nay những sinh hoạt thể thao được đưa ra bãi biển, và trở thành quen mắt. Cái tính cách tập thể của sinh hoạt thể thao, sinh ra từ thời dân chúng bị ép buộc ra đường tập thể dục mỗi sáng, nói một cách công bình, còn để lại chút tàn dư hữu ích đến bây giờ. Nhưng điều lạ lùng là đất nước thanh bình đã ba mươi năm, cái tinh thần thể thao của dân chúng không được nhà cầm quyền khuyến khích thêm để đào tạo được một thế hệ mới khoẻ mạnh hơn. Ba mươi năm đã qua, niềm tự phụ của kẻ "đánh bại" đế quốc vẫn chưa được chuyển biến sang một chiều hướng khác, để người dân thực sự cảm thấy mình tài giỏi về những mặt khác hơn là tài chém giết.
Sáu giờ sáng bãi biển đã bắt đầu nhộn nhịp và trở nên đông đảo từng phút một. Người Việt có thói quen dậy sớm thể hiện cho sự cần cù, nhưng sao cái nghèo đói, lạc hậu cứ bám chặt lấy đời sống, trái với một câu ngạn ngữ tây phương "Tương lai thuộc về những người dậy sớm." Mặt biển mùa Hè phẳng lặng với những con sóng nhè nhẹ vỗ vào bờ, vì đây là một trong những tháng biển êm nhất trong năm. Anh rời bãi biển ghé vào tiệm ăn buổi sáng còn vắng, gọi ly cà-phê sữa nóng, thèm một chút lành lạnh mà không có, để ly cà-phê đem lại cảm giác ấm cúng. Sự yên tĩnh của quán cà-phê không kéo dài được lâu. Một anh chàng trẻ tuổi, với một thứ tiếng Anh trọ trẹ của một xứ nào đó trong Liên Hiệp Anh, bước vào, với chai bia trên tay. Chàng ta ghé ngồi xuống chiếc ghế trống trước mặt anh sau khi hỏi anh có phiền không. Anh lơ đãng đối đáp với anh chàng "Tây balô" này. Sáng sớm chưa kịp ăn mà bia đã nốc thế này, chỉ có thiên đàng Việt Nam mới có. Rượu bia rẻ mạt, tha hồ uống mà chẳng có ai cười, hèn chi rất nhiều người ngoại quốc mà dân Việt Nam gán cho cái tên "tây balô", chẳng xách "balô" từ một phương trời Tây sang đây, tất cả hành trang khoác trên vai, nay nhà trọ này, mai nhà trọ khác, tiết kiệm tối đa, để say sưa trong nhàn hạ. Anh tự hỏi khi trở về bên kia, họ sẽ sinh sống ra sao. Chắc họ sẽ nuối tiếc những tháng ngày rong chơi, không ai dòm ngó, nơi cái xứ nóng nực nhưng rẻ mạt đó lắm.
Rời tiệm ăn, anh thuê xe tìm về nhà cũ của anh. Con đường Đống Đa xưa kia yên tĩnh, toàn nhà ở, bây giờ vô số cửa tiệm mọc lên, trở thành khu buôn bán. Phía trước nhà bây giờ những cây leo che kín cả hàng rào và che kín hẳn ngôi nhà bên trong. Anh buớc lại cổng, nhìn qua những song sắt, nhận ra ngôi nhà cũ vẫn như trước. Cái phòng nhô ra phía bên trái có cửa mở ra hiên nhà là phòng của anh, mà bên trong từng món đồ đạc và vật dụng hiện ra rất rõ rệt trong trí anh. Cái bàn học kê sát cửa sổ nhìn ra đường, cái giường kê cạnh cửa sổ thứ hai nhìn sang nhà hàng xóm. Đối diện giường là tủ sách, cuối chân giường là cái đàn guitar dựng ở góc phòng. Cái giang san ngày mới lớn của anh đó, Nhóc tì ạ, nơi mà anh lén uống ly rượu đầu tiên, và lén hút điếu thuốc đầu tiên, bị ba anh bắt gặp. Một đêm, anh đang phì phà tập hút điếu thuốc, thì cánh cửa thông vào phòng trong lạch cạch mở, anh vội vàng dụi điếu thuốc vào gầm bàn. Hồi đó cái tục lệ gõ cửa trước khi bước vào phòng không hiện hữu trong gia đình anh, nên việc phi tang bằng chứng bị thiếu mất một giây, và cái vẻ lúng túng của anh chắc hẳn rất rõ rệt và buồn cười. Ba anh bước vào, hít hít mấy cái rồi nhẹ nhàng hỏi:
- Mày hút thuốc à?
Không chối được, anh đành nhận, nhưng ba anh đi ra không nói gì. Hôm sau anh đang ngồi học, ba bước vào, quăng một gói thuốc lên bàn, nói:
- Cầm lấy mà hút.
Cái tên gói thuốc lá Mỹ, Philip Morris, anh vẫn còn nhớ đến bây giờ.
Người đàn ông lặng lẽ dứng nhìn qua cánh cổng ngôi nhà cũ. Ý định đưa tay nhấn chuông cửa thoáng qua trong đầu, nhưng rồi bị gạt đi. Đã gần ba mươi năm rồi, nhưng biết đâu họ tưởng mình về đòi nhà, và một chút êm đềm xưa cũ có thể bị làm cho vẩn đục. Xin chào một lần cuối miền đất đã một thời nuôi dưỡng ta, đã nhìn ta lớn lên. Ta đã trở về để tìm lại bóng ngày qua, để rồi nhận ra rằng, không có em bên cạnh để chia xẻ, sự tìm kiếm đó như một giấc mơ không trọn vẹn. Những ngày đã qua sẽ không còn là những cái bóng, mà được hồi sinh trong anh, khi ta đi bên nhau, nghĩ cùng ý nghĩ, cố dằn xuống niềm yêu thương chỉ chực dâng trào thành những cái hôn ngấu nghiến.
Đà Lạt
Hôm sau, anh và con ra bến xe đi Đà Lạt. Chuyến đi khởi đầu bằng việc người tài xế nhồi nhét thêm hành khách không mua vé nhưng trả tiền thẳng cho tài xế. Hành khách đi xe kiểu này rẻ hơn vì không phải trả trọn tiền vé. Chiếc xe có thể chở được mười sáu người, bây giờ hơn hai chục. Sự bực bội của anh vì cái viễn ảnh bốn, năm tiếng đồng hồ trên băng ghế chật chội lại càng tăng thêm vì kiểu chạy xe bạt mạng của người tài xế trẻ. Anh tự trách đã tự mình đem giao sự an toàn của mình và con vào tay anh tài xế lái ẩu. Anh không đi bằng máy bay vì phi trường Liên Khương khá xa trung tâm thành phố Đà Lạt. Những ý tưởng hắc ám về những tai nạn xảy ra vì xe đò không được bảo trì đúng mức, chẳng hạn thắng xe quá cũ bị hư, bánh xe nổ vì đã quá mòn, v.v... cứ ám ảnh anh. Phải, ngay bên Canada, vấn đề xe vận tải vi phạm luật lệ an toàn từng được đặt ra, huống chi ở đây vấn đề thanh tra chắc chắn rất sơ sài. Nếu chỉ một mình anh, anh còn có thể tha thứ cho sự ngu xuẩn của mình, nhưng đàng này còn con anh... Anh định nói người tài xế ngừng lại giữa đuờng để anh tìm xe quay lại Nha Trang rồi đi bằng máy bay, hay bằng một cách khác. Anh càng tức bực thêm khi trông thấy trên băng ghế chật chội phía trước cạnh tài xế, gã đàn ông kia cứ dí sát cái mồm vào má "thằng" tài xế để nói qua tiếng ồn của xe, của gió, trong lúc "thằng" tài xế nhấn ga phóng xe như không có ngày mai. Anh đưa tay vỗ mạnh vào vai gã đàn ông dằn giọng:
- Này ông! Để cho anh ta chú tâm lái xe đi ông!
Gã đàn ông hơi giật mình, quay lại nhìn anh, rồi cũng ngưng nói, nhìn thẳng ra phía trước. Xe đi qua Cam Ranh, rồi Phan Rang, rồi bắt đầu đi lên đèo Ngoạn Mục. Qua đèo không nguy hiểm như anh đã trông đợi, vì xe phải chạy chậm trên con đường rất chật, nhưng thỉnh thoảng, "cái thằng tài xế ngu" vẫn lái văng mạng, không thèm giảm tốc độ ở những khúc quanh, hay những chỗ đỉnh dốc, không trông thấy được xe chạy ngược chiều. Đường đèo quanh co, có những chỗ từ trên cao nhìn xuống trông như cảnh trí của một hòn non bộ, nhưng anh chẳng có tâm địa nào để ngắm. Ngọn đèo vẫn như trong trí nhớ anh của lần đi từ Sài Gòn lên Đà Lạt một Tết năm xưa, lâu lắm rồi bằng xe anh Vương, anh của anh. Không khí càng lúc càng mát mẻ dễ chịu, rồi xe đến Bảo Lộc, đến núi Voi, làm anh hồi tưởng lại ngày còn bé cả nhà đi thăm một nông trại của một gia đình ông bạn của ba anh, với những món thịt hươu nai, heo rừng, thỏ, gà mà ông ta săn được. Xe đến Liên Khương, rồi cuối cùng Đà Lạt. Xe vào đến bến, anh cảm thấy nhẹ nhõm như trút được gánh nặng. Anh nhìn quanh cái bến xe xơ xác với cảnh buôn gánh bán bưng, kể cả cái lồng tre to thường dùng đựng gà, trong đó là những con chó con bị nhồi nhét chặt cứng, nghoẹo đầu, nghoẹo chân, mắt trợn lồi vì ép sát vào lồng, không cựa quậy được. Những con vật tội nghiệp có lẽ sẽ là những dĩa thức ăn trong mấy quán nhậu đặc biệt. Nỗi thống khổ của một loài thú gần gũi nhất với loài người nói lên nỗi thống khổ của những con người xung quanh chúng. Cái cảnh đầu tiên anh được chứng kiến khi đặt chân xuống thành phố cũ của thuở ấu thơ là thế đó Nhóc tì ạ.
Sau hơn hai tuần lễ ở Sài Gòn, Vũng Tàu, Hòn Đảo, và Nha Trang, anh đã thấy nhiều công trình kiến trúc mới, những khu giải trí, thiết kế theo khuôn mẫu tây phương, nhằm lôi kéo du khách, trong khuôn khổ của kỹ nghệ du lịch, một ngành kỹ nghệ chính của kinh tế Việt Nam. Người ta tiếp tục xây cất những trung tâm giải trí mới ngay cả ở hòn đảo còn đầy vẻ nông thôn mà anh đã viếng. Và Đà Lạt cũng không rơi ra khỏi trào lưu phát triển đó. Những công trình đầu tư lớn lao, vượt xa những kiến trúc sơ sài của ba mươi năm trước. Nhưng những khu giải trí tân kỳ ngày nay có cái vẻ quen thuộc đến nhàm chán của những khu tương tự bên trời tây, nên thăm viếng những nơi đó không để lại cho anh một chút hứng thú nào. Nghĩ cho cùng, khi mục đích của chuyến đi là đi tìm kỷ niệm, thì những gì mới lạ sau này, sẽ rất nhạt nhẽo đối với anh. Anh còn nhận ra rằng, ngay cả khi anh về những nơi đầy ắp quá khứ, dù có con anh bên cạnh, một nỗi khắc khoải, không nguôi ngoai, một nỗi cô đơn cứ bám lấy tiềm thức. Và anh đã biết nguyên nhân của nỗi cô đơn đó.
Nhóc tì ạ, anh có thể hình dung Nhóc tì sẽ vờ vịt nhướng mắt "ngây thơ" hỏi:
- Tại sao đi tìm kỷ niệm mà rốt cuộc lại cảm thấy cô đơn hở anh?
Anh sẽ đưa tay ra kéo em ngả vào lòng, lấy ngón tay ấn vào mũi em:
- Tại vì thiếu bò con đó. Đi tìm kỷ niệm hay đi xây kỷ niệm cũng cần có bò con bên cạnh anh bò con ạ!
Hôm thứ hai sau khi đặt chân đến Đà Lạt, anh tìm đến khu cư xá cũ trường Trần Hưng Đạo, khung cảnh đầy kỷ niệm ấu thơ của anh.
Trong cơn gió lành lạnh, vang tiếng cười rộn rã của những đứa trẻ cùng lứa, Huy xúng xính trong chiếc áo len ca-rô nâu và đen, cổ rộng, bên trong là chiếc áo sơ-mi, may theo kiểu riêng của mẹ, cổ cao như kiểu cổ áo dài, "để gió khỏi làm lạnh ngực, rồi ho", bên ngực trái của áo là một bộ phận quan trọng, không thể thiếu của bất cứ chiếc áo nào mẹ may, đó là cái túi "để cho Huy đựng lạc rang nóng hổi!". Cái cảm giác ấm nóng, đến độ gần như muốn bỏng da, của những hạt lạc mới rang xong trong cái chảo gang đựng cát, chưa tróc vỏ, chỉ trong chốc lát, trở thành hơi ấm toả ra thật dễ chịu, thấm qua lớp vải áo, thấm vào làn da ngực. Một túi đầy ắp lạc rang cũng kéo dài được bốn năm cuộc chơi đi trốn đi tìm, để rồi Huy lại chạy về xin mẹ thêm một túi nữa.
Huy dắt chiếc xe đạp nhỏ ra khỏi nhà, leo lên đạp đi kiếm thằng Kiên rủ chơi bi. Trên quãng đường lát đá quen thuộc "của mình" mà Huy vẫn đi qua hàng ngày, từ xa Huy đã thấy con bé Bích Vân đang loay hoay vẽ vẽ cái gì trên mặt đá. Huy đạp xe đến, tay bấm chuông liên tục, miệng hét "tránh ra, tránh ra mau!" Nghĩ là con bé sẽ sợ mà tránh sang một bên, ai dè, nó đứng lên gan lì dang hai tay chặn, như muốn... tự tử! Huy giảm tốc độ, nhưng vẫn đạp tới, và khi đến gần đành thắng mạnh vì Bích Vân vẫn đứng yên! Chiếc xe và Huy ngã lăn kềnh. Bích Vân bị đụng vào chân, chắc khá đau, rơm rớm nước mắt, đứng lên, tập tễnh đi vô nhà nó. Huy vừa hối hận, vừa sợ, dựng xe lên, đạp về nhà mình, rồi cất xe, thập thò nhìn sang nhà ông bà Bửu Vũ, ba mạ của Bích Vân. Một hồi lâu, thấy không động tĩnh gì, Huy từ từ đi ra để nhập vào bọn thằng Kiên, thằng Thạch chơi bi. Còn đang đứng đợi cho tụi nó chơi xong bàn bi, Huy thấy có người vỗ vai, quay lại thì ra bà Bửu Vũ. Bà nói:
- Con vào đây bác nói cái này...
Biết bà Bửu Vũ gọi mình vô vì chuyện gì rồi, Huy bẽn lẽn đi theo bà. Qua khỏi cửa, bà Bửu Vũ dịu dàng nói:
- Có phải con đạp xe tông vào Bích Vân không?
Vừa nói bà vừa cúi xuống vén ống quần Bích Vân lên chỉ cho Huy thấy vết bầm và xước da rơm rớm máu. Huy ngượng ngùng gật đầu:
- Vâng
Bà Bửu Vũ tiếp:
- Em nó đau lắm đó, con biết không?
Huy gật đầu lí nhí:
- Dạ biết...
Bà vuốt tóc Huy rồi nói:
- Lần sau con đừng làm vậy nghe.
Huy đáp:
- Vâng.
Bà Bửu Vũ đứng lên, Huy chào bà rồi đi ra, trong đầu còn vang vang giọng Huế dịu dàng của bà Bửu Vũ. Lần đầu tiên trong đời, một người không phải là mẹ mình gọi mình là "con", Huy nghe hơi là lạ. Bà còn gọi Bích Vân là "em" nữa! Xưa nay hai đứa cùng tuổi, học cùng lớp, thỉnh thoảng có việc gì bất đắc dĩ phải nói với nhau trong lớp, chẳng hạn Huy phải mượn tập vở của Bích Vân để chép bài khi ốm, và mỗi lần như vậy toàn "trò" với "tôi" trong lớp, và... "mày" vơi "tao", ngoài lớp, trao đổi mấy câu cụt ngủn, chứ có bao giờ nói với nhau được câu nào tử tế đâu, bây giờ bỗng nhiên bà Bửu Vũ gọi nó là "em" với mình, nghe vừa êm tai vừa ngượng nghịu...
Anh đứng dưới chân dốc nhìn lên ngôi nhà hai tầng, tường vôi loang lổ, mái ngói cũ kỹ nham nhở, mỗi góc cạnh của ngôi nhà gợi nhớ một kỷ niệm ấu thơ. Cái ban-công gỗ đỏ không còn nữa, nhưng nó là nơi anh Việt cùng Kim, người giúp việc nhà, hay dùng làm "vọng gác" nhìn xuống vườn sau canh chừng những con chó lạ lẻn đến vào ban đêm bắt và ăn thịt những con thỏ nuôi ở góc vườn. Nhóc tì à, em không thể tưởng tượng được nỗi háo hức của anh mỗi sáng nghe anh Việt và Kim kể lại việc hai người dùng đá làm "bom", từ trên ban công, ném đuổi những con chó ăn trộm đêm trước. Anh thèm được dự vào những cuộc "phục kích" đó lắm, nhưng không đêm nào anh chống được cơn buồn ngủ để thức cho đến lúc bóng đen của những con chó lạ vạch hàng rào chui vào, xuất hiện nơi góc vườn, để rồi sáng hôm sau lại ấm ức nghe kể lại diễn tiến của cuộc phục kích đầy hồi hộp của hai người đó, quá nửa khuya đêm hôm trước. Khu vườn sau cũng là nơi mỗi anh em chiếm một ô đất nhỏ trồng mỗi thứ một ít, từ hoa đến rau xà-lách, đến hành, đến cà rốt cho thỏ ăn. Việc trồng trọt khi đó thật dễ dàng. Dường như bất cứ thứ hoa trái, rau cỏ nào cắm xuống đất đều mọc lên rất nhanh. Bây giờ khu vườn đã bị lấp đi bởi mấy mái nhà lụp xụp. Khung cửa kính nhìn xuống vườn sau, nơi ba ngồi đọc báo mỗi đêm, cũng gợi nhớ một kỷ niệm khác. Đó là lần anh lên bảy tuổi, vì không được theo ba me ra phố, vừa khóc vừa dùng tay đập vào cửa ki’nh, không may làm kính bể, rồi bị ba đánh đòn. Anh như còn nghe tiếng gió của một mùa Đông năm nào, rít qua lá thông ngoài trời, trên mái nhà, và ập vào lạnh buốt mỗi khi cửa mở, để cảm nhận được cái ấm áp êm đềm dưới lớp chăn bông trong căn phòng ngủ, tay cầm quyển truyện trẻ con anh Việt mượn hộ ở thư viện công cộng trên đường Yersin, hay lấy từ chính cái thư viện nhỏ của anh Việt ở tầng dưới nhà. Trong cái buồng nhỏ vuông vức phía bên phải cửa ra vào, những quyển sách bọc cùng một thứ giấy dầu, giống nhau, trên gáy ghi số và tựa sách, xếp ngăn nắp trên những kệ đóng dọc theo tường, trông như một cái thư viện công thu nhỏ. Đối diện cửa thư viện là cầu thang đi lên tầng trên, có tay vịn cầu thang bằng gỗ rộng bản, đã bóng lại còn bóng thêm vì hàng ngày được chùi bởi đũng quần của mấy anh em nhảy lên dùng nó như một chiếc cầu tuột.
Trí nhớ anh ắp đầy những kỷ niệm về hồ Vạn Kiếp ở dưới kia, về những trưa hè theo anh Việt đi câu cá. Nhìn những con cá cơm to bằng đầu ngón tay vùng vẫy nơi đầu cần câu, hay giúp anh Việt làm thịt cá, bứt đầu, moi ruột, lăn bột, rồi chiên là những giây phút hãnh diện và sung sướng nhất của tuổi thơ.
Từ dưới đường nhìn sang phía trái ngôi nhà cũ của anh là quãng dốc cong dẫn lên cổng cư xá, nơi có nhà ông Bửu Vũ, bây giờ cũng xơ xác không tu bổ, anh như còn trông thấy bóng con Tô chạy xuống đón xe ba đi làm về, để rồi phóng theo sau xe cho đến khi xe ngừng hẳn. Khoảng đường cư xá giữa nhà Bích Vân và nhà anh, xưa kia rộng và quang đãng, bằng ba sân tennis ghép lại, đứng ở đó có thể ngó xuống hồ và tầm nhìn phóng đến tận những dãy đồi khu Mả Thánh xa tít. Bây giờ khoảng trống đó bị thu hẹp lại thành con đường hẻm, vì những túp nhà lụp xụp dựng lên sau này, kẽm gai vây quanh từng nhà. Nhà anh cũng như hầu hết những nhà khác trong cư xá đều được người Pháp xây cùng một kiểu. Mỗi nhà đều có hai tầng, có lò sưởi củi, mái ngói nhọn, một bên dốc, môt bên thoai thoải, đặc điểm của những nhà vùng cao nguyên. Khu cư xá rất rộng dành cho công chức, chiếm cả một vùng đồi thông. Bây giờ khung cảnh cũ đã biến thành một bức tranh bần cùng, buồn rầu. Tầm nhìn rất bao quát, khoảng khoát của thời ấu thơ, bây giờ bị che lấp bởi những chắp vá, rách rưới của những túp nhà gỗ ọp ẹp.
Anh chỉ cho Thiên những gì còn lưu lại của ngày còn bé của mình, chụp mấy bức hình có lẽ là những hình ảnh cuối cùng về quê hương để mang về bên kia. Anh và con lên chiếc xe taxi thuê, rời khu cư xá cũ trường Trân Hưng Đạo đi đến trường Bùi thi Xuân, trường tiểu học năm xưa của anh.
Trước kia trường Bùi thị Xuân gồm hai dãy nhà lầu hai tầng, một ở bên trái, một ở bên phải, giữa là sân cờ. Bây giờ có thêm một toà nhà hai tầng nữa hợp cùng với hai dãy nhà kia tạo thành hình chữ U. Những dãy hành lang nối ba toà nhà với nhau cũng là kiến trúc mới sau này. Thêm vào ba dẫy lớp học hai tầng là một nhà chệt văn phòng nằm trên khoảng sân trống ở giữa. Toàn thể ngôi trường vẫn sơn màu vàng nhạt như hồi xưa. Chiếc cổng trường vẫn y hệt như trong trí nhớ, nơi chị Ngọc và anh đợi ba đến đón mỗi buổi trưa, buổi chiều. Thực ra trường Bùi thị Xuân là trường nữ trung học, và là trường của chị Ngọc. Trường tiểu học của anh chỉ mượn tạm dãy lớp học phía bên phải cho bọn nhỏ. Đó là lý do tại sao hai chị em học chung trường, hay nói đúng hơn, trường của hai chị em tình cờ mà ở trong cùng khuôn viên. Những năm học đó anh luôn luôn một mình một trường vì các em được bố mẹ cho học trường tây với cái tên rất mộc mạc là Petit Lycée.
Anh lặng lẽ nhìn những dãy hành lang vắng lặng. Những bức tường hẳn đã được sơn nhiều lớp, và mỗi lớp sơn là một lớp thời gian, một lớp thế hệ học trò. Thật sâu bên dưới đó, là lớp sơn thời gian của thế hệ anh, hằn in những dấu mực để lại từ những bàn tay nhỏ vụng dại. Mỗi lớp có một vị trí nhỏ nhoi của nó giữa hai điểm vô cực âm và vô cực dương của thời gian. Anh đang sử dụng một thứ "xe thời gian" đưa anh về những năm tháng ấu thơ. Anh nhẹ nhàng gỡ đi từng lớp thời gian, làm hiện ra dần dần những hình ảnh, những giọng nói, tiếng cười năm xưa. Năm tháng như một thứ lăng kính càng ngày càng dày, mà ký ức và kỷ niệm lọc qua đó càng ngày càng trở nên tinh khiết.
Cô giáo lớp Hai là cô Linh hiền dịu, dường như không bao giờ biết nóng giận là gì, và không phạt đứa nào bao giờ. Có lẽ bọn tí hon ở cái tuổi học lớp Hai cũng chưa làm gì nên tội để bị phạt. Lần đó cô chỉ cười mà không la khi bắt gặp Huy đang ngửa cổ nhìn những hạt bụi li ti bay bay trong vạt nắng từ cửa sổ chiếu ngang đầu, và đưa tay khuấy cho những hạt bụi đó thêm quay cuồng trong giòng nắng.
Cô Oanh dạy lớp Ba trái lại, vừa dữ vừa đáo để. Dường như cô không khen thưởng đứa nào bao giờ, nhưng phạt thì cô phạt tận tình. Huy không hề bị cô phạt bao giờ, nhưng Huy đã sớm nhận thức được cái tàn nhẫn của cô lần cô phạt thằng Tiến. Ở vào cái tuổi mà đa số bọn con trai còn coi con gái như một thứ gì lạ lắm cần tránh xa, thì thằng Tiến không hiểu bị cái gì nhập vào người mà lén dùng phấn viết nghuệch ngoạc trên bảng một câu thật rùng rợn: "Em Đoan ơi, anh yêu em nắm". Đoan là cháu gọi cô Oanh bằng cô, cũng là học trò của cô, lại ở cùng nhà với cô. Không biết có phải vì vậy mà nó luôn luôn có tên trong bảng danh dự hay không. Thằng Tiến cũng chẳng phải thiên thần; nó vừa du côn, vừa ngỗ nghịch, và có lần Huy đánh nhau với nó vì thói du côn của nó. Ngoài thói du côn, nó còn là thằng nói bậy vô địch. Huy nhớ mãi cái dáng nó ngồi xổm chơi bi, hai đầu gối bẹt ra, rạp sát người xuống đất để nhắm cho chính xác, hai tay đưa thẳng ra phía trước, mắt nheo lại, chuẩn bị bắn viên bi, miệng hát một câu thật tục tĩu:
- Đời anh chỉ một l...........!
Cái chữ cuối cùng nó kéo dài ra cho đến khi viên bi được bắn bung ra khỏi tay! Thật là... mất dạy không thể tả, nhưng những thằng nhóc dứng quanh nó đa số nhỏ hơn nó vài tuổi, chưa... đủ trình độ để cười vì câu tuyên bố bất hủ đó. Hiển nhiên là câu khẳng định rất trần tục về cái nhân sinh quan của nó chẳng có liên quan gì đến ván bi cả.
Nó còn có tật nói ngọng và chính vì tật ngọng chuyển sang cả chữ viết, "anh yêu em nắm", nên nội vụ mới đổ bể. Khi cô Oanh bước vào lớp học, nhìn thấy giòng chữ đó, cô lập tức trừng trừng nhìn về phía cái thằng bắc kỳ nói ngọng duy nhất trong lớp là Tiến. Cả lớp cũng đổ dồn mắt về phía nó. Cô Oanh mang vở của thằng Tiến ra đối chiếu với tuồng chữ nghuệch ngoạc trên bảng và xác nhận nó là thủ phạm. Thế là màn hành quyết diễn ra. Đao phủ mà cô Oanh lựa chọn chính là con Đoan, cháu cô, đối tượng tình yêu của thằng Tiến. Cô bắt thằng Tiến nằm dài ra cái bục gỗ cô vẫn đứng trên đó để giảng bài, đưa cái thước dài cho con Đoan quất vào mông thằng Tiến mười roi. Cô Oanh đứng nhìn con Đoan quất thằng Tiến, miệng nói:
- Mới nứt mắt ra mà đã ăn nói bậy bạ.
Thằng Tiến có lẽ là con nhà nghèo, theo như sự quan sát của Huy về lối ăn mặc không lành lặn của nó, hẳn đã được cô Oanh dạy cho một cách rất tường tận bài học về sự khác biệt giai cấp giữa nó và con Đoan, cháu cô. Cô đã vạch cho nó thấy cái lằn ranh thật rõ rệt giữa giai cấp bần cùng của nó và giai cấp thượng lưu của cô. Sau này khi lớn lên và hiểu thế nào là cộng sản, là giai cấp, hình ảnh thằng Tiến, cô Oanh, con Đoan luôn luôn thấp thoáng trong trí Huy. Không biết rồi thằng Tiến có theo cộng sản? Và nếu nó theo cộng sản trở về gặp lại cô Oanh, không biết nó có còn thù cô? Hay cũng rất có thể nó là một đứa hời hợt, phổi bò không hề để tâm chuyện đọ
Một lần Huy và thằng Tiến đánh nhau. Huy đang chạy bị nó ngáng chân té nhào rồi nó còn đứng chống nạnh hất mặt một cách khiêu khích, ra cái điều "tao làm mày té đó, coi mày dám làm gì tao cho biết!"
Huy đứng lên phủi quần, xừng xộ:
- Mày muốn gây sự hả mày?
Nó nói giọng du côn:
- Ờ đã sao chưa?
Huy vừa tức vừa hồi hộp, tim đập thình thịch, nhưng tự ái không cho phép bỏ qua, nói:
- Mày muốn đánh nhau hả mày?
Nó ưỡn ngực tiến lại. Huy ước lượng tình thế thật nhanh và nhận thấy thằng quỉ này tuy hơn Huy vài tuổi nhưng coi bộ ốm nhách không đáng sợ, liền túm áo nó vật nó xuống đất. Ngay lập tức Huy cảm thấy cái gầy guộc yếu đuối của nó, và dư sức đè được nó nằm dưới. Dùng cánh tay chặn cổ nó, Huy hỏi:
- Mày chịu thua chưa?
Nó càng vùng Huy càng đè mạnh, cuối cùng nó đành nói:
- Rồi! Buông tao ra!
Huy thận trọng thả nó ra, đứng lên gườm gườm, đề phòng nó đánh lén, nhưng nó chỉ phủi quần áo lẩm bẩm một câu gì đó rồi bỏ đi. Sau lần đó, nó thỉnh thoảng lại hỏi mượn bài vở của Huy như không có chuyện gì xảy ra, và Huy cũng không thấy ghét nó nữa, mà chỉ thấy thương hại. Nghĩ cũng buồn cười cho nó. Đã ngọng còn viết bậy để bị lộ tẩy, đã yếu còn gây sự đánh lộn.
Tuổi học trò lớn lên, con trai thường không tránh khỏi những vụ đánh lộn như thế. Lan, em gái Huy có lần chứng kiến Huy đánh nhau với một thằng bắt nạt các em mình. Về nhà Lan kể lại cho mọi người nghe rồi cười hí hí ra vẻ thích thú lắm. Dường như con gái có một cái nhìn rất bình thản đến kỳ lạ về việc bọn con trai đánh lộn. Đối với con gái, đó là một điều đương nhiên phải có của bọn con trai, và có vẻ khôi hài nữa, nhưng có biết đâu mỗi lần bất đắc dĩ phải đánh nhau như vậy, Huy hồi hộp lắm chứ có phải trò đùa đâu.
Những năm tiểu học của Huy, hình như cứ cách một năm lại có thày giáo hiền, một năm lại có thày giáo không hiền. Sang đến năm lớp Bốn, cô giáo của Huy là cô Linh, vừa đẹp vừa hát hay. Không hiểu cái gì đã khiến Huy nghĩ là cô Linh đẹp, nhưng ấn tượng về cô lúc đó và về sau luôn luôn là như vậy. Ông Đức dạy lớp Năm, tức là lớp cuối của bậc tiểu học, thì "mặt mũi nham hiểm như một thằng cộng sản", như có lần Huy thoáng nghe ba nói với mẹ và ba không biết là Huy đứng gần đó nghe được câu nói của ba về ông thày mình. Huy không biết mặt mũi "thằng cộng sản" như thế nào, nhưng cũng có nhận xét của riêng mình về ông thầy này. Ông ta, miệng luôn mím chặt, nói toàn những câu đạo đức, nhưng mắt thì hấp háy con bé Trang, trưởng lớp xinh xinh, học giỏi. Con bé này lớn hơn hầu hết các bạn cùng lớp vài tuổi, nghĩa là khi ấy nó khoảng mười ba, cái tuổi trổ mã của con gái, cao nghều, ra dáng thiếu nữ, trong lúc lũ con trai còn ngây ngô, lem luốc.
Nhìn những dãy hành lang vắng lặng, anh tự hỏi những đứa bạn ấu thơ bây giờ ở đâu. Thằng Kiên "ghẻ", thằng Thạch "đùn", con Đoan, con Thi, con Bích Vân, chúng mày bây giờ ở đâu? Bây giờ một lũ già gặp lại nhau "mày mày, tao tao" chắc lạ lắm.
Cũng chiếc taxi thuê bao đó đưa hai bố con đi đến đồi Mộng Mơ, một khu giải trí mới. Khung cảnh thiên nhiên tươi mát chen lẫn những kiến trúc nhân tạo ngoạn mục, những vườn hoa, những suối nước, những nhà sàn mái nhọn kiểu Thượng, và cả một đoạn Vạn Lý Trường Thành thu nhỏ. Đồi được chia ra nhiều khu, mỗi khu được đặt tên của một thi sĩ hay một cái tên thơ mộng nào đó. Biết Nhóc tì cũng yêu thơ và biết nhiều về thơ như anh, anh chọn cái vườn mang bảng Hàn Mặc Tử để chụp hình khoe em, và yên tâm là em sẽ không hỏi "Hàn Mặc Tử là cái gì hở anh?" Nhìn những cảnh đẹp kia, anh không thể tìm ra điều gì đáng chê, nhưng đó là cái đẹp mà anh nhận biết bằng trí óc, mà không cảm thấy bằng tâm hồn.
Rời Đồi Mông Mơ, xe đưa hai bố con đến Thác Cam Ly. Anh và Thiên leo lên lưng hai con ngựa ốm o, chụp qua loa vài cái hình, ghé vào mấy cái quán bán đồ lưu niệm rồi ra về, giã từ con thác nhỏ và cái mùi nước cống rất nặng đó. Tổng cộng thời gian ở thác Cam Ly chỉ chừng hai mươi phút.
Anh yêu cầu ông tài xế taxi đưa đến Dinh Bảo Đại, xưa kia là nơi nghỉ mát của vị vua cuối cùng của Việt Nam. Bầu không gian bên trong ngôi dinh thự đem lại cho anh một cảm giác vừa an bình vừa ngậm ngùi. Khách sảnh, văn phòng của vua Bảo Đại, phòng đọc sách của Nam Phương Hoàng Hậu, phòng họp mặt buổi tối của gia đình, phòng của các công chúa, phòng của hoàng tử Bảo Long, lầu thưởng nguyệt, từng phòng, từng phòng, dư âm của một thời vương giả như còn vang vọng đâu đây. Năm xưa, có lẽ cũng một buổi chiều tĩnh mịch như chiều nay, bầu không gian đã được rót đầy bởi những cung nhạc thánh thót từ chiếc dương cầm cổ kính kia, hay được đong đầy bằng những tiếng cười trong trẻo, vô tư của bầy trẻ vương giả. Tuổi ấu thơ luôn luôn nhiệm mầu dù vây bọc bởi vàng bạc, nhung lụa, hay ấp ủ trong mái tranh nghèo đồng quê. Cũng qua khung cửa kính viền màn trắng mỏng này, những trú nhân hoàng gia khi xưa đã nhìn xuống vườn hoa, lối sỏi dưới kia và hẳn cũng nghe hồn lắng xuống như người khách tìm về cố hương này. Hồn người xưa như còn phảng phất đâu đây bên những di vật cũ kỹ, những bức ảnh xưa màu xám u buồn. Những con người vương giả đó hẳn đã trải qua bầu không khí ảm đạm của buổi hoàng hôn một triều đại, niềm xôn xao của buổi giao thời, trạng huống bất an của vận nước đổi thay. Cũng là con người như hàng triệu con người khác, họ cũng không thoát khỏi sự chi phối của cái lẽ vô thường.
Dinh Bảo Đại là nơi cuối cùng anh muốn đi thăm trong những ngày ở Đà Lạt. Anh yêu cầu người tài xế taxi đưa hai bố con đi về trung tâm thành phố rồi anh sẽ trả tiền cho ông ta đi về, mặc dù còn thừa thì giờ. Khách sạn cũng nằm gần đó và hai bố con có thể đi bộ được. Anh nói với Thiên:
- Khi đến khu Hoà Bình, bố sẽ chỉ cho con cửa tiệm cũ của bà nội.
Hôm trước, Thiên hỏi anh:
- Bố nói hồi trước nhà bố nghèo hơn nhà mẹ, vậy bà nội có phải buôn bán như thế này không?
Vừa nói nó vừa đưa hai cánh tay ngang vai như người cử tạ. Khi thấy anh tỏ ra chưa hiểu, nó giải thích:
- Bà nội có phải bán hàng từ hai cái rổ như thế này không?
Nó làm lại động tác "cử tạ" mà bây giờ anh đã hiểu nó muốn tả người gánh hai thúng bằng đòn gánh. Anh cười vì cách diễn tả của nó:
- À, bố hiểu rồi. Không con ạ, hồi đó ông nội làm công chức như bao nhiêu công chức khác, tuy không giàu, nhưng cũng không túng thiếu. Khi bố học lớp Ba, bà nội nắm lấy cơ hội làm đại lý buôn gạo sỉ, lúc đó còn ít cạnh tranh. Việc làm thương mại là ý thích của bà nội, chứ nếu không có cửa tiệm, nhà mình vẫn đủ sống. Nhưng nếu năm 1975 nhà mình không "đi" được, chắc mình cũng khó thoát khỏi cảnh bần cùng như bao nhiêu gia đình khác, và chắc cũng phải buôn gánh bán bưng cực nhọc mà thôi.
Chỉ là một thắc mắc giản dị của nó, nhưng anh chợt nhận ra là từ trước đến nay, anh đã thiếu sót trong việc nói cho nobiết những điều thông thường về nguồn gốc gia đình mình mà ai ai khi đến một tuổi nào đó cũng muốn biết. Anh nói tiếp:
- Con đã biết khá nhiều về gia đình bố, nhưng hình như con biết rất ít về gia đình mẹ. Hồi trước, ông ngoại có chức vụ cao trong chính phủ, nên gia đình mẹ rất sung túc. Mẹ và các bác đều được ông bà ngoại cho học trường tây, mẹ đi ngoại quốc rất sớm. Ông ngoại rất thanh liêm, không bao giờ nhận tiền đút lót, dù có rất nhiều dịp. Những người có chức vị thua ông ngoại rất nhiều cũng có thể làm giàu dễ dàng vì tham nhũng. Có một sự việc khá đặc biệt trong sự nghiệp của ông ngoại là lần ông ngoại được phong quân hàm đại tá hải quân danh dự, ngang hàng với chức tư lệnh hải quân bấy giờ. Ông ngoại là dân sự, nên ông ngoại cần có đủ cấp bậc và danh nghĩa để có toàn quyền điều khiển một dự án đặc biệt khai toả thương cảng Sài Gòn. Và đó là mục đích của việc ông ngoại được phong quân hàm đại tá. Khi về lại Canada, bố sẽ cho con xem những hình ảnh xưa kia ông ngoại đi kinh lý cùng tổng thống và bộ trưởng đương thời, và cả những hình chụp ông ngoại duyệt binh với tư cách chỉ huy trưởng danh dự hải quân.
Đến khu Hoà Bình, xe thả Thiên và anh xuống một hè phố. Trả tiền cho ông tài xế xong, anh đưa mắt tìm kiếm và nhận ra cửa tiệm cũ của nhà nằm giữa khu phố đối diện chợ Hoà Bình. Cái tên Yên Sơn cũ, dĩ nhiên chẳng còn. Hồi đó cửa tiệm là nơi cả gia đình anh lui tới ban ngày. Mấy anh chị em đi học, ba đi làm, buổi trưa ghé về đó nghỉ ngơi, ăn uống trên lầu. Ban đêm, khi tiệm đã đóng cửa, thường thường, cả nhà quay về nhà ở khu cư xá trường Trần Hưng Đạo. Nhưng mỗi khi mấy anh em được ba me cho phép ngủ lại tiệm, đứa nào cũng khoái vì được thức khuya và tha hồ tung hoành trên lầu trên! Anh chỉ cho Thiên cái ban công tầng trên của tiệm, kể cho nó nghe kỷ niệm những đêm trời lạnh, khi các bác của nó hay buộc giây vào một cái ca bự thả xuống hè phố mua bánh mì nóng ròn của những thằng bé bán bánh mì dạo. Làm như vậy để không phải chạy xuống tầng dưới mở cửa tiệm để mua bánh. Những cái bánh mì nóng hổi vì được ủ kỹ trong cái bị dày, vác oằn vai của thằng bé bán dạo, khi lấy ra, toả mùi thơm phức. Mùi bánh mì năm xưa như đã ăn sâu vào trí nhớ riêng của khứu giác. Sau này mỗi khi đi ngang lò bánh mì hay tiệm bánh ở bất cứ đâu, mùi bánh mì mới ra lò bao giờ cũng đưa anh về những kỷ niệm năm xưa. Khứu giác cũng tương tự như thính giác, có trí nhớ riêng của nó. Một bài nhạc nào đó có thể trở nên gắn liền với một quãng đời đã qua, để rồi mỗi khi tình cờ nghe lại, một cảm giác bồi hồi của riêng một thời quá khứ lại trở về.
Đà Lạt bây giờ đông vui tấp nập, nhưng cái nét thanh lịch thường được gán cho Đà Lạt năm xưa, không còn nữa. Thay vào đó là một đời sống vội vàng, bươn bả, đem lại sự giàu có cho một lớp người mới, mà tiền bạc của họ chỉ làm nổi bật thêm sự thiếu thốn văn hoá. Hai bố con đi bên nhau, hiển nhiên là Thiên tò mò và đang làm quen dần với khung cảnh và sinh hoạt xung quanh nó, nhưng chính anh cũng cảm thấy mình đang bước những bước lạc lõng.
Từ những món ăn uống, anh cũng không tìm được một sự quen thuộc nào. Các món ăn dường như chỉ mang cái tên quen thuộc, nhưng mùi vị thật lạ lùng. Bước vào một tiệm bánh lớn, với đủ mọi thứ bánh trông rất ngon, nhưng nếm thử ba bốn thứ khác nhau, anh không nhận ra một mùi vị quen thuộc nào. Em biết anh là là một người không cầu kỳ mà, phải không Nhóc tì? Cái bánh nhân tôm thịt, bột dính dính và trong, mà mẹ anh gọi là bánh quai vạc, anh mua về khách sạn, cắn vào khô lăn khô lóc, em tưởng tượng chán thế nào. Cái bánh pâté chaud trông đẹp mắt lắm, cắn vào có mùi lạ lạ. Còn vài món giản dị khác nữa, mà món nào nếm thử anh cũng thấy không quen. Các tiệm ăn mà anh ghé vào thì tiệm nào cũng làng nhàng, không thể bằng những tiệm Việt Nam bên Canada. Những món ăn ở nhà hàng lớn nhất, anh quên mất tên, nằm trên chỗ đỉnh cao, nơi du khách đến mua vé đi xe cable băng ngang núi ngắm cảnh Đà Lạt, các món ăn không có gì đặc biệt, nhưng dầu sao cũng hơn những nơi khác ở chỗ thiếu cái mùi tanh tanh đến từ mặt bàn, và ngay cả từ trong nhà bếp. Khi mà các món ăn đặc biệt về cá, như lẩu cá, gỏi cá chẳng hạn, được kêu, thì khứu giác của anh lại càng bị tấn công dữ dội bởi cái mùi cá. Thiên nhà ta thì lúc nào cũng lịch sự có thừa lúc có bạn bố ở đó, món cá nào dọn ra cũng nói ô kê, nhưng anh biết cu cậu cố gắng hết sức để khỏi làm mất lòng bạn của bố. Nó là thằng không ăn thịt, chỉ ăn cá, nhưng không thể chịu đựng nổi các món ăn có cá vớt ra từ cái nồi nước dùng đun sôi, bốc mùi tanh thay vì mùi thơm, quấn chung với những thứ rau bờm xờm trong cái bánh tráng, lóng nga lóng ngóng, chấm vào cái thứ nước chấm màu tím tím, đục đục, có cái mùi mà nó không biết phải so sánh với mùi gì. Bố nó dĩ nhiên đã quen thuộc lắm với những món mắm nêm, mắm tôm, chứ nó thì chắc đang trải qua một cú khủng hoảng... văn hoá! Trong một tuần lễ ở Đà Lạt, chỉ có hai lần anh ăn ngon, đó là lần ăn phở vào buổi sáng hôm sắp đi Sài Gòn, và một lần ăn bánh giò của bà cụ người bắc trên đường Phan Đình Phùng. Những cái bánh giò bên Canada chưa bao giờ được như vậy. Còn một tiệm bán bánh bao ngon nổi tiếng cũng nằm trên đường Phan Đình Phùng thì anh đến hơi trễ một chút, người ta đã bán hết. Chỉ là một khía cạnh của chuyến đi, dĩ nhiên về thăm quê hương chẳng phải để ăn.
Trở về khách sạn, anh bắt đầu thấy khó chịu, nôn nao, triệu chứng giống như Thiên lúc ở Nha Trang. Chỉ cần nghĩ đến bất cứ món ăn hay thức uống gì cũng đủ để anh cảm thấy những gì còn lại trong dạ dầy muốn dâng lên cổ. Chỉ mới ngày thứ hai ở đây mà đã thế này rồi thì còn làm ăn gì. Anh mang vài thứ thuốc mang theo ra uống rồi nhấc phôn gọi cho Cát, anh chàng bác sĩ xưa nay vẫn nổi tiếng đẹp trai như Mạc Đĩnh Chi. Anh chàng chắc sẽ trách mình sao không gọi ngay khi đến.
 

Xem Tiếp: ----