Sáng nay bầu trời bỗng dưng có vẻ như buồn bã ủ rũ không vui, khí trời lành lạnh, mặt trời như còn rã rượi say ngủ sau những hàng mây xám dăng dăng từng lớp mỏng, đã hơn 9 giờ sáng rồi mà ánh bình minh vẫn chưa lố dạng, tôi thì cũng đã quá mệt mỏi suốt bao ngày mong đợi, nhất là tối qua, tôi không thể nào chợp mắt vì cứ mãi hồi hộp âu lo, chỉ cầu mong cho đêm chóng qua và mau đến giờ tôi đang mỏi đợi.Theo sự ước hẹn thì sáng hôm nay ngày 18 tháng 11 năm 1984, khoảng 11 giờ sẽ có người đến nhà để đưa tôi đi vượt biên được phát xuất từ Bà Rịa Vũng Tàu, mọi thứ tôi đã chuẩn bị xong, nói thế chứ thật ra chỉ có vài gói thuốc lá, vài viên thuốc say sóng và khoảng hơn mười ngàn đồng để phòng hờ khi có rủi ro gì đó thì có chút tiền để lo lắng và đi xe về nhà, đã có hơn một lần đi vượt biên không thành, nên tôi cũng có chút ít kinh nghiệm để đối đầu với sự việc không may, nếu có xẩy ra.Còn hơn mười phút nữa là 11 giờ thì Quân người dẫn đường đến, tôi và Quân không còn xa lạ gì vì chúng tôi đã quen biết nhau qua những lần trước, tôi đón Quân vào nhà rồi cẩn thận đóng cửa -Chuẩn bị xong chưa (Quân hỏi)-Chỉ có vầy thôi,có gì nữa đâu mà chuẩn bị-Bận thêm áo khoát đi,nếu không sẻ bị lạnh đó-Tôi có mặc áo lót bên trong rồi,xóm nầy họ tai mắt lắm,đánh mùi cũng hay nữa,cẩn thận là hơn-Vậy mình lên đường nha-ỪTôi cùng Quân bước ra ngoài, Quân có vào nhà tôi vài lần nên cũng không làm cho hàng xóm chú ý lắm, dân Sài Gòn lúc nầy là thế đó cứ thấy có người lạï vào thì hay nhìn một cách soi mói rồi bàn tán, chẳng qua chỉ vì họ không có việc chi để làm, ra tới ngã ba đường Quân gọi một chiếc Honda ôm vừa chạy trờ tới-Ra bến xe Văn Thánh, chở hai người được không?-Ðược, ba ngàn nghe ( người xe ôm nói)-Gì dử vậy cha nội, ngàn rưởi đi không? (Quân nói)-Rồi lên điTừ Bến Chương Dương ra đến bến xe Văn Thánh cũng không lâu lắm, nhưng tôi phải ở đây hơn nửa tiếng nữa vì phải chờ thêm vài người khác, đến khi Quân kêu lên xe, tuy rằng không ngồi chung nhau nhưng tôi đoán có khoảng 6 người đi cùng chuyến. Tới chợ mới BàRịa khoảng hơn 3 giờ chiều Quân đưa chúng tôi vào quán ăn cơm, nhưng chia ra ngồi hai bàn và xem như là không quen biết nhau, quán ăn gần đồn công an số 1 Bà Rịa nên bọn công an cứ đi tới lui làm tôi cũng chói mắt, ăn uống xong Quân đưa bọn tôi vòng qua rạp hát Bà Rịa rồi vào một xóm nhỏ, nhà cửa san sát cây cối um tùm (sau nầy tôi hỏi thì người ta cho biết đó là xóm đình chợ mới Bà Rịa). Khi đồng ý giá cả phải trả cho chuyến đi vượt biển nầy, tôi được Quân cho biết là có mua bãi bến hết rồi, chỉ là cẩn thận thôi cho nên tôi cũng an tâm, Quân đưa bọn tôi vào một căn nhà lá thấp lè tè phía sau căn nhà lớn ( hình như là nhà của Quân tôi nghĩ) nhà có vẻ vắng và yên tịnh, Quân nói giọng nho nhỏ-Bây giờ ở đây nghĩ, khoảng 8 giờ tối mình xuống bến gheSáu người chúng tôi không ai trả lời chỉ im lặng đưa mắt nhìn nhau, rồi mỗi người một nơi tìm chỗ nghỉ lưng, tôi đến một lu nước bằng đất cạnh gốc nhà, lấy cái lon sữa bò để bên trên múc chút nước uống, cho thắm cái cuống họng của tôi đang bị khô cháy, người nhắm mắt để đó, kẻ mỏi mắt trông chờ, mỗi người như đang thả dòng tư tưởng vào một cõi xa mơ nào đó, thời gian thấp thỏm trôi qua, bầu trời đà sụp tối, được thay bằng những bóng đèn đường vàng ói, leo lét, ánh sáng chỉ đủ để soi những bóng đời mờ mịt trong một xã hội đầy đen tối nầy, có tiếng chân bước vào, tôi nghe tiếng nói của Quân giọng xù xì nho nhỏ -Chuẩn bị đi nghe bà conSau Quân còn có hai người khác theo vào, họ im lặng không nói gì, Quân mang cho mỗi người chúng tôi mỗi ổ bánh mì rồi bảo-Ăn bánh mì đi rồi xuống bến, nếu không thì bị đói đóTôi không thấy đói bụng chỉ thấy tâm hồn cứ lâng lâng lo lắng sợ sệt, tim thì cứ đập thình thịch, tôi cũng ráng nuốt ổ bánh mì khô khan mà không có một chút cảm giác ngon hay dở, ăn uống xong đâu đấy sáu người chúng tôi được chia ra làm hai đi theo hai người Quân vừa dẫn đến, đường đi khá xa, sáu người chúng tôi sau cùng cũng được đưa vào một điểm. Vẫn lại là khu nhà lá nghèo nàn ẩm thấp (sau nầy tôi được biết đó là xóm lò than Bà Rịa) trời tối đen mù mịt nơi đây không có đèn đường vì là khu vực rừng sác, có chăng chỉ là những ngọn đèn dầu leo lét, trong những căn nhà lá thấp lè tè thưa thớt cạnh bờ sông và có thêm một loại ánh sáng bàn bạc nhấp nhô từ những lọn sóng nhỏ lăn tăn trên mặt nước của con sông, tạo nên một vẻ mờ mờ ảo ảo giữa đêm trường tịch mịch đầy đen tối. Căn nhà lá chúng tôi vào, nằm cạnh bờ sông, cho nên tôi nghe được tiếng nước đập lách tách bên bờ, trong số sáu người chúng tôi, được kêu bốn người trong đó có tôi, ra sau nhà rồi xuống một chiếc ghe nhỏ nhắn nằm sát cạnh bờ sông, chúng tôi phải nằm sát trên ghe và được phủ lên người bằng những tấm lưới tanh hôi mùi tôm cá, hòa lẫn mùi bùn sình nước mặn, hăng hăng đến độ muốn buồn nôn, rồi có người chèo thuyền đưa chúng tôi ra khu rừng sác phía ngoài cầu mới Bà Rịa. Ði một khoảng lâu, sau đó người chèo thuyền dừng lại ở một gốc của con sông nhỏ có vài gốc cây đước già nua bên cạnh một cây bần to lớn rồi nói với chúng tôi-Nằm im nghe,chờ tới giờ thì qua tàu lớn Tôi nằm im chờ đợi, mình mẩy như có con gì đó đâm chích vào, làm ngứa ngáy cảm giác thật khó chịu nhưng không làm cách nào khác hơn là cứ nằm im chịu đựng,tôi vạch nhẹ tấm lưới trên mặt, nhìn lên vòm trời cao thanh thỏa với lưa thưa vài chiếc sao đơn trong vòm trời vắng, chiếc ghe thì cứ lắc lư nhè nhẹ, tiếng nước vỗ vào mạn ghe nghe lách tách,vài tiếng côn trùng hòa lẫn tiếng tim đập thình thịch trong lòng ngực tôi, tạo nên một loại âm thanh kỳ lạ nào đó văng vẳng vang vang mà cả đời tôi chưa một lần nào nghe được. Thời gian thoi đưa, tôi chợt nghe có một tiếng là lạ như là để báo hiệu gì đó, thì chợt tiếng động lụp cụp trên ghe vang động và tiếng chèo khua nước một cách mạnh mẽ, tôi có cảm giác chiếc ghe nhỏ tôi đang nằm, được lướt trên sông với một tốc độ thật nhanh, rồi những tiếng rì rào của nhiều người to dần to dần, thì ra chúng tôi đã đến thuyền lớn, tiếng la ó ồn ào, tiếng kêu réo gọi nhau, tiếng thét gào rên rỉ, gây ra một âm vang hỗn độn trên giữa dòng sông vắng, tôi được lên thuyền lớn sau khi đưa ra một tín hiệu riêng mà người ta đã trao cho tôi lúc tôi giao vàng để đi vượt biển, càng lúc càng đông người hơn, nhiều tiếng kêu la hơn-Mấy thằng canh me, dm/ tụi bây đi xuống-Anh là khách của ai?-Ai đưa anh tới?-Mầy canh me hả?-Leo xuống-Anh ba ơi-Anh Bẩy ơi-dm/tao đập bể đầu tụi bây bây giờ-Nhổ neo đi,khẩm quá rồi-Tàu chìm bây giờ -.. v. v....tiếng la hét,chưởi bới vẫn tiếp tục vang vang,tiếng của người trên thuyền xua đuổi những người canh me đi hôi và đang gây hỗn loạn.Tôi bị nhét dưới hầm thuyền áo quần đã bị thấm ướt, chẳng những không lạnh mà còn ngộp thở bởi hơi người bốc ra nồng nực, thuyền lớn rồi cũng từ từ lướt sóng, tôi nhìn đồng hồ lúc nầy là 0 giờ 16 phút ngày 19 tháng 11 năm 1984, tôi nghe tiếng nổ ròn tan của máy tàu,tiếng nổ như để tạo một sức mạnh phi thường, để đưa con thuyền viễn xứ từ từ lướt sóng ra khơi. Bỏ lại tất cả yêu thương của cuộc đời, bỏ lại một quê hương đang quằn quại trong sầu đau khổ hận, bỏ lại người cha kính mến, anh chị em những tình thân ruột thịt và người mẹ vô cùng thương yêu, người mẹ đã từng gánh chịu biết bao gian khổ, cưu mang sinh dưỡng để tạo nên hình hài vốc thể nầy. Tôi không khóc nhưng hình như những giọt lệ thương yêu đang tức tưởi lăn tròn trên má, lúc nầy tôi không còn nghe tiếng động nào ngoài tiếng máy nổ của con thuyền, hòa với nhịp đập của tim tôi, mọi vật đều im lặng, im lặng một cách tự nhiên không cần ai nhắc nhỡ, sau một thời gian ngắn lắng dịu,con thuyền bềnh bồng mỗi lúc mỗi mạnh hơn -Chắc là thuyền đã ra cửa biển Vũng Tàu cho nên bị sóng biển nhồi khá mạnh (tôi nghĩ)và đúng vậy, con thuyền đang bắt đầu cho cuộc hành trình mà chắc rằng sẻ gian nan vất vả và những sự đau thương, sống chết đang chực chờ trên vùng biển đông xa thẳm để áp đổ xuống đầu những thuyền nhân khốn khổ trên đường vượt biển, sau khi trải qua một cuộc dun rủi dưới những đoạn đường lo âu hồi hộp trên mặt đất.Mệt mỏi vì có chút say sóng, tôi ngồi vùi dưới khoang thuyền mãi đến xế chiều tôi mới được lên trên khoang thuyền để nhìn trời mây nước, thuyền đang lướt sóng bỗng đâu biển trời giận dữ, những cơn gió hung bạo, những đợt sóng to cuồng nộ nổi lên, thuyền không còn lướt sóng được nữa và cứ bấp bênh, bềnh bồng xoay vòng một chỗ, mọi người phải vào bên trong và xuống dưới khoang thuyền để tránh cơn sóng dữ cũng như để cho con thuyền đừng bị chao đảo với những con sóng to hung bạo, cuốn chồm lên và sẵn sàng nhận chìm con thuyền ở bất cứ lúc nào, tiếng la sợ, tiếng nguyện cầu, tiếng lạy phật, tiếng lạy chúa và những câu kinh cầu nguyện nho nhỏ chứa đựng một niềm tin hy vọng bao la của con người trước một cảnh tình cực kỳ nguy hiểm cho mạng sống. Bây giờ thì con thuyền có ra thế nào và mạng sống của bao nhiêu người chỉ còn trông nhờ vào sự kinh nghiệm lèo lái con thuyền trước cơn bão dử của người tài công, cứ như thế con thuyền phải chịu đựng cho đến ngày thứ hai thì biển trời lắng dịu và con thuyền mới tiếp tục được cuộc hành trình như đã định. Nhưng thuyền phải trả giá hết một mạng người lúc giữa đêm bão ngày thứ nhất, bão đã đánh rớt một người xuống biển và cuốn trôi mất trong lòng biển sâu mà không ai làm sao cứu kịp dưới trời đêm bão nổi Trời êm gió lặng tôi lên mũi thuyền hướng mắt về bốn chân trời xa thẳm chỉ thấy toàn mây nước, và chợt thấy con thuyền thật mong manh trên biển cả, từ dòng nước xanh lơ rồi đậm dần, đậm dần cho đến khi thuyền đến một đường nước xanh đen thăm thẳm thì một số người trên khoang thuyền reo lên -Ra tới hải phận rồi, ra tới hải phận rồi bà con ơi Mọi người như quên đi cảnh tượng hãi hùng của cơn bão vừa qua, niềm vui rộn rã hiện lên từng nét mặt xanh xao mòn mỏi, tôi cũng rất vui mừng trong lòng nhưng lúc nào cũng cầu nguyện cho thuyền đừng gặp hải tặc, đó là một bọn cướp biển hung hăng tàn bạo hơn cơn bão táp, thế là thuyền vui lướt sóng, trên thuyền thức ăn thức uống cũng như dầu để chạy máy vẫn còn đầy đủ, đến chiều ngày thứ 3 của cuộc hành trình thuyền chúng tôi đến được một giàn khoan dầu của Malaysia, sau khi bàn tính thì có người tình nguyện lội vào giàn khoan để nói chuyện và xin họ cứu vớt, nhưng những người nhân viên nầy nói họ không có phương tiện để cứu vớt trong lúc nầy, sau đó họ cho thêm dầu chạy máy, bánh để ăn và sửa để uống, cuối cùng họ chỉ cho hướng đi vào đất liền và nói -Chạy khoảng hơn mười tiếng đồng hồ nữa là đến nơi Và kèm theo một câu để trấn an mọi người-Nơi đây đã thuộc lãnh hải của Malaysia rồi không bị cộng sản bắt lại đâuTheo hướng chỉ của người chuyên gia dầu hỏa, thuyền chạy đến xế trưa hôm sau (tức ngày thứ tư của cuộc hành trình) khoảng 1:15 ngày 23 tháng 11 năm 1984 thì thuyền đến được bờ biển của Kuala Trengganu, Malaysia, tôi thấy có hai chiếc ca nô của cảnh sát biên phòng Malaysia chạy ra cập hai bên hong chiếc thuyền và ra dấu bảo tài công chạy đâm thẳng lên bờ, tài công nghe lời và kéo hết ga, thuyền rướn lên bờ biển một phần ba con thuyền, chúng tôi người bò, người lết, người đi quờ quạng lảo đảo, kẻ cười người khóc, quần áo sốc sếch dơ bẩn, chúng tôi dìu dắt, đỡ đần nhau trong tình yêu thương của người đồng cảnh ngộ, từ từ rời bỏ con thuyền nằm bơ vơ một mình trên bãi vắng, rồi gôm lại lanh quanh trên bãi cát vàng tươi thắm mọi người như có chút an bình trong tâm hồn và đang được hít thở một thứ không khí có hai chữ tự do, nhưng dù khóc hay cười, trong từng khuôn mặt của mọi người vẫn hiện lên rõ ràng những nét rạng rỡ, tươi vui trên vùng đất tự do nầy, tất cả lần lượt đến khu vực được qui định của cảnh sát và được cấp phát ngay những gói mì gói thơm tho cũng như bánh và sửa để uống, khoảng hai tiếng đồng hồ sau tôi thấy họ làm hai bàn giấy ngoài trời và hai phòng khám xét dã chiến với bốn tấm vải bao quanh, rồi họ kêu mọi người ra đứng xếp hàng và nói-Ai là quân nhân, công chức làm việc trong chính quyền Việt Nam Cộng Hòa thì qua đây-Tất cả còn lại thì qua bên kia -Có ai là cộng sản không?Mọi người đều im lặng, vì là cựu quân nhân tôi đi qua hướng người ta chỉ đến phòng khám xét trước, sau đó qua bàn giấy khai sơ qua tên họ,tuổi, số quân,đơn vị,nơi đóng quân,..v.v.. rồi trở lại điểm qui định để tiếp tục chờ đợi, khoảng 5:50 chiều cùng ngày chúng tôi được xe chở khách của Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc thuê, đến đón và đưa về một trại chuyển tiếp Marrang thuộc Kuala Trengganu, nhìn lại con thuyền lần cuối trước khi bỏ lại sau lưng, lòng tôi thật có nhiều lưu luyến và thương mến vì nó đã mang chúng tôi ra khỏi bàn tay của tử thần trên vùng biển xa xôi, đã gồng gánh chúng tôi trong suốt cuộc hành trình gian khổ trên biển đông, cũng như trước đây bốn ngày tôi đã bỏ lại sau lưng một quê hương đầy thương yêu của cuộc đời, để bắt đầu cho những bước chân đơn học đòi làm viễn khách trên những đoạn đường tha phương cầu thựcÐến trại chuyển tiếp Marrang, sau khi ổn định chỗ nấu ăn, chỗ ngủ, nơi tắm giặc..vv., tôi đi một vòng và biết được có một số người từ ngoài đảo Pulau Bidong được chuyển vào trại Sungei Besi để lên bàn bốn tuyên thệ đi hoa kỳ và một vài quốc gia khác, nghe người ta nói gởi thư bên nầy nhanh hơn ngoài đảo, tôi cũng vội xin giấy mượn bút của người đi trước viết vội vàng lá thư gởi về cho mẹ tôi, chính là để báo tin cho gia đình tôi rằng tôi đã đến được Malaysia và đang hít thở một mùi không khí tự do mà tôi đã đánh mất tự hôm nào, những người được chuyển qua trại Sungei Besi rất nhiệt tình, người nào cũng giành lấy thư gởi giùm, tôi cảm thấy thật an ủi trong tâm hồn và thấy được tình người cho nhau trên bước đường tị nạn thật nồng thắm, chuyện đâu vào đó thì đã nửa đêm, chợt cơn mưa bão lại ồ ạt tới và kéo dài suốt bốn ngày, trong những ngày nầy nhân viên cao ủy tị nạn liên hiệp quốc cấp phát cho chúng tôi quần áo, thức ăn, thức uống thuốc men cho người yếu bệnh và có nói cho chúng tôi biết -Các bạn may mắn lắm đó, nếu các bạn đến trễ một ngày thôi là thuyền của các bạn có thể bị chìm với con bão cấp sáu nầy rồi Thật hú hồn cho tất cả mọi người, nhưng dù thế nào tôi cũng không quên cảm ơn thượng đế đã ban đến cho chúng tôi những tột cùng may mắn cũng như đã ban đến cho chúng tôi thật nhiều hồng ân trong cuộc hành trình vượt biển đông nầy, sau cơn bão dử, trời biển trở lại êm đềm chúng tôi được chuyển ra đảo Pulau Bidong, cũng thuộc Kuala Trengganu, để ổn định nơi tạm trú, thiết lập hồ sơ và chờ gặp phái đoàn của các đệ tam quốc gia vào phỏng vấn để được đi định cư nếu quốc gia đó nhận.Những ngày lênh đênh trên biển đã qua, giờ chúng tôi lại bắt đầu cho cuộc hành trình mới, những đoạn đường đang chờ đợi kế tiếp nầy có lẻ cũng không kém phần vất vả, tôi chỉ mong sao cho cá nhân tôi cũng như tất cả những thuyền nhân khác, đang gánh chịu những tột cùng khốn khổ còn có được nhiều may mắn hơn nữa trên bước đường đi tìm tự do cho cuộc sống, cũng như được đến một đệ tam quốc gia thật bình yên trong tâm hồn, riêng cá nhân tôi thì trên đoạn đường còn lại của cuộc đời, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào chăng nữa, thì những cảnh tượng hãi hùng đã đưa đến cho tôi cũng như muôn ngàn thuyền nhân khác trên biển đông vẫn luôn mãi là một bức tranh kinh hoàng của cuộc đời và trong tâm hồn tôi mãi mãi khắc ghi hình bóng con thuyền viễn xứ mang tên DN-1071/TS đã cưu mang 84 người chúng tôi vượt thoát đến bến bờ tự do, sau khi giành được chúng tôi từ đôi tay của tử thần trên vùng biển đông xa vắng, nhưng cũng đã bỏ lại trong lòng biển sâu một người dưới cơn giông bão và được chính thức trở thành con thuyền mang số MB 268 thuộc đảo Pulau Bidong, Kuala Trengganu, Malaysia ngày 23 tháng 11 năm 1984.Thuyền DN 1071/TS - Bà Rịa, Phước-Tuy, Việt NamThuyền MB 268 - Pulau Bidong, Kuala Trengganu, Malaysia