Tôi bất ngờ bị lời hát ngọt ngào kéo ra khỏi câu chuyện bạn bè! Ai ca Huế mà hay đến như vậy, tưởng như lung linh lăng tẩm và nắng Huế ở ngay đây. Nữ ca sĩ sao mà nom quen quá. Chiếc áo dài màu tím Huế dưới ánh đèn sân khấu thành mướt mát thiết tha. Cả gương mặt chị, cả vóc dáng thanh mảnh của chị dường như thoát vào lời ca. “Chén ngọc giờ chìm dưới đáy sông sâu, những lăng tẩm nhắc về thời quá khứ, mặt trời vàng và mắt em nâu, xin chào Huế một lần anh đến,...xin đừng lầm em với cố đô”1... Cả giọng hát lẫn người hát, quen quá, nhưng có lẽ tại ngồi xa quá, lại quên mất “hai cái đít chai” ở nhà, nên tôi đành bấm bụng nhịn nỗi tò mò đang cồn lên.
- Ô kìa, Thu, mày "nàm" sao mà như ngỗng ấy hở, đang ăn cơ mà?
- Tao thấy cái chị đang hát quen quá, mà chịu chẳng nhận ra được là ai.
- À, bà ấy cũng “nà” giang hồ danh “lữ” đấy, “noại” xịn đấy. Tư cách thì khó phân “noại lắm”, nhưng mà giọng ca, vô địch Matxcơva này đấy, nhất “nà” ca Huế và điệu gõ chén “ný ngựa ô”. Cả ca sĩ trong “lước” ra cũng phải thừa nhận, mặc dù bà ấy chỉ “nà” dân nghiệp dư, “lổi lên” cũng từ các chợ, từ nhà hàng “lày” đấy thôi.
Bỏ qua cái giọng “lước lon” của Hằng, tôi khe khẽ hỏi:
- Thế chị ấy tên là gì?
Hằng quay liếc xéo sang, dẩu cái mỏ đo đỏ bóng loáng mỡ, hỏi bồ của nó:
- Tên “nà” gì hở anh Trung? Mà có mấy cái “lốt” ruồi ở “nưng”, hình như “nà” anh cũng đã “OTK” rồi, hở?
- À, tên nhà hàng là Diệu Hương, chẳng biết có phải là tên thật không, mọi người thì gọi là Hương “xanh”, vì bà ấy chỉ thu ngoại tệ thôi. Nhưng cũng bõ lắm đấy, ha ha... - Trung cười, bộ ria mong mỏng, đêu đểu bò quanh mép hắn càng làm cho cái mặt choăn choắt của hắn đểu hơn, cặp mắt một mí tít lại, cái mũi hơi hếch, cố hếch lên, hít hít hơi.
Tôi cắm mặt vào bát xúp cua. Tôi thấy khó chịu với cái kiểu nói chuyện của Hằng và bồ nó. Nó là bạn học từ hồi phổ thông của tôi. Nó sang Nga trước tôi lâu rồi. Từ hồi còn “Et-xet-xet-xê-erờ”2 cơ. Nó thay đổi nhiều lắm rồi. Chả còn dáng dấp gì của một cô thôn nữ ven thành Hà nội nữa. Nó thường chửi tôi “đ. biết ăn mặc gì cả, “lom” như con cú già, có mà chó nó thèm rước”. Có lẽ chỉ còn cái điệu ngọng líu lô là bản chất cũ của nó thôi. Nhưng nó lại luôn luôn tạo điều kiện cho tôi có công ăn việc làm. Một phần nhờ có nó mà tôi học xong đại học. Lại còn về phép thăm nhà, có tiền cho mẹ làm quà. Tôi vẫn biết ơn nó, mặc dù đôi khi nó làm cho tôi cảm thấy tủi thân và nhục nhã quá lắm! Nó cặp với lão Trung này cũng lâu lắm rồi. Lão có lẽ già hơn nó hàng chục tuổi. Đầu tiên là chú, chú, cháu, cháu, sau rồi cũng anh, anh, với em, em ngọt xớt. Đầu tiên là cùng làm ăn, hàng hoá, tiền nong rồi thì tình cảm. “Bán được tất, quy ra xanh được tất” - Hằng bảo thế. Biết làm sao được! Mỗi người có quyền riêng của mình, vả lại họ bỏ nhà ra đi, ngoài việc kiếm tiền, họ còn tìm kiếm tự do hơn nữa cơ. Nếu mà bạn chê họ tục tĩu, chắc là họ sẽ trố mắt, nhòm vào mặt bạn như kiểu bạn là bát mắm tôm bốc mùi giữa mâm cỗ đầy giò, phó-mát và lợn sữa quay... ấy thôi. Người ta đã quá quen rồi, và lại tục tĩu đôi khi cũng là cách giải tỏa nỗi bực dọc trong lòng, phần nào đó như chủ nghĩa “AQ” của Lỗ Tấn ấy mà. Nhưng tôi thấy khổ sở thật sự! Tôi có cảm giác như mình bị xúc phạm! Lời ca Huế hay đến như vậy, thiêng liêng đến như vậy, và người hát dường như hát bằng tất cả đau đớn, nhớ nhung, thiêng tiếc của lòng mình. Chị vẫn say mê trên sân khấu. Ánh đèn mờ ảo. Tôi thấy mình dịu hơn, tôi quay hẳn ra, thả lòng theo lời hát của chị, theo “dòng sông chảy vào lòng, nên Huế rất sâu”3.
Tôi chưa được vào thành Huế bao giờ. Biết Huế qua những bài ca, điệu hát và qua giọng kể chuyện say lòng của cô Miện, hàng xóm với nhà tôi từ ngày xưa.
Ngày tôi còn bé, phố Trương Định chưa đông như bây giờ. Tụi trẻ con chúng tôi vẫn được giãi nắng một cách vô tư. Chúng tôi nghịch như quỷ sứ vậy. Mặc dù là "nhi nữ", nhưng tài "leo trèo" của tôi cũng có tiếng trong "giang hồ". Chẳng có cây sấu, cây bàng nào mà tôi lại vô tình bỏ qua. Sấu thì chua đến nao lòng, còn nhân bàng thì bùi biết mấy. Tụi con gái chúng tôi, thường giành giật nhau với bọn con trai, chinh chiến vì từng trái bàng già, từng gốc bàng, rồi thi nhau ngồi ghè nhân bàng, thả từng chiếc một vô miệng, nhâm nhi, nhấm nháp ngon lành thế! Chiều tối, tôi theo bọn trẻ lang thang, mùa hè thì tìm cách dính cánh cam và bọ dừa, chúng bay vi vút trên các cột điện, nhất là khu gần xưởng đậu. Bố mẹ tôi thường la ầm lên.
Nhà tôi ngay bên cạnh khu tập thể nhà máy kẹo Hải Hà, bức tường mới xây của nhà tôi đóng kín cửa sổ sau của mấy căn hộ bên khu nhà tập thể. Còn khu vườn dài ra phía sau nhà, được dựng một loạt rào cho nho leo, vô tình cũng khép cửa của một số nhà nữa. Thực ra, đất ở Hà Nội quá đắt đỏ, chả ai chịu nhường cho ai đâu. Nhưng bây giờ tôi mới hiểu, còn ngày ấy, đôi khi tôi cũng không hiểu tại sao, mấy bà bên tập thể cứ chửi xếch sang nhà tôi. May mà mẹ tôi hiền, chẳng bao giờ tôi thấy bà đôi co lại...
Cho đến một hôm, có một chiếc cửa sổ "mạo muội" mở ra vườn sau nhà tôi, lại còn dám đẩy bật tung cả vạt rào, lúc lỉu nho chín. Bố tôi tiếc lắm, mà trời mùa hè lại nóng nữa chứ, ông bực điên lên được! Giời đất, sao mà chịu nổi! Rồi ông chửi. Chao, ông chửi mới ngoa chứ! Như bà Tân "Lác" ở chợ Mơ ấy. Chả hiểu là ông chửi cong cong, vòng vòng, hay chỉ mặt đặt tên nữa, chỉ thấy bọn trẻ con cứ thập thà thập thò trước cửa nhà tôi để nghe, thi thoảng lại phụ họa bằng những tràng cười hắc hắc. Mẹ tôi thì đỏ bừng cả mặt. Nhưng mà cũng chả dám can đâu. Tụi tôi bị nhốt trong buồng, chỉ tội nỗi tò mò làm đau tai, mỏi mắt. Bố có “thẻ thương binh” đấy, lơ tơ mơ... đâu có được.
Bên "địch" chẳng thấy ho he gì, nhưng chiếc cửa sổ vẫn mở. Tiếng trẻ con khóc dai dẳng vẳng ra. Sau một hồi tá hỏa, chắc bố tôi cũng dịu lại, ông tu một hớp nước, chửi đổng "Mẹ bố tiên sư chúng nó, may mà biết điều im tiếng, không thì ông cho một trận. Biết điều thì thưa thốt, đền tiền nho cho ông, nếu không, ông thì ông lấy gỗ ông bịt vĩnh viễn cái cửa nhòm giời ấy lại, ông chẳng sợ thằng nào cả! Thích thì cứ đi mà kiện". Cả mấy mẹ con tôi đều cười, ông quay ra quát chúng tôi, rồi la đuổi lũ trẻ con vẫn thập thò trước cửa.
Câu đổng đểnh thế mà có tác dụng. Chiều tối, có một người đàn bà trẻ, nhỏ nhắn, bồng theo một đứa con, ngập ngừng mãi trước cửa nhà tôi. Chắc là thu hết can đảm, người đó mới dám bước vào. Thì ra đó là "kẻ địch", dám phá dây nho, đẩy rào, mở cửa ra vườn sau nhà tôi. Tôi và thằng em trai ngồi thu lu trên bao trấu dựng sát cửa sổ, sau nhà, căng tai lên nghe lỏm. Bố mà biết thì lãnh mấy cái bợp tai. "Chuyện người lớn, con nít cấm hóng hớt, nhớ chừa chưa!". Bọn tôi đã hứa hết các ngón tay từ lâu rồi, nhưng làm sao chống nổi trí tò mò. Nhưng giọng nói của người đàn bà ấy rất khó nghe. Chúng tôi chỉ nghe loáng thoáng, sau rồi chúng tôi cũng bỏ đi chơi, vì chán. Chỉ biết, sau lần đó, chiếc cửa sổ được tiếp tục mở, và thêm một số chiếc nữa, bung ra vườn sau nhà tôi. Nhưng bố thì chẳng nói gì cả. Chỉ có chị em tôi, thi thoảng bám vào các song cửa, kiễng chân, tò mò nhìn vào các căn hộ tập thể. Chẳng ai thèm quan tâm đến chúng tôi cả.
Cho đến một hôm, cô Miện bế em bé sang nhà tôi gửi. Mẹ nhận chăm em. Còn hai chị em tôi thì thò tay, rờ rờ má em. Thằng Chuột còn dám bẹo em bé, làm nó khóc váng lên. Mẹ cầm cây quạt nan, trở đằng sống lại, chúng tôi co giò chạy. Mặc dù chạy chơi loăng quăng, nhưng thi thoảng tôi lại vào dòm dòm em bé. Nó cũng hiền, nằm chỏng lỏn chơi, hai tay mút chùn chụt. Thi thoảng, mẹ tôi lại cho "thằng cún con của bác" ăn bột, còn tụi tôi thì chầu rìa, chờ được vẹt xoong. Mãi chiều tối, cô Miện mới đón em về. Khi nào cô rỗi, chị em tôi lại theo sang nhà cô chơi. Nhà cô bé tý, nhưng cô kể chuyện và hát rất hay. Tôi thấy cô rất xinh, chị em tôi thì tin thật sự vào các câu chuyện cổ của cô kể. Thằng Chuột nài mẹ “gò cho con cái quần bằng tôn, để con mới đi đánh nhau cơ!”. Bố mẹ tôi cứ rũ ra mà cười. Càng về sau, cô càng gửi em ở nhà tôi nhiều hơn. Có khi, em còn ở lại cả đêm với mẹ tôi. Bố tôi chẳng có ý kiến gì, thi thoảng ông lầu nhầu mấy câu chẳng rõ gì cả. Nhưng chẳng thấy bố bế em bé bao giờ.
Có hôm, cửa sổ nhà cô Miện tự dưng đóng lại, có tiếng cãi vã nho nhỏ, rồi to dần, tiếng cô Miện khóc. Một lúc sau, em Cún lại bị gửi sang nhà tôi. Mẹ bảo, nếu cô không ngại thì sang ở tạm nhà tôi. Cô cảm ơn, rồi nói đi có việc. Khi cô đi rồi, bố lại lầu nhầu: "Mẹ mày hâm thật, lại ôm rơm cho nó dặm bụng cơ chứ!". Mẹ chỉ cười. Từ đó, em Cún được gửi ở nhà tôi nhiều hơn. Chẳng biết người lớn thì sao, nhưng tôi và em tôi chóng quen lắm. Chúng tôi rất thích chơi và bẹo em. Nhất là tôi, con sâu vẹt xoong bột. Bố tôi thì cũng đỡ hơn, nhưng ông vẫn có vẻ "không thèm" với em Cún. Có một đận cô Miện đi vắng lâu lâu, em Cún ốm nặng phải vào viện Xanh-pôn nằm. Bố sọp cả người đi, chăm em chăm mẹ. Bố dường như quên cả chúng tôi. Không có mẹ, không khéo chị em tôi bị bỏ đói mất. Khi em về nhà, dần dần bố mới ăn ngủ bình thường trở lại. Mẹ nhìn bố dường như kính nể hơn nhiều. Chị em tôi thì thấy ghen ghen với em Cún. Bố bây giờ hay mua quà cho em hơn, nhất là sữa hộp, tụi tôi giờ chỉ chờ ăn theo thôi. Rồi một hôm, tôi đi học về, thằng Chuột chạy lại te tởn, thầm thì “em Cún đi rồi chị Thu ạ, cô Miện với một ông đi xit-đờ-ca về đón nó, cô cho em cả một lọ pô-li 4 vàng đây này”. Cả nhà tôi đều buồn!
Thế là từ đó, chúng tôi không gặp cô và em nữa. Nhà cô bên khu tập thể, được phân cho một bà béo ục béo ịch. Một lần nhòm vào cửa sổ, chị em tôi lãnh nguyên bát nước do thằng con của bà ta hắt ra. Bố chẳng nói gì cả, cũng không bắt họ đóng cửa. Bố mắng chúng tôi, thằng em tôi còn bị hai roi quắn mông vì tội khóc dai. Sau đận ấy, tôi bỏ hẳn trò bám song cửa sổ. Có lẽ tại tôi cũng đã bắt đầu lớn rồi, bắt đầu thấy xấu hổ. Bố mẹ tôi đều ngạc nhiên, tôi dường như ít đi chơi hơn, ham đọc sách hơn. Nhưng không ai biết được, đó là niềm ham muốn những câu chuyện cổ, những giấc mơ về chàng hoàng tử do cô Miện đã kể cho tôi “ Nếu con - cô bao giờ cũng gọi chúng tôi bằng con - chịu khó tìm, con sẽ gặp được hoàng tử của mình”. Những quyển truyện sờn rách, cô cho tôi, những câu chuyện cổ về hoàng tộc xứ Huế, về dòng họ Công Tằng Tôn Nữ của cô, in mãi trong tâm khảm của tôi. Những bài hát, bài thơ về Huế, bao gờ cũng làm tôi lay động, xao xuyến...
Lớn lên, thi vào khoa sử Đại học tổng hợp Hà Nội, rồi tôi được đi Nga du học. Nhà nghèo, lại chỉ biết có học hành. Sang Nga đúng vào thời kỳ khó khăn, chật vật lắm, tôi mới học xong bằng đại học của mình. Cũng may nhờ có bạn bè giúp đỡ, nhất là Hằng. Sau khi tốt nghiệp, tôi ở lại, vừa làm nghiên cứu sinh tự túc vừa đi chợ bán hàng - và lại cũng nhờ Hằng môi giới. Tôi thì xấu gái, tính tình lại cấm cảu, cũng thử yêu vài người, nhưng tôi chán nản lắm. Họ thực quá! Mà đời đã quá thực vậy, thực đến phũ phàng, vậy nên tôi muốn tìm một chút mơ thôi. Tôi thử, rồi lại thử! Chịu không tìm được! Cặp bồ dài dài và công khai - không có gan, vả lại bố tôi mà biết thì ông đào hố chôn sống tôi mất. Thôi, cố học xong rồi về thôi, tôi cũng chưa già lắm đâu! Không phải muốn trở thành ngoại lệ đâu, chẳng qua tôi không đủ can đảm vượt qua chính bản thân mình mà thôi. Biết làm sao được đây, đôi khi tôi khóc một mình, đôi khi nhìn con bạn Philippines cùng phòng kéo bồ về ngủ, tôi không chịu nổi lại bỏ đến nhà Hằng. Tôi biết, Hằng có cả bao kinh nghiệm kiếm tiền, cả bao tri thức để kiếm tình, nhưng lại hơi ít văn hoá, bù lại nó rất tốt với tôi. Mẹ bảo: “Viên ngọc nào mà chẳng có vết”. Dường như Hằng yêu thương tôi như em gái nó vậy. Chăm bẵm, quát nạt, chửi mắng nhưng lại rất chăm bẵm! Tôi thì quen rồi, vả lại, thế nào cũng được, nó có cuộc đời riêng của nó mà. “Mày muốn gì thì nói, nhưng đừng có mà chọc mũi vào chuyện của tao, nhớ chưa. Tao thích thì tao chơi, mặc mẹ tao, nhớ chưa!”. Và tôi thuộc bài một cách tự nguyện! Đấy, ngay cả buổi tiệc hôm nay, cũng do bồ nó chiêu đãi thắng quả. Nó bắt tôi đi bằng được, ngần ngừ chán, tôi cũng nhận lời.
Tôi quay sang Hằng:
- Giá mà có hoa nhỉ, tao sẽ tặng chị ấy.
- Cái con rồ dở này - Hằng nhìn quanh, nó đứng dậy, bước sang bên cạnh, rút bó hoa tươi đang cắm trong cái lọ để trên bàn - Cái này được không?
Tôi ngần ngừ, mấy cặp mắt xung quanh đang đổ dồn vào chúng tôi. Ngần ngừ, tôi cầm lấy bông hồng đỏ thắm được chen giữa những cành gíp-xa-phin li ti trắng muốt, tôi lý nhí:
- Cảm ơn mày!
- Chả có gì, mày mà không tặng, mày chết!
- Tao sẽ làm.
Tôi đứng lên, len giữa các dãy bàn chật ních tiến về phía sân khấu. Nhưng chị đã kịp khuất sau cánh gà. Tôi lúng túng, dường như có ai gọi, chị bước quay ra. Tôi ớ người, tôi chết đứng! “Em có gì muốn nói với chị ư? Mà chị trông em quen quá… có phải là Thu không, Thu còn nhà mẹ Sang không?..”. Tôi hoàn hồn, lập cà lập cập: "Cô... Miện, cô Miện... lúc nào con cũng mong gặp được cô!.” Cô ôm chầm lấy tôi. Chúng tôi cùng khóc. Chẳng biết từ lúc nào, tôi đã dúi được bó hoa vào tay cô. Sau phút ngỡ ngàng, cô đưa tôi vào một căn phòng nhỏ phía sau sân khấu. Cô hỏi nhiều lắm, tôi chả kịp trả lời, chỉ mải nhìn cô thôi. Cô quá trẻ so với cái tuổi của mình. Nom nét của cô mềm mại hơn tôi nhiều, mặc dù cô hơn tôi gần hai chục tuổi... Khi chia tay cô, tôi chỉ còn biết trên tay mình có tờ giấy ghi số điện thoại của cô mà thôi. Niềm vui quá lớn! Ở nơi xa xôi này, tôi được gặp lại hàng xóm tuổi thơ của tôi, người mà tôi luôn luôn khao khát được gặp lại, người mà nhen lên trong lòng tôi niềm say mê những kinh thành cổ, những phố xá phương Đông, những phong tục hoàng kim, và ước mơ về chàng hoàng tử của lòng tôi...
Sau buổi đó, thi thoảng tôi đến chỗ cô chơi. Cô thường là rất bận và có nhiều khách đàn ông. Cô tiếp tôi sang, thật đầy đủ, nhưng bao giờ cũng rất vội vã. Căn phòng của cô hầu như toàn màu tím và bao giờ cũng có mùi thơm thoang thoảng của trái cây. Tôi được biết em Cún bây giờ đã lớn, em đi học và ở với bà ngoại ở Huế. Cô vẫn gọi điện đều cho em. Sau những lúc bỡ ngỡ ban đầu, tôi chợt nhận ra cô có vẻ muốn xa tôi, mặc dù cô dấu nó rất khéo. Còn tôi, tôi vẫn rất muốn gần cô, tôi muốn biết về những bí ẩn của chính cuộc đời cô. Trí tò mò trẻ con còn nguyên trong tôi với những câu hỏi chẳng hề trẻ con tí nào luôn thúc dục tôi. Tại sao cô lại bỏ đi? Tại sao cô lại có em Cún? Cô có chồng chưa? Chú đi xit-đờ-ca là ai?... Nhưng với bản tính của mình, tôi chỉ âm thầm dò tìm mà chẳng dám hỏi cô. Hằng bảo: "Thà mày cứ hỏi thẳng bà ấy còn hơn, mày cứ làm thành chuyện quan trọng thôi, toàn là chuyện "đời thường" ấy mà, trăn trở làm cái gì cơ chứ?”. Tôi biết, nó lại đúng, nhưng tôi chịu thôi.
Cho đến một hôm, bất chợt cô đến ký túc xá của trường thăm tôi. Cô vẫn không vui khi tôi gọi cô tên Miện. "Sao cô lại tên Miện - tên cô là lạ nhỉ?" - Tôi hỏi cô ngày xưa. "Miện là vương miện ấy. Cô sinh ra vốn là một công chúa, nên bà đặt tên cho cô vậy". Thật là đơn giản, tôi tin vào điều đó, cho tới tận bây giờ. Vậy mà cô lại quên, vậy mà cô không nhớ? Cô ở chơi với tôi một đêm. “Cuộc đời cô khổ lắm. Ngày trẻ, mơ ước về tình yêu, cái tình yêu thiêng liêng mà biết bao năm tháng cô tôn thờ. Chú là người ngoải Bắc vô Huế công tác. Chú dạy ở trường cô, môn văn. Rồi chú ấy bỏ ra Bắc. Cô đã có mang em Cún rồi, mà gia đình cô thì khe khắt lắm, cô đành trốn nhà, theo ra Bắc. Hồi đó, chú là tất cả trong cô. Nhưng gia đình chú ấy không chịu. May có người bà con lo cho cô làm hợp đồng tại nhà máy kẹo Hải Hà. Nhưng chú ấy vẫn không chấp nhận cô. Còn cô vẫn yêu với tất cả sự ngu ngốc của mình. Đến khi biết chú có vợ, cô bỏ đi. Nhớ không, khi đó cô gửi hẳn em Cún cho ba mẹ cháu. Cô làm nhiều nghề lắm. Rồi dần dần cô lớn lên, cô thấu hiểu ra được nhiều điều. Có một người đàn ông si mê cô, bao cô sang Nga, chẳng còn gì ràng buộc cô cả, kể cả em Cún, vì cô muốn quên đi một quãng đời của mình. Cô muốn cắt đứt với nó, muốn được tự do, muốn được tung bay, muốn sống cho chính mình! Cô bây giờ không phải khổ, không thiếu tiền và cũng không thiếu đàn ông. Họ cung phụng cho cô, họ làm cho cô sung sướng, và họ sợ cô, dù là giả tạo. Thế đó, cô sống với tiếng hát và điệu cười của chính mình. Dù rằng nó méo mó, nhưng nó làm cô có thể say được nhiều hơn là tỉnh. Tình yêu là gì hả Thu? Làm gì có thứ tình yêu như trong những câu chuyện cổ? Làm gì có những hoàng tử hả con? Cuộc đời nó khô khan lắm, con ạ”...
Sau đêm đó, tôi không đến nhà cô nữa. Cô có nhắn mấy lần, nhưng tôi không đến. Cô đã làm tan vỡ giấc mơ của tôi. Thà cứ trần trụi như Hằng, thà cứ đay nghiến như Hằng, tôi còn chịu được vì trong lòng tôi có cô, có một quãng tuổi thơ cho tôi nhân cách. Tại sao cô lại kể hết ra vậy, tôi đâu có cần, thà là cô nói dối có hơn không? Tại sao vậy?... Tôi buồn lắm! Rồi tôi thù ghét cô!
Cho đến một hôm, cô nhắn tôi là cô ốm nặng, muốn tôi đến thăm. Khi tôi đến, thấy cô khoẻ bình thường. Cô vồ vập, chăm sóc tôi. Dường như cô cũng muốn kéo níu một cái gì đó rất mơ hồ, trong cô. Nhưng tôi chỉ có tức giận mà thôi. Cô càng chi chút cho tôi, tôi càng vùng vằng, cãi lẫy, tôi nói cô không ra gì cả. Mà thực ra tôi đâu có cái quyền đó. Chẳng qua là tính thù vặt của trẻ con và nỗi đau của lòng tôi bốc cháy đó thôi! Cô im lặng! Khi bỏ về, tôi vấp phải một người đàn ông ở cầu thang, ngửng lên tôi nhận ra lão Trung, bồ của Hằng. Xót xa quay lại, cô đang đứng đó, trước ngưỡng cửa mở rộng, nước mắt nhạt nhoà, nhưng dường như gương mặt cô đang đổi khác, tôi lao vút đi!
Tôi đã quên cô, hoặc cố quên hẳn cô. Tôi viết thư cho bố mẹ, kể về cô, giọng cay nghiệt và tàn nhẫn. Nhưng tôi vẫn yêu Huế, say mê tìm hiểu văn hoá Huế, và những nền văn hoá cổ khác nữa. Tôi yêu ngành sử của mình. Và tận trong đáy sâu của lòng mình, tôi vẫn mong ước được gặp hoàng tử của tôi, bên những lăng tẩm vàng son, lộng lẫy thách thức với thời gian, hay từ lòng biển xanh bước lên, những giọt nắng còn vương dài, lóng lánh trên giáp mũ. Tôi vẫn ước mơ!
Chú thích:
1: Lời ca Huế “Tạm biệt Huế” - được phổ nhạc theo bài thơ “ Tạm biệt” của nhà thơ Thu Bồn.
2: CCCP - Liên Xô cũ (phiên âm theo tiếng Nga).
3: Xem (1).
4: Thuốc bổ tổng hợp pô-li-vi-ta-min.
 

Xem Tiếp: ----