Vua Thiệu Trị từng sáng tác hai mươi bài thơ mô tả hai mươi cảnh đẹp ở Huế, gọi là “Nhị Thập Thần Kinh Thắng Cảnh”, trong tập “Thiệu Trị Ngự Chế Thi Tập” (Tập thơ do vua Thiệu Trị làm ra). Sau đây là 5 bài thơ tả cảnh Huế, tiêu biểu nhất, trong hai mươi bài thơ nói trên. I. HƯƠNG GIANG HỮU PHIẾM Nhất phái nguyên uyên hộ đế thành Thanh lưu sấn tảo nhạ lương sinh Ba bình xuân thủy lung yên sắc Chu trục thần phong động lỗ thanh Thiên tửu vị can nhu ngạn thọ Sơn hoa do luyến kết vân anh Phiếm hồi vị yết Thương lang khúc Đông khuyết phương thăng thụy nhật minh. SÔNG HƯƠNG SÁNG DẠO THUYỀN Một dải sông sâu bọc Đế thành Dòng trong hây hẩy gió mai lành Lặng yên sóng khói xuân lồng sắc Xao tiếng chèo bơi gió giục nhanh Cây bến láng lai đầm móc ướt Hoa rừng lưu luyến quyện vân anh Thuyền về khúc hát còn dang dở Cửa khuyết trời đông đã sáng banh. II. THIÊN MỤ CHUNG THANH Cao cương cổ sát trấn điền xuyên Nguyệt tướng thường viên tự tại thiên Bách bát hồng thanh tiêu bách kết Tam thiên thế giới tỉnh tam duyên Tăng hoằng ngọ nhật u minh cảm Liêu lượng dần tiêu đạo vị huyền Phật tích Thánh công thùy hải vũ Thiện nhân tăng quả phổ cai diên. TIẾNG CHUÔNG THIÊN MỤ Trên bến gò xưa chùa lập ra Bên trời tự tại mãi Gương Nga Tiếng ngân trăm tám tan trăm oán Thế giới ba ngàn giải nợ ba Chuông động giữa trưa miền tối ám Kinh gieo canh sớm đạo tăng gia Truyền công Phật Thánh tràn non nước Nhân quả ươm lành khắp chốn xa III. TỊNH HỒ HẠ HỨNG Trừng luyện hàm không nhất vọng xa Thiềm nha ảnh thủy trám tinh hà Lâu đài hoa thụ trường sinh cảnh Thiên địa sơn hà tứ hải gia Vũ phiến mạn giao thi hóa nhật Thuấn cầm uyển nhĩ nhập thi ca Y nhiên nhân trí tình vô hạn Đồng lạc giao phu thảo vật gia. HỨNG HÈ HỒ TỊNH Hồ nước mênh mông lướt mắt qua Thềm hiên in bóng loáng ngân hà Cây hoa lầu gác lâu dài cảnh Trời đất non sông bốn bể nhà Quạt Vũ chẳng dùng che bóng nhật Khúc Nam chừng lắng lẫn thi ca Nẩy sinh nhân trí tình lai láng Cây cỏ cùng thêm vui với ta. IV. THUẬN HẢI QUI PHÀM Hải bất dương ba tịch chiếu quang Viên thành kiệt các thiếu trùng dương Tịch phiêu hảo tiếp tranh hoa điệp Chu sử hân khan trạch mộc sương Cẩm lãm phi hồng phao hán biểu Nha tường tỷ tiết trục thương lang Khấu huyền khoản khoản thanh thanh khởi Giai thị thời điều kỷ thắng chương. BUỒM VỀ BIỂN THUẬN Rực ánh trời chiều sóng lặng yên Tròn xây gác lớn biển xa nhìn Thuyền giong mừng đón giành hoa bướm Ghe chạy vui trông đỗ nhánh chim Đuổi ngọn sóng xanh buồm sát cột Giăng khơi vòng mống sợi neo lên Nhịp đàn thánh thót từng âm hưởng Lừng lẫy thời danh khúc điệu tiên. V. BÌNH LÃNH ĐĂNG CAO Nguy nga bảo chướng đế thành nam Giai tiết đề cao ức thắng đàm Dịch liễn quang lâm tư sáng thủy Vũ trường tiên suất hiệu hô tam Thừa ân vũ trụ thiên niên tại Túng lãm càn khôn vạn cảnh hàm Bách nhị sơn hà tăng tráng cố Vân khai thụy khí ái tình lam. ĐỈNH NGỰ LÊN CAO Thành nam một ngọn đẹp vô ngần Nhớ tiết trùng dương chuyện đặt vần Lên viếng chuyến đầu xe một buổi Dân hô rượu múa tiếng ba lần Đất trời muôn cảnh thu đầy mắt Vũ trụ ngàn năm hưởng được ân Sông núi hai phần trăm vững giữ Mây bừng khí vượng quyện non xuân. Thiên Nhất Phương dịch CHÚ THÍCH: Bài I.- - Vân anh: chất khoáng trắng ánh sáng thấu qua được tựa như pha lê. - Đông khuyết: cửa khuyết (hoặc cung khuyết) ở phía đông, nơi vua ngự để các quan đến chầu. Bài II. - Nguyệt tướng: chỉ mặt Phật tròn như mặt trăng. - Tự tại: vẻ thỏa thích. - Bách bát: Các chùa sớm chiều thường đánh 108 tiếng chuông, để tiêu 108 điều phiền não. - Tam duyên: Ba cái duyên trong thuyết 12 nhân duyên của nhà Phật mà yếu tố chính là: Ta, Người, Sinh vật. Bài III. – Vũ phiến: quạt lông. Cũng có nghĩa là quạt của vua Vũ, đời nhà Hạ (Trung Hoa), người có tài trị thủy. - Thuấn cầm: đàn của vua Thuấn (thời cổ đại Trung Hoa) dùng gảy khúc Nam phong (gió mát). - Nhân trí: chữ trong sách Luận ngữ: nhân giả nhạo sơn, trí giả nhạo thủy: người có nhân ưa núi, người có trí ưa nước. Bài V. Giai tiết đề cao: làm thơ để vịnh nhân tiết - Trùng dương (mồng 9 tháng 9). Tiết nầy, người ta thường lên núi thưởng cúc nở hoa và ngâm vịnh. - Tư sáng thủy: (nay lần đầu): xe vua lên núi lần đầu. - Hiệu hô tam: (hô ba lần): khi vua đến quan quân hô vạn tuế ba lần. - Bách nhị sơn hà: (Sông núi hai phần trăm): Lấy điển tích nước Tần có địa thế hiểm yếu, với hai vạn người có thể chống lại trăm vạn địch quân.