Mùa đông, cả thành phố ngập trong lăn tăn li ti bụi nước. Cả thành phố, ấy là bà nhớ, chứ mùa này hiếm khi bà ra khỏi nhà. Nước lịch xịch không biết từ đâu mà rò rỉ ra lắm thế, cứ men theo rãnh của những vết xe mà chảy dọc ngang. Bà ngồi trên ghế, áo khoác dầy như một chiếc đệm bông, nhưng vẫn thấy lạnh. Lạnh như từ trong xương lạnh ra. Lúc nào bà cũng thấy mi mắt nặng trĩu, và buồn. - Hôm nay mấy độ, con? Căn phòng bên trong tối om, như cũng lạnh, như đang ngủ, thều thào. - Mười ba. Bà lẩm bẩm: "Mười ba sao rét thế nhỉ", rồi bà chợt nhớ phải nghĩ đến một cái gì đó để quên rét. ừ, quên rét cũng như quên chồng. Phải có một cái gì đó để vùi đầu vào, để tất cả lẫn lộn lên, để không gì còn định hình được nữa. Lúc ấy, là quên. Mấy khối nhà quanh cao vọt lên cũng cổ xưa và tàn tạ như trời đất, lác đác có những mái tôn che chắn chìa ra ngoài trông như những vảy cá khộ Mưa mà không phải mưa. Nghe nói trong nam mưa ào một cái là xong, là nắng. Là có thể ra ngoài được, có thể ra chợ gà tụ tập đầu hẻm để tán chuyện được. Nhưng có lẽ không bao giờ bà vào nam chơi nữa. Giờ bà chỉ còn một mình. Thời của bà dường như qua hẳn rồi. Nghĩ đến chuyện miền nam, bà chợt nhớ đến thự Hôm nay là thứ bảy, hẳn thể nào rồi cũng có thư của Lữ. Bà đã quen với nét chữ ấy rồi, với con tem bốn trăm đồng dán lệch một bên thỉnh thoảng bị quăn góc. Có lẽ mưa gió thế này lão đưa thư bệnh hoạn ấy cũng nằm nhà. Lão trông cứ như con cò, cái cổ dài cong cong xuống và ốm yếu thậm tệ. Dễ thường đã có đến hơn hai mươi năm nay lão làm công việc này. Lão hiền lành, bởi lão bao giờ cũng thản nhiên đạp xe qua đám đàn bà miệng mồm cãi nhau như sanh sứa mà tỏ ra hết sức bàng quan. Trước kia, lâu lâu lão mới ghé vào cái ngõ này, nhưng nửa năm nay lão ghé vào thường xuyên hơn, mỗi tuần một lần, vào thứ bảy. Lão se sẽ đến bên cửa nhà bà, rung cái thanh sắt cũ đã lung lay làm kêu lên những tiếng lanh canh. Bà nhận thư và không cần đọc cũng biết của ai. Chỉ một lần bà hỏi thư từ đâu đến. Lão cầm thư soi soi ngoài ánh sáng trời và buông thõng: "Thư miền nam", rồi lão cố gắng hơn, giọng lèm nhèm: "à quận, ừ quận... ". Vì chữ mờ quá, hay mắt lão mờ, lão bỏ dở, gửi lại lá thư với vẻ bực bội như thể vừa vô tình làm một việc quá đỗi dở hơi và vô vị. Từ đó, bà biết đó là thư miền nam. Bà nghĩ mông lung đến chặng đường dài mà nó đến đây. Nó đi tàu hay đi xe, nó lẫn lộn với biết bao nhiêu thứ hàng hóa khác mà bao giờ cũng đến được với người nhận đúng ngày, đúng giờ, đều đặn. Rồi bà buồn, rằng, chưa bao giờ bà được đi xa như thế cả. Đứa con trai bà đi học về, nói: "Sao mẹ lúc nào cũng buồn". Bà nói dấm dẳng: "Tại tao già. Người già hay buồn". Bà nói ra một loạt chữ già và giật mình, vì bà nào đã già đâu. Bốn mươi tuổi và tóc còn đen chắc hẳn là chưa già. Bà thấy mình rối rắm quá, tóc bà cũng luôn rối. Bà dò dép, vào tìm chiếc gương. Bà chải đầu bằng chiếc lược bám đầy tóc non của thằng bé: "Không khéo nó lại hói đầu như bố". Rồi bà lặng người, không biết tóc của bố nó ra sao rồi. Và bà nhận ra mình buồn không phải vì già, không phải vì xấu, mà vì không còn ai ở bên nữa. Thằng bé chỉ là một con thỏ con chạy ra chạy vào. Mẹ bệnh không biết, mẹ buồn không biết. Còn người biết bà hơn hết thảy, người chăm sóc bà hơn hết thảy lại đã đi rồi. Đã đi rồi và không một lá thự Hôm nay thứ bảy, lẽ ra vào giờ này đã có thự Và chiều nay, khi Hoài về bà có thể cười dịu dàng với cô rằng: - Có thư của cháu đấy. Bà sẽ đưa thư với cảm giác hân hoan của thiếu nữ khi nhận thự Mắt Hoài long lanh, tay cô chạm vào tay bà. Bàn tay con bé mềm, âm ấm. Bà cảm thấy được sự chờ đợi ở đó. Hoài sẽ dắt xe vào, giọng nhỏ nhẹ: - Cháu gửi xe. Và tay giữ lá thư trước ngực, cô chạy lúp xúp lên tầng năm. Đó là tầng cao nhất, có mái gà chuồi ra lớn nhất. Mỗi sớm mai lũ gà sẽ gào quang quác cả lên. Bà hình dung ra cô gái tung chăn trên giường, tóc xõa ra trên gối. Mà tóc con bé mượt gớm. Rồi nó sẽ bóc thư, tiếng giấy kêu sột soạt, đôi khi có cả mùi mực, vì địa chỉ bên ngoài viết bằng bút máy. Nó đọc đi đọc lại, giúi vào chăn, rồi lấy ra đọc lại từ dòng đầu tiên. Bà tưởng tượng và cười mình vớ vẩn. Nhưng mọi việc phải diễn ra như thế nào, không khác được, vì đó là thư của một người đàn ông, lại ở xa, tận miền nam. Còn những thư của bà đâu rồi nhỉ. Bao nhiêu lần thay đổi chỗ ở, dọn dẹp nhà cửa, mấy lá thư có lẽ đã chôn vùi cùng đám giấy lộn. Sao mình vô tình vậy nhỉ, sao mình tệ vậy nhỉ. Bà tiếc! Không khéo thằng bé nói bừa. Mười ba độ mà lạnh như thế này ự Có năm lạnh xuống bảy độ, chân cóng, bà không lết đi nổi. ấy là bà nói thế, vì lúc ấy bố nó sẽ bảo: "Thôi, để anh bế em", và ông bế thật. Bố nó khỏe thật. Lúc ấy bảy độ mà không rét như bây giờ, rét từ trong rét ra. Rõ là thằng bé nói bừa. Thế này mà mười ba độ à. Nhưng vào bên trong thì tối quá. Trong nhà kín gió nhưng tối om om như vậy thì còn lạnh lẽo thêm bao nhiêu lần. Ngồi đây biết đâu lão đưa thư lại đến, chứ không khéo, đã mưa gió mà lại không gặp ai, lão chỉ ậm ừ vài tiếng rồi đeo luôn cả thư đi thì toi. Bây giờ là mười hai giờ rồi. Mưa này thì ai cũng ở lại cơ quan mà ăn cơm, không dại gì đạp xe về trong mưa rét để dùng nhín một bữa ở nhà. Thành ra bà rảnh, không còn chiếc xe nào nữa để trông coi. Mà không có việc gì làm lại đâm ra nôn nóng hơn, bực bội hơn cái lão đưa thư chết tiệt ấy đúng là nằm nhà rồi. Lão không biết những ngày này một lá thư có thể làm ấm lòng người ta biết bao nhiêu. Nhất là thư tình. Giờ bà đã biết rõ ràng rằng đó là thư tình. Mỗi thứ bảy bà đều ngồi ngang cửa từ mười giờ đến mười một giờ sáng. Vào khoảng thời gian này, lão đưa thư sẽ đến sau khi đã đánh một vòng quanh những khu tập thể kế cận. Như vậy là đã được bao lâu rồi nhỉ. E cũng phải nửa năm rồi. Sáu tháng, bao nhiêu tuần bấy nhiêu thự Nhưng có gì mà chúng viết nhiều thế. Hoài kể, trong Nam ăn phở hết bao nhiêu tiền, gửi xe hết bao nhiêu tiền, nơi nào bán sách cũ, nơi nào triển lãm tranh, nơi nào... nơi nào... Ngồn ngộn. Hoài nói, thư nào cũng như thư nào, nhưng đọc hoài không chán. Bà nghĩ, làm sao mà chán được, lũ chúng mày. Rồi bà hỏi bao lâu cô viết thư một lần. Hoài đáp: "Hai tuần". Bà gật gù: "Con gái phải tỏ ra kiêu kiêu một chút mới được". "Nhưng mà cháu viết gì?". Hoài cười: "Gì cháu cũng viết cả. Mưa này, lầy lội này, gà vừa mới đẻ này, và cả cô nữa... ". Bà thốt lên: "ấy chết, cô không liên quan gì đến đấy". Hoài tủm tỉm: "Có chứ ạ, liên quan rất nhiều". Bà thấy vui vui. Chúng nó còn nhớ đến mình là tốt. Về sau này, bà cảm nhận được một điều rằng, thời gian trôi nhanh hơn người ta tưởng. Ngoảnh lại không còn gì nữa cả. Đã có khá nhiều tuổi để không thể nào bắt đầu trở lại, và cũng đủ tuổi để nhận ra thời gian qua đã trôi đi mà không đọng lại gì. Bà phân vân trong tình thế ương ương dở dở, rồi bà nghiệm ra rằng không làm kịp gì cho mình thì làm cho người khác cũng đáng lắm rồi. Chúng nó nhớ tới mình, hẳn chúng yêu quý mình. Chứ với bộ mặt cau có và hãm tài thì ai màng đến làm gì. Nhưng hôm nay thì không có thư thật rồi. Mưa cứ miên man khiến trời mau tối thêm. Khoảng chiều chiều tối là bà thấy lạnh hơn cả vì gió nhiều. Bà nói: "Gió từ đầm". Thằng bé sau này biết thêm một chút có khi cãi: "Gió từ Siberi đấy", nhưng bà vẫn muốn tin rằng đó là gió từ đầm, chỉ có từ đó mới có mùi vị này, mới âm thầm như vậy, mới quen thuộc, đều đặn như vậy. Tiếng ai đi lép nhép trên sình. Mọi người bắt đầu về nhà. Chút xíu nữa khói ở mỗi căn hộ sẽ luồn lách ra mờ mờ, hòa vào mầu mưa đùng đục sẵn có. Bà đón xe từ tay Hoài ở cổng, lặng lẽ nói: - Hôm nay cháu không có thư. Hoài xốc lại áo, chiếc áo bông đen tuyền lấm tấm những hạt nước lấp lánh. Mưa này rỉ rả suốt ngày mà không ướt, thế mới lạ chứ. Hai má cô đỏ hồng, môi cũng hồng, cô nói: - Hơn cả thư, cô ạ! Bà sửng sốt nhìn chàng trai theo sau, da ngăm ngăm đen, mắt nheo nheo. Hoài lặp lại, tinh nghịch: - Thư đấy. Anh ta lúng túng: - Dạ. À, dạ chứ không phải vâng. Nó đấy, người miền nam đây. Lữ. Da nó ngăm đen. Nắng nhiều mà. âu bà chờ đợi suốt ngày không được gì cũng đáng. Chúng nó kéo nhau đi, nước kêu sình sịch dưới chân. Lối lên cầu thang ướt đẫm những dấu chân và sình đất. Trong đám dấu chân ấy có dấu chân của chúng nó. Bà cảm nhận rất sâu sắc điều đó, những vệt nước ấy. Tất cả những gì người ta làm cũng chỉ tìm về một sự gần gũi như thế, bởi người ta sống rốt cuộc chỉ để yêu nhau, yêu một cái gì đó, chờ đợi ai đó và để ai đó chờ đợi mình. Sáu giờ sáng, đài báo trời có mưa, lại có gió. Mười độ. Lần này thì rõ rồi, không cần phải hỏi ai nữa. Nhiệt độ này đi ra ngoài có mà chết vì rét. Bà không chịu được rét, chỉ ở trong nhà mà bà đã ho khan. Chủ nhật mà ở nhà ho khan thì còn gì chán bằng, nhưng biết làm gì bây giờ. Mọi người giường êm đệm ấm, không ai muốn ra khỏi nhà. Sáng chỉ có mỗi Hoài xuống lấy xe, chào một tiếng: "Cháu đi". Vậy đó, phải có gì ghê gớm lắm, phải yêu ghê gớm lắm mới khiến người ta ra khỏi nhà được vào lúc này. Buổi chiều cũng như mọi buổi chiều khác, âm ụ Mưa rơi nhiều hơn khiến lối vào trở nên nhão nhoẹt. Lúc này, có lẽ chúng đang đi dạo đâu đó, loanh quanh phố hay loanh quoanh hồ. Mưa này đi dạo cũng tuyệt, nhất là với người phương xạ Làm sao có thể tìm được cái phong vị ủ rũ mà đằm thắm này ở một nơi nắng đầy quanh năm suốt tháng. Ngày xưa, bà cũng thường đi bộ như thế, đi không biết mỏi. Bố nó bảo là say đi bộ. ừ, saỵ Mà không chỉ đi, lúc đó người ta đi nhưng hướng về một cái gì khác, một người khác. Có lẽ người ta say thật. Thứ hai, thứ ba đều mưa như thế, ủ rũ như thế. Hình như mỗi lần đông đến muộn thì trời lại càng rét mướt hơn. Mỗi chiều, hai đứa đi về, đứa trước đứa sau, nom lặng lẽ. Hoài nói với bà: "Ngộ nhận", mặt buồn hắt hiu. Lữ nói với bà: "Ngộ nhận", mặt cũng buồn. Bà nghe, cười thầm: "Trẻ con". Và chiều cuối cùng, thứ tư, cả hai đứng trước cửa. Lúc ấy bà đang đứng trong góc tối, hơi lóa mắt khi nhìn ra. Hoài đứng khoanh tay, mặt lạnh và trắng bệt. Bà không nhận ra điều đó, bà hỏi: "Rét hả?". Hoài đáp, hờ hững: "Vâng ạ". Bà lại vô tình: "Hai đứa vào đây cho ấm". Hoài nói, giọng lạnh lẽo: "Để anh ta đi". Lữ mặt tím lại, không nói gì. Mắt nó nhìn nhưng như không nhìn ai. Và chợt hiện lên trong đầu bà hình ảnh bố nó ra đi cũng thế, cũng nặng nhọc như thế. Tất cả diễn ra như một cuốn phim. Phim cũ, phim mới sao mà giống nhau quá, mù mờ, u ám. Bà hiểu ra dần. Bà quay lại Hoài, định nói: "Con rồ", nhưng con bé đã nói, lời mệt mỏi và cộc lốc, như sỏi rơi xuống khe: "Anh về đi". Và Lữ đi, không một lời đáp. "Ngu xuẩn" bà nghĩ. Tại sao lại nói những lời như thế, tại sao lại không hề nói gì cả. Chúng nó còn quá dư dả thời gian chăng, chúng nghĩ rằng chúng còn quá trẻ chăng. Đám trẻ luôn nghĩ rằng chúng có thể phung phí tất cả vì còn thời gian để làm lại mọi điều. Ngu xuẩn. Và mưa lại rơi nhiều hơn, rét hơn. Ngày này qua ngày khác. Mùa đông đến muộn nhưng rồi đã đến, người ta cố tránh mùa đông, nhưng cũng không tránh được. Cái rét này có lẽ sẽ kéo dài qua cả Tết. Người ta sẽ đi mua đào dưới mưa lạnh cắt dạ Tết nhất, nhà này sẽ chạy lúp xúp vội vã qua nhà kia, hỏi han vài ba câu. Bà mường tượng ra mọi điều như vậy, y như thể Tết đã cận kề lắm rồi. Nhưng tính ra phải còn cả tháng nữa ấy chứ, bởi mọi người vẫn đều đặn đi làm, vẫn lấy xe và gửi xe, co rọ Hoài hằng ngày đi xuống, mặt đỏ hồng vì lạnh, nói nhiều hơn trước châm chọc mọi người nhiều hơn trước, nhưng không thấy vui, không thầy hài hước tí nào. Và hôm nay thứ bảy. Thằng bé xé lịch đưa bà, nói: "Nhà sắp hết lịch rồi, mẹ à". Bà nghĩ không khéo năm sau nhà mình cũng chẳng cần lịch nữa. Bà quay vào nhà, loay hoay đặt một cái lọ cũ lên bàn, rồi cầm lấy chổi lững thững ra cửa. Bà làm mà không biết mình đang làm gì. Ở cửa, bà đứng nhìn ra ngoài, thấy mưa rơi nối nhau thành từng sợi dài, mảnh dẻ. Gió nhè nhẹ lượn qua những ngõ ngách âm u giữa hai tòa nhà khiến bà rét thêm. Và bà nhận ra rằng sẽ không bao giờ nhận được những thư thứ bảy âm ấm vì nắng nữa. Bà sẽ không còn dịp đợi chờ một cái gì đó nữa. Ngực bà nhói lên. Bà không khóc được, bởi nó không phải là chuyện của bà, nhưng bà buồn. Buồn quá. 1-1995