Ông Bồi bái Tồn ở trong nhà thấy con ông buồn tủi, thấy vợ ông ưu phiền, ra ngoài đường gặp bạn làm làng, ông nghi người ta chê ông hèn hạ, có con không cho học, để cho ở đợ, đặng ủi áo, đánh giầy cho người ta, thấy mấy điền chủ ông sợ người ta cười ông sa mê vợ nhỏ, nên suy sụp đến bán ruộng bán đất. Ông buồn rầu mà cứ ôm ấp trong lòng, không than thở với ai được, thành thử ông chán nản, hết ham muốn hết biết vui. Ông vướng một chứng bịnh trầm trệ mà ngầm ngầm, là bịnh tâm thần bịnh trí não. Chớ chi ông có một người vợ hiền lành sáng suốt, hoặc có một người bạn thành thật thương yêu, biết tâm bịnh của ông, giúp ông bình tĩnh, làm cho tinh thần của ông phục hưng, thì có lẽ lần lần nguôi ngoai ông hết bịnh, mà vui sống với đời như thiên hạ. Ông mới quá 50 tuổi, sức khỏe chưa giảm suy, ruộng còn 25 mẫu, huê lợi mỗi năm có thể giúp cho nhà ông không dư dả, song cũng ấm no. Nếu ông biết sửa cảng đời của ông lại, bỏ dẹp cái quá vãng vì lầm lạc nên sanh buồn, rồi ông xây dụng cái tương lại khác hẳn, cái tương lai thiếu rực rỡ mà đầy ấm êm, thì khoảng đời sau chót của ông sẽ được vui vẻ thảnh thơi hơn muôn ngàn người khác. Ngặt cô Ba Mùi dốt nát ngu muội, giỏi nghề đánh bài tứ sắc, chớ không biết tâm lý, không hiểu đạo làm người vợ hiền. Cô chỉ biết xô đẩy cho chồng hư nhà, sạt nghiệp, chớ không biết chồng mang tâm bịnh, mà dầu có biết đi chăng nữa cô cũng chẳng biết làm sao mà cứu chữa. Còn anh em quen biết ở trong làng, trong xóm, thì ai cũng mắc tứ sắc hoặc mắc đá gà, họ lo cho phận họ còn không kham, họ có cần gì phải lo Bồi Tồn, hay lo cho người nào khác. Ai giỏi mặc ai, miễn gà của họ ăn độ thì họ vui mừng. Ai suy sụp thì mặc ai, miễn họ có tiền mà ngồi sòng thì họ thỏa mãn. Chỉ có Dì Ba Thới là người hay lưu tâm dòm ngó đạo nhà ông Bồi, mà mỗi lần ông ghé thăm, thì dì cứ phiền trách ông, phiền ông không ngó ngàng đến hai con, trách ông để cho Ba Mùi rù quến mà mê sa bài bạc. Người đó có thể chữa tâm bịnh cho ông được, ngặt cứ theo phiền trách ông hoài, mà phiền trách nhằm lý, bởi vậy ông vừa hổ thẹn, vừa kiêng nể nên ông không dám đến mà phân trần nỗi lòng đau khổ của ông. Chớ chi ông Bồi Tồn ở một mình trong cù lao giữa biển cả, không gặp người, không nói chuyện, thì có lẽ ông vùi lấp được nỗi lòng vào cảng trời nước mênh mông. Ngặt ông ở giữa xóm giữa làng, chung quanh ông ai cũng vui chơi, nhiều người nghèo khổ hơn ông mà họ vẫn tươi cười, có người thua khiếm nặng hơn ông nữa mà họ cũng không nao núng. Chung chạ với đám người giàu cũng ăn chơi, nghèo cũng ăn chơi, tốt cũng vui cười, xấu cũng vui cười, lâu ngày chày tháng rồi không khí cũng cảm nhiễm, thời gian kéo lôi, lần lần ông không thèm kể quấy phải làm chi, ông chập chủm làm theo người ta, trở vào lối cũ mà tìm thú xưa, ban đầu ông còn bợ ngợ ngại ngùng, riết rồi ông bước mạnh tiến sâu, ngày nào ông cũng đi chơi như hồi trước. Ba Mùi không dè chồng mượn vui chơi mà chôn lấp nỗi buồn, thấy chồng trở lại lối cũ đường xưa thì chị ta mừng thầm, mừng vợ chồng đồng bịnh đồng thuyền cho khỏi ai trách ai mà làm xào xáo gia đạo. Sẵn có năm ngàn đồng bạc trả nợ còn dư, ông mua hàng sắm cho con Mỹ vài áo quần, sắm cho nó được một đôi bông tai với một chiếc vàng chạm, còn bao nhiêu ông cất riêng để dành xuất phát trong nhà và bỏ túi đi chơi, không cho Ba Mùi biết tới. Mãn mùa gà rồi, ông kiểm điểm tiền bạc lại, thì vừa ăn xài vừa đi chơi, ông chỉ hao có 300, mà số lúa ruộng mùa rồi ông còn nguyên tám trăm thùng ông gởi ngoài chành ông chưa bán. Cứ theo cái đà đó, ông tiếp tục chơi đặng giải buồn, thì không hại gì mà phải lo ngại. Chỉ có nhiều đêm ông nằm êm, ông nhớ tới con Mỹ chưa có chồng, với thằng Quí đi đã hơn một năm rồi mà nó bặt tin, không gởi thơ từ cho biết nó ở đâu. Nhờ có đánh bài với đá gà mà ông Bồi Tồn quên hối hận về sự phối hiệp với Ba Mùi, và cũng nguôi được sự bán ruộng mà trả nợ. Còn số phận của Mỹ với Quí, là di tích của người vợ hiền hồi xưa, hễ ông nhớ tới thì ông bát ngát trong lòng, ông khó chịu hết sức. Trót mấy năm sau đó, ông muốn gỡ luôn hai mối sầu đó cho nhẹ bớt nỗi lòng, ông vùi thân vào chốn đỏ đen, tính cậy bài bạc với gà, chữa cái tâm bịnh, nó cứ theo cắn rứt ruột gan ông mãi. Ông chơi quá độ tự nhiên phải thâm thủng, thua hết số bạc để dành trong nhà, rồi ông tức giận nên vai mượn thêm để theo gỡ số thua. Chẳng dè sòng nầy sang sòng khác, bạc trước hụ bạc sau, bán ruộng được năm năm rồi bây giờ ông mắc nợ khác, số vốn đã lên tới bốn ngàn nữa, huê lợi ruộng không đủ mà trả tiền lời. Ông Bồi Tồn ngó lại sau lưng ông thấy buồn hiu, còn ngó tới trước mặt ông thấy tối tăm mù mịt. Ông không chán nản như năm trước,bây giờ sức ông đã yếu nên ông bắt lo sợ, như người đi lạc trong chốn núi non,tình cờ gặp một hố sâu thăm thẳm cản ngang trước mặt, bước tới nữa thì phải chết, thối lui thì không có đường. Vì lo sợ quá nên ông bịnh. Bịnh của ông Bồi Tồn lần nầy không phải là bịnh tinh thần như lần trước, ông bịnh từ đầu óc cho tới ruột gan, rồi buồn nỗi con, sợ nghèo cực, phụ thêm vô mà vật ông ngã quỵ, làm cho ông khi nóng khi lạnh, lúc mê lúc tỉnh. Ba Mùi lo sợ lăng xăng, rước thầy hốt thuốc, ép ông ráng ăn cơm cháo sao cho mau mạnh, xin ông ráng sống với vợ yếu con thơ. Thiệt Ba Mùi tận tuỵ nuôi chồng, nhưng vì hoặc mạng số của bịnh nhân đã gần cùng, hoặc lương y không giỏi, định chứng không nhằm, nên thuốc càng uống bịnh càng thêm trầm trọng. Dì Ba Thới nghe ông Bồi bái Tồn đau nặng, dì lật đật ra mà thăm. Ông Bồi Tồn nhướng mắt thấy dì Ba là bạn thân của vợ ông ngày trước, thì ông đưa tay ngoắc lại gần, rồi dường như ông muốn dặn dò việc chi, nhưng ông mệt mỏi quá nói không được, ông cứ lắc đầu chảy nước mắt. Đêm đó ông Bồi Tồn làm xung, rồi tắt hơi trên tay con Mỹ, nó ngồi trên giường ôm cha mà khóc kể, nghe rất thảm thiết đau thương. Ông Bồi Tồn chết trong nhà không có tới một trăm đồng bạc. Ba Mùi phải chạy đi quơ mượn, lại nhờ làng xóm tiếp giúp và điếu bái, nên đám ma của ông cũng được ấm cúng, ông cũng được nằm một bên với người vợ trước, phía dưới chưn mồ cha mẹ mà yên giấc ngàn thu. Chôn cất ông Bồi xong rồi, Ba Mùi biết chồng có vay bạc của bà Chủ Tư trong ấp 8, mỗi năm cứ nhập lời thay giấy, nên không biết chắc số là bao nhiêu. Chị ta làm lơ giả như không biết. Đến ngày đến tháng bà Chủ Tư ra mà đòi. Bà nói rõ theo giấy nợ thì số vốn là 4 ngàn, với tiền lời 8 trăm nữa, cộng hết là bốn ngàn tám. Ba Mùi than ông Bồi mất ông để lại không tới một trăm đồng bạc, bây giờ biết lấy chi mà trả nợ cho ông. Bà Chủ Tư phải vào đơn tại Toà Hộ mà kiện, rồi thi hành phát mãi sở ruộng 13 mẫu của ông Bồi đứng bộ tại Mỹ Huê, vì sở 12 là ruộng hương hoả, còn nhà là nhà thờ, bà thi hành không được. Nhờ vậy mà nẹ con Ba Mùi với con Mỹ còn nhà mà ở, còn 12 mẫu ruộng cho mướn lấy huê lợi mà đánh bài. Từ đây Ba Mùi ăn chơi tuy không dám liều lĩnh như trước kia, song chị ta cũng được sống với cảnh đời thảnh thơi, việc cơm nước có con Mỹ gồm lo, việc nặng nhẹ trong nhà có chú Tiền bao hết.