Quan Thừa chỉ Hồ Tông Thốc (1) là người hay thơ, lại giỏi lối mỉa mai giễu cợt, khoảng cuối đời Trần, phụng mệnh sang Trung Quốc, nhân đi qua đền Hạng vương có đề thơ rằng: Bách nhị sơn hà khởi chiến phong, Huề tương tử đệ nhập Quan Trung. Yên tiêu Hàm Cốc châu cung lãnh, Tuyết tán Hồng Môn ngọc đẩu không. Nhất bại hữu thiên vong Trạch Tả, Trùng lai vô địa đáo Giang Đông. Kinh doanh ngũ tải thành hà sự? Tiêu đắc khu khu táng Lỗ công. Dịch: Nom nước trăm hai (2) nổi bụng hồng, Đem đoàn tử đệ đến Quan Trung Khói tan Hàm Cốc cung châu lạnh, (3) Tuyết rã Hồng Môn đấu ngọc không (4) Thua chạy giời xui đường Trạch Tả (5) Quay về đất lấp nẻo Giang Đông (6) Năm năm lăn lộn hoài công cốc Còn được vùi trong mả Lỗ công (7). ° Nguyên văn: Hạng vương từ ký. Đề xong, ruổi ngựa trở về nhà trọ. Rượu say nằm ngủ, ông Hồ chiêm bao thấy một người đến nói với mình rằng: - Tôi vâng chỉ của đức vua tôi, mời ngài đến chơi nói chuyện. Hồ vội vàng sửa sang quần áo. Người ấy đưa ông đi về mé tả, đến một nơi cung điện nguy nga, quan hầu đứng sắp hàng răm rắp, Hạng vương đã ngồi chờ sẵn, bên cạnh có cái giường lưu ly, mời ông lên ngồi. Rồi Hạng vương hỏi rằng: - Bài thơ ông đề lúc ban ngày, sao mà mỉa mai ta dữ thế! ừ thì hai câu: "Thua chạy giời xui đường Trạch Tả, Quay về đất lấp nẻo Giang Đông" kể cũng là đúng, nhưng đến hai câu "Năm năm lăn lộn hoài công cốc, Còn được vùi trong mả Lỗ công", há chẳng phải là chê bai quá lời ư? Này như Hán làm nên vạn thặng (8) ta cũng làm nên vạn thặng. Ta không diệt được Hán, Hán lại có thể phong tước cho ta được ư? Đến ngay Điền Hoành (9) là một gã trẻ con, còn không tham tước của Hán, và hổ thẹn tự sát mà chết; huống ta đường đường một vị bá vương ở nước Sở, lại tự cam nhận lễ Lỗ công hay sao? Kẻ kia làm việc ấy, chỉ là đem quàng cho ta một cái tước vị hão, để đền bù lại sự hổ thẹn khi ở Hán Trung (10) thôi đó. Ta lại xin nói để ông rõ: Ngày nhà Tần sổ mất con hươu (11), người ta nổi dậy nhao nhao, tranh nhau bắt lấy. Ta bấy giờ vì ghét người Tần mà nổi quân đánh Tần, tháo răng bừa làm giáo, thổi cơm chiêm làm lương, tôi đòi đều là quân, hào kiệt đều là tướng, phá xứ Ngô như hủy tổ kiến, lấy đất Hoài như đốt lông hồng, một trận đánh mà quân Chương Hàm (12) phải tan, hai trận đánh mà miếu Tổ Long (13) phải sụp. Đức nghĩa ban ra, nhiều nước được dựng lại, oai lệnh truyền đi, bao kẻ thuận làm tôi. Đứng đầu Chư hầu là quân nước Sở, làm chúa Tam Tần là tướng xứ Sở. Thiên hạ theo về nước Sở có thể ngồi mà sai khiến được. Nhưng rồi Sở phải chết vì Hán, há chẳng phải là bởi trời ư? Vậy thì khi trời định giúp Hán, dù kẻ thổi kèn, dệt chiếu (14) cũng đủ để thành công; khi trời định diệt Sở, dù người cất vạc, nhổ núi (15) cũng không thể nói giỏi. Phương chi Chung Ly mạnh mẽ, chẳng kém Hoài Âm (16) á Phụ (17) khôn ngoan, thực hơn Nhụ Tử (18). Nếu ta nghe lời không cố chấp, nhân thua mà tính toán, thì ruổi Ô truy bốn vó mỏi chồn, há không đủ cày lật cung đình Phong Bái, thu Bành Thành (19) những quân tản mác, há không đủ đào tung miếu xã Viêm Lưu. Nhưng chỉ vì thương lũ sinh linh, nên mới đem tấm thân tám thước đường đường, ném vào tay lũ Vương ế (20). Vậy sự hưng vong của Hán, Sở, chỉ là do ở sự may rủi của trời mà thôi, há nên lấy thành bại mà so bì ư? Nhưng đời những kẻ thích phẩm bình nhân vật, có kẻ bảo không phải giời làm mất, có kẻ bảo giời có dính dáng gì. Thi nhân mặc khách thường thường đem chuyện ta diễn vào trong thơ. Có câu thì: Cái thế anh hùng sức nhổ núi, Sở ca bốn mặt lệ tràn lan, (21) Có câu thì: Vua chẳng ra vua, tôi chẳng tôi, Bên sông lập miếu cũng hoài thôi. (22) Ngày chồng tháng chất, có đến hàng nghìn bài chứ không phải ít. Nhưng chỉ có hai câu của Đỗ Mục: (23) Giang đông tử đệ nhiều tay giỏi, Cuốn đất quay về chửa biết đâu. Lời thơ ủy khúc trung hậu, hợp cách luật của nhà thơ, đọc lên ta còn vừa lòng đôi chút. Ngoài ra thì hầu toàn những lời phụ bạc, ta vẫn lấy làm bất bình lắm, nay tiện dịp ta nói để cho ông rõ. Ông Hồ cười mà rằng: - Lẽ trời việc người, cũng là đầu cuối lẫn cho nhau. Bảo mệnh ở trời, (24) Thương Trụ vì thế mà mất nước; bảo trời sinh đức, Tân Mãng vì thế mà bỏ mình. (25) Nay nhà vua bỏ việc người mà đi bàn lẽ giời, vì thế đã đến táng bại vẫn không tỉnh ngộ. Tôi bữa nay may mắn, được nhà vua vời đến tiếp kiến, muốn xin được nói thẳng không giấu giếm gì, nhà vua nghĩ thế nào? Hạng vương nói: - Vâng vâng, ông cứ nói. Ông Hồ nói: - Phàm xoay cái thế thiên hạ, ở trí chứ không phải ở sức; thu tấm lòng thiên hạ, ở nhân chứ không phải ở bạo. Nhà vua thì chỉ lấy quát thét làm oai, lấy cương cường làm đức. Chém Tống Nghĩa là một tướng mạnh, (26) vô quân đến đâu! Giết Tử Anh là người đã hàng, (27) bất võ quá lắm! Hàn Sinh vô tội mà bị luộc, (28) hình pháp trái thường; A Phòng vô cố mà bị thiêu (29), hung uy quá tệ. Cứ những việc của nhà vua làm thì được lòng người chăng? hay mất lòng người chăng? Hạng vương nói: - Không phải như thế. Này nhưe='height:10px;'>
Cửa hồ phất giấy song cao vắng người. Thần đem xuân lại cho đời, Đầu non chớm nở một trời mai hoa. Ông khách đọc xong than rằng: - Nam Châu nếu không có tôi, biết đâu phu nhân chẳng là tay tuyệt xướng, mà tôi nếu không có phu nhân, biết đâu chẳng là tay kiệt xuất trong một thời. Thế mới biết lời đồn quả không ngoa thật. Phu nhân nói: - Tài tôi nhỏ mọn, đâu dám so sánh với ngài trong muôn một. May mà gặp được tiên triều, hằng chầu hầu nghiên bút, cho nên mới thông lề luật, chắp nối thành bài. Một hôm tôi nhân đi chơi núi Vệ Linh (5), tức là nơi đức Đổng Thiên vương bay lên trời, tôi có đề rằng: Vệ Linh xuân thụ bạch vân nhàn, Vạn tử thiên hồng diệm thế gian. Thiết mã tại thiên danh tại sử, Anh uy lẫm lẫm mãn giang san. Dịch: Vệ Linh mây trắng tỏa cây xuân, Hồng tía muôn hoa đẹp cảnh trần. Ngựa sắt về trời, danh ở sử, Oai thanh còn dậy khắp xa gần. Sau vài tháng, bài ấy truyền khắp trong cung, đức Hoàng thượng rất là khen ngợi, ban cho một bộ áo. Lại một hôm, Hoàng thượng ngự ở cửa Thanh Dương, sai quan Thị thư họ Nguyễn làm bài từ khúc uyên ương. Bài làm xong nhưng Hoàng thượng không vừa ý, ngoảnh bảo tôi rằng: - Văn nàng cũng hay lắm, hãy thử đem tài hoa gấm cho trẫm xem nào. Tôi vâng mệnh, cầm bút làm xong ngay, có hai câu cuối thế này: Ngưng bích phi thành kim điện ngõa, Trứu hồng chức tựu Cẩm Giang la. Dịch: Biếc đọng kết nên ngói đền vàng, Hồng châu dệt thành lụa Cẩm Giang. Hoàng thượng khen ngợi hồi lâu, ban cho 5 đĩnh vàng, lại gọi là "Phù gia nữ học sĩ". Từ đó tôi nức tiếng đương thời, được làng văn mặc coi trọng, đại khái đều do sức giúp của đấng Tiên hoàng cả. Đến khi đức Thuần hoàng đế thăng hà tôi có làm bài thơ viếng rằng: Tam thập dư niên củng tử thần, Cửu chân tứ hải hựu đồng nhân. Đông tây địa thác dư đồ đại, Hoàng đế thiên khôi sự nghiệp tân. Tuyết ủng chân du vô xứ mịch, Hoa thôi Thượng uyển vị thùy xuân. Dạ lai do tác quân thiều mộng, Trướng vọng Kiều Sơn chức lệ cân. Dịch: Ba chục năm hơn ngự điện vàng, Chín châu bốn bể gội ân quang. Quy mô Hoàng đế trời cao cả, Bờ cõi đông tây đất mở mang. Tuyết hộ xe loan mờ mịt bóng, Hoa phô vườn cấm bẽ bàng hương. Quân thiều (6) đêm vắng mơ thường thấy, Xa ngóng Kiều Sơn (7) lệ mấy hàng. Ông khách nói: - Bài thơ tuy không có gì mới lạ nhưng thương nhớ có thừa, rất hợp với ý thái của người đời xưa. Thơ của người đời xưa, lấy hùng hồn làm gốc, bình đạm làm khéo, câu tuy ngắn nhưng ý thì dài, lời tuy gần nhưng nghĩa thì xa. Người thời này thì lại khác hẳn, hễ không có giọng đong đưa tất có giọng mỉa giễu, làm phú Cao đường thì bôi xấu Thần nữ (8), làm ca Thất tịch, thì nói mỉa Thiên Tôn (9), bày chuyện đặt điều, không còn cách nào tệ hơn nữa. Vì thế mà tôi những thương đời chán cảnh. Phu nhân lặng nghe, bất giác ứa hai hàng nước mắt. Ông khách hỏi thì phu nhân nói: - Tôi thờ đức Thánh Tông lâu năm rồi lại thờ đức Hiến Tông (10), nghĩa kết vua tôi, nhưng tình thật như cha con vậy, lúc chầu hầu, khi lui tới, không cần giữ ý tỵ hiềm. Không ngờ vì thế mà những kẻ thiển bạc, bày chuyện nói xằng, thường làm những câu thơ mỉa giễu. Như là câu: Quân vương yếu dục tiêu nhàn hận, Ưng hoán Kim Hoa học sĩ lai. Dịch: Quân vương nếu muốn khuây buồn nản, Hãy gọi Kim Hoa học sĩ vào. Và như: Yến bãi long lâu thi lực quyện, Lục canh lưu đãi hiểu miên trì. Dịch: Tiệc cạn lầu rồng sức thơ mỏi, Canh dài giữ đợi giấc nằm trưa. Sĩ quân tử ở trong danh giáo, thiếu gì thú vui hà tất lại lấy không làm có, trỏ phải ra quấy, đem chữ nghĩa ra mà đùa cợt như vậy. Ông khách nói: - Nào có một mình phu nhân như thế đâu! Xưa nay những người trinh liệt bị ngòi bút trào phúng làm cho bực mình biết bao nhiêu mà kể. Xem như Hằng Nga là tiên trên nguyệt điện, có kẻ vịnh thơ như thế này: Hằng nga ưng hối thâu linh dược, Bích hải thanh thiên dạ dạ tâm. Dịch: Hằng Nga hối trót ăn linh dược (11), Tẻ lạnh trời cao đêm lại đêm. Lộng Ngọc là gái phi thăng, có kẻ vịnh thơ như thế này: Như hà hậu nhật Tần Đài mộng, Bất kiến Tiêu lang kiến Thẩm lang. Dịch: Tần Đài sau giấc mơ đêm đó, Không thấy Tiêu lang, thấy Thẩm lang (12). Vào cửa hầu thì nói mượn Lục Châu (13), mỉa họ Vũ thì đặt chuyện Vũ Hậu thổ (14). Toàn những giọng nói xằng buộc nhảm. Ước sao đem được dòng nước sông Lô để vì người xưa gột rửa những bài thơ xú ác ấy đi. Phu nhân thu nước mắt rồi nói: - Không có tiên sinh biết cho, có lẽ tôi thành một hòn ngọc khuê có dấu vết, lấy gì mài cho sáng, rũa cho sạch được. Song đêm đẹp dễ qua, tiệc vui khó kiếm. Bữa nay vợ chồng tôi cùng tiên sinh hội ngộ, cái việc Hàm Đan, lấy một nước Triệu mới dựng, chống với nước Tần sói hùm, thành bại chỉ ở trong một hơi thở, còn mất chỉ ở trong chớp mắt. Vậy mà Nghĩa lần khân sợ sệt, chờ khi giặc mỏi lười, dùng dằng trùng trình, cản đường quân tiến tới. Nếu mà kế trong trướng không thi hành được, quân qua sông lại lữa lần thêm, thì dân chúng ở trong thành Triệu, sẽ lại có cái thảm họa hơn là ở Trường Bình (30) thủa trước. Vậy thì ta giết một Tống Nghĩa, mà cứu sống được tính mệnh cho trăm vạn sinh linh, có gì là quá! Vua các nước đều là chư hầu, đều có chúng dân, có xã tắc, tước thì của thiên vương phong cho, đất thì của thiên vương ban cho. Vậy mà Tần lợi dụng đất cát, ngông cuồng giáp binh, mổ Hàn thịt Triệu, hiếp Ngụy hại Yên, nam thì lừa Sở rồi bắt mà giữ lại, đông thì dối Tề để hãm cho chết đói. Nếu không lật đổ ngôi Tần và tru diệt họ Tần thì cái hờn cắn nuốt các nước, không biết ngày nào tiêu tan được. Cho nên ta giết một Tử Anh để trả mối thù diệt vong cho sáu nước, có gì là tệ. Ôm bụng trung lương là tiết lớn của kẻ làm tôi. Hàn Sinh thì không thế, khoe mẽ hợm mình, vong ân bội nghĩa, múa lưỡi để chỉ nghị quân thần, khua môi để buông lời sàm báng. Vì vậy ta đem làm thịt, để những kẻ bất trung biết mà răn sợ. Giữ thói tiết kiệm là đức tốt của người làm vua, Thủy Hoàng thì không thế, xây cung ở bên sông, mở đường ở ven núi, đắp nền cho cao bằng những hờn oán của dân, chứa kho cho đầy bằng những máu mỡ của dân. Vì vậy ta đem đốt đi để những vua đời sau biết nên dè sẻn. Nếu lại buộc tội về những điều ấy thì ta trộm lấy làm không phục. Ông Hồ nói: - Thế thì sáu kinh trong lửa, đốt sách Thánh nhân, thước kiếm trên sông, giết vua Nghĩa đế, những việc ấy chi mà nhẫn tâm như vậy! Sao bằng người Hán: sợ lỗi phận vua tôi thì nghe lời Đổng công làm việc nhân nghĩa, khiến nền nếp đế vương hầu rối mà lại sáng; sợ thất truyền đạo học thì về đất Khúc Phụ, bày lễ thái lao, khiến dòng nguồn thi thư hầu đứt mà lại nối. Cho nên người ta có câu nói rằng: "Hán được thiên hạ, không ở cất dùng Tiêu, Trương, mà ở việc để trở (31) của ba quân, gợi lòng trung phẫn các hào kiệt; Hán giữ thiên hạ không ở quy mô rộng lớn mà ở việc thân đến tế ở Khúc Phụ (32), mở nền nương tựa cho đời sau". Nhà vua thì so ví làm sao được với Hán vương. Hạng vương nghẹn lời không biết nói ra sao, sắc mặt tái như tro nguội. Bên cạnh có một vị lão thần họ Phạm, tiến lên nói rằng: - Tôi nghe, làm người ta không ngoài trời đất để mà sống, làm chính trị không ngoài cương thường để dựng nước. Bầy tôi của Đại vương đây có người tên là Cữu (33) tiết cứng như tùng, lòng bền tựa đá, sa cơ không chịu sống nhục, liều mình để được thác mà vinh; nếu không phải nhà vua biết cách chống ngự thì sao có sự tử trung ấy! Truyện (34) có nói rằng: "Vua khiến bề tôi lấy lễ, bề tôi thờ vua lấy trung"; ở Đại vương đây, chính là đã đúng hợp với câu ấy. Chứ như kẻ kia, sai Ung Sỉ giữ đất Phong thì Ung Sỉ đầu hàng, (35) sai Trần Hy (36) coi nước Triệu thì Trần Hy làm phản; đạo cương thường hỏi ai là hơn? Hậu cung của Đại vương có bà họ Ngu, mệnh nhẹ lá thu, hồn theo bóng kiếm, gửi lòng thơm ở ngọn cỏ tịch mịch, chôn hờn oán ở cánh đồng hoang vu (37), nếu không phải nhà vua biết lẽ cư xử thì sao có sự tận tiết ấy! Kinh Thi có câu rằng: "Dạy vợ mình trước, sẽ trị nhà nước"; ở Đại vương đây chính là đã xứng đáng với câu ấy. Chứ như kẻ kia, Lã Trĩ ngông ngạo mà làm việc dâm tà (38), Thích Cơ được yêu, rồi đầy thân con lợn (39); lẽ cương thường hỏi bên nào hơn? Huống chi như trái lẽ trời mà bảo sẻ chén canh, yêu con bé mà coi thường gốc nước; (40) luân thường cha con hỏi rằng để đâu? Những người nghị luận ở đời sau, chẳng so nặng nhẹ, chẳng xét phải trái, lòng không suy nghĩ, miệng chỉ quàng xiên, đối Hán thì khen ngợi chẳng tiếc lời, đối Sở thì chê bai không tiếc sức, khiến đấng Đại vương của chúng tôi trong cõi u minh cứ phải chịu những lời mỉa mai cay độc. Vậy mong những điều nhơ tiếng xấu, phiền ông gột rửa giùm cho, cũng là một việc thú trong cuộc gặp gỡ của chúng ta. Ông Hồ thấy lời nói cũng hơi có lý, gật đầu hai ba lần, rồi ngoảnh bảo những người theo: - Các ngươi ghi nhớ lấy. Rồi đó canh tàn trà cạn, ông đứng dậy từ giã xin về; Hạng vương đưa chân ra đến cửa thì phương đông đã dần sáng rạng. Ông xốc áo vùng dậy, té ra là một giấc chiêm bao, bèn mua rượu và nem bày một lễ cúng ở đầu thuyền trước khi rời khỏi đấy. Lời bình: Than ôi, so Sở với Hán thì Hán hơn, sánh Hán với bậc vương đạo, Hán còn xa lắm. Sao vậy? Hồng Môn nổi giận, Thái công tha về, những việc ấy, Sở không phải là bất nhân; nhưng nhân nông mà ác sâu. Làm cỏ Dĩnh Xuyên, (41) giết hại công thần, những việc ấy, Hán không phải là không có lỗi, nhưng lỗi ít, tốt nhiều. Sở đã đành trái với nhân nghĩa, nhưng Hán cũng chỉ là giống với nhân nghĩa. Họ Hạng nước Sở không được là hạng bá giả mà vua Cao nhà Hán cũng là tẹp nhẹp. Kẻ trị thiên hạ nên tiến lên đến đạo thuần vương, còn Hán Sở nhân với bất nhân, hãy gác ra không cần bàn đến. Chú thích(1) Hồ Tông Thốc: người huyện Thổ Thành, nay là xã Thọ Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An; trú quán tại xã Vô Ngại, huyện Đường Hào nay thuộc tỉnh Hải Dương. Đời Trần Nghệ Tông (1370-1372) đi sứ nhà Nguyên, làm quan đến chức Hàn lâm học sĩ Thẩm hình viện sự, có tác phẩm Việt sử cương mục và Việt Nam thế chí, Thảo nhàn hiệu tần thi tập, nhưng hiện chỉ còn một bài thơ. (2) Non nước trăm hai: nhà Tần đóng đô ở Quan Trung, địa thế hiểm yếu, hai người ở trong có thể chống với 100 người ở ngoài. (3) Nói việc Hạng Vũ đốt cung A Phòng của nhà Tần. Hàm Cốc: cửa quan hiểm yếu của nhà Tần. (4) Tiệc ở Hồng Môn, Phạm Tăng định giết Bái Công nhưng Hạng Vũ không nghe. Bái Công thoát về được, Tăng tức giận ném vỡ tan cái đấu ngọc Trương Lương (Hán) biếu. ý câu thơ: đấu ngọc vỡ vụn như tuyết, không còn gì nữa. (5) Hạng Vũ bị vây ở Cái Hạ, đêm phá vòng vây chạy được đến Âm Lăng, hỏi đường, bị một ông lão nông ghét Sở lừa chỉ đi về phía tả; Vũ nghe theo bị mắc cái đầm lớn không còn đường chạy nữa. Vũ than là "Trời định làm mất ta". (6) Hạng Vũ chạy đến Ô Giang người lái đò khuyên qua sông sang Giang Đông rồi sẽ tính kế quay về, nhưng Vũ không nghe, tự tử. (7) Lỗ Công: tước Hạng Vũ được Hoài vương phong từ trước. Khi Vũ thua chết, Hán Cao Tổ lấy lễ công mà chôn cất. (8) Vạn Thặng: ngôi thiên từ có muôn cỗ xe. (9) Điền Hoành: họ Điền vốn là họ của Tề Vương, người nước Tần. Khi nước Tề bị diệt, Hoành tự lập làm Tề vương. Khi Hán diệt Hạng Vũ, Hoành đem thuộc hạ chạy ra hải đảo. Hán Cao Tổ sai sứ ra mời hứa phong tước vương, chí ít cũng là tước hầu; còn nếu không theo sẽ đánh. Hoành định theo, nhưng khi gần về đến Lạc Dương lại đổi ý, tự sát. Thuộc hạ đều chết theo. (10) Hạng Vũ từng phong cho Bái công tước vương ở Ba Thục và Hán Trung. (11) Con hươu: ví với thiên hạ. Nhà Tần sổ mất con hươu: nhà Tần bị mất thiên hạ. (12) Chương Hàm: tướng nhà Tần. Hạng Vũ và Hạng Lương đánh quân Chương Hàm ở Đông A hạ, đuổi đến Bộc Dương thì hoàn toàn phá tan. (13) Tổ Long: miếu thờ Tần Thủy Hoàng. Sứ giả Tần đêm đi qua Hoa Âm, có người ngăn lại bảo "Năm nay Tổ Long chết". Tổ Long chỉ Tần Thủy Hoàng, vì Long (rồng) là hình tượng của vua (Hoàng); Tổ là người mở đầu, ứng với chữ Thủy. (14) Kẻ thổi kèn dệt chiếu: chỉ Giáng hầu Chu Bột. Ông vốn người đất Quyển, sau dời sang đất Bái, thuở hàn vi thường phải dệt rèm trúc, thổi kèn đám ma kiếm sống. (15) Người cất vạc nhổ núi: chỉ Hạng Vũ. Hạng Lương khiến Hạng Vũ chiêu tập bọn Vu Anh ở Đồ Sơn. Anh nói: "Trong miếu Vũ vương có 3 chiếc vạc đá, nếu xô đổ rồi nhấc bổng lên được thì ta sẽ hàng." Vũ bèn xô đổ rồi lại dựng lên, sau đó cho một tay vào trong vạc nhấc lên đi vòng trước cửa miếu ba lần, bọn Vu Anh đều bái phục. Chữ nhổ núi (bạt sơn), xuất phát từ bài ca tuyệt mệnh của Hạng Vũ: Lực bạt sơn hề khí cái thế (sức có thể nhổ núi, khí trùm trời đất). (16) Hoài Âm tức Hoài Âm hầu, tước phong của Hàn Tín, tướng giỏi của Lưu Bang. Chung Ly: có lẽ là tướng của Hạng Vũ, chưa rõ điển tích. (17) á Phụ: tức Phạm Tăng, mưu sĩ giỏi của Hạng Vũ. (18) Nhụ Tử: có lẽ chỉ Trần Bình, người phụ tá có nhiều mưu lược của Hán Cao Tổ. (19) Phong Bái, Bành Thành: Phong Bái: chỉ quê hương Hán Cao Tổ, vì ông người ấp Phong, huyện Bái; Bành Thành: đất của Tần. Hạng Vũ diệt Tần, đóng đô ở đấy. (20) Vương ế: Hạng Vũ bị thua ở Ô Giang, Vũ ngoái nhìn người kỵ binh Hán là Lã Mã Đồng hỏi: "Anh có phải là bạn cũ của ta không?" Mã Đồng nhận diện rồi chỉ cho Vương ế: "Đây là Hạng vương". Vũ lại hỏi: "Ta nghe nói Hán vương treo giá đầu ta ngàn vàng và tước vạn hộ. Ta cho ngươi đấy!" Nói rồi tự vẫn. Vương ế liền cắt đầu Hạng Vũ nộp cho vua. (21) Sở ca bốn mặt lệ tràn lan: Hạng Vũ đến Cai Hạ, binh thiếu, lương hết, không đánh thắng được quân Hán lại bị vây bốn mặt. Trương Lương dạy quân Hán hát tiếng nước Sở đêm đến cất tiếng ca. Hạng Vũ nghe thấy bốn bề đều hát những bài ca nước Sở, thất kinh nói: "Hán đã lấy được Sở rồi sao? Sao người Sở đông như vậy?" Rồi đang đêm dậy uống rượu trong trướng, khóc ròng, thuộc hạ đều khóc, không ai ngẩng lên được, quân tướng đều tan rã. (22) Hai câu này trích trong bài thơ của Vương An Thạch, Tể tướng thời Tống Thần Tông. (23) Đỗ Mục (803-853), một nhà thơ có tên tuổi thời Văn Đường; hai câu này trích trong bài Đề Ô Giang đình. (24) Mệnh ở trời: vua Trụ nhà Thương bạo ngược, trung thần khuyên can thì nói "đã có mệnh trời". (25) Tân Mãng: Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán, đổi quốc hiệu là Tân nên gọi là Tân Mãng. Hán Quang Vũ khởi binh đánh, Mãng nói: "Trời đã sinh đức ở ta, quân Hán làm gì được ta?" (26) Chém Tống Nghĩa...: Sở Hoài Vương phong Tống nghĩa làm Thượng tướng, hiệu Khanh tử Quán quân, sai đem quân đánh Tần cứu Triệu. Tống Nghĩa trùng trình không tiến quân, Hạng Vũ liền vào trướng chém chết. (27) Hạng Vũ đem quân đánh Hàm Dương, Tần vương là Tử Anh đã hàng, vẫn bị giết. (28) Hàn Sinh bị luộc: Hàn Sinh khuyên Hạng Vũ nên đóng đô ở Quan Trung vì thế đất hiểm trở, phì nhiêu, có thể là nơi dựng nghiệp bá được. Vũ thấy cung thất nhà Tần đã bị đốt sạch, có ý muốn trở về Đông liền bảo: "Phú quý mà không trở về cố hương thì như mặc áo gấm đi đêm còn ai biết đến nữa". Hàn Sinh tức lui về nói: "Thế gian nói "người Sở là con khỉ đội mũ" quả như vậy". Chuyện đến tai Vũ, biết Hàn Sinh nói mình, Vũ giận sai giết chết bỏ luộc. (29) A Phòng... bị thiêu: A Phòng là một dãy cung điện rất lớn liên tiếp nhau đến 300 dặm, cứ 5 bộ có một lầu, 10 bộ có một gác, lại dẫn nước hai con sông lớn vào đến chân tường bao cung điện. Sau bị Hạng Vũ đốt, hiện còn di chỉ ở huyện Tân An, tỉnh Thiểm Tây. (30) Cái họa Trường Bình: Liêm Pha đóng quân ở Trường Bình, cố thủ không ra đánh. Triệu vương cho Triệu Quát đến thay. Quát đổi luật lệnh, dùng người dễ dãi, mở cửa thành đánh Tần, trúng kế kỳ binh của Vũ Anh Quân bị đại bại. Hơn 40 vạn quân Triệu đều hàng Tần, bị Vũ Anh Quân lừa giết chết hết. (31) Hạng Vũ giết vua Nghĩa đế nước Sở, Hán vương theo mưu kế của Đổng công cho ba quân để tang, gợi lòng trung nghĩa của họ và kích động hào kiệt trong thiên hạ. (32) Khúc Phụ: quê hương Khổng Tử. (33) Cữu: Tào Cữu, Đại Tư mã nước Sở. Hạng vương sai Cữu giữ thành Cao, dặn cố thủ không được đánh. Quân Hán khiêu chiến mấy lần không được liền dùng kế nhục mạ Cữu suốt mấy ngày. Cữu nổi giận đem quân vượt sông Tỵ thủy mà đánh. Quân lính mới sang được nửa sông thì bị đánh bại, vật báu của nước Sở đều bị lấy hết; Cữu và Tưnym>